Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam

 Nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị ttrường nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN dựa trên sự đa dạng hoá về các loại hình sở hũu, tự do kinh doanh trên thị trường. Sự thiếu vốn đầu tư vào các nghành kinh tế mũi nhọn luôn là vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp nhà nước trong công cuộc cải cách nền kinh tế nước nhà thành một nức có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trong khu vực và trên thế giới.

Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xã định được rằng cải cách doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để - trong đó:

 Cổ phần hoá là một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN hoạt động có hiệu quả hơn

Qua cổ phần hoá. Hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp, và chính từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau khi cổ phần hóa sẽ trở thành Công ty Cổ phần và hoạt động theo Luật Công ty.

Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lý kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản lý trong sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo.

 

doc21 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1114 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn quá độ để hình thành công ty cổ phần. Hợp tác xã (HTX) và Công ty chung vốn là 2 loại hình chủ yếu của hình thái này. Hợp tác xã là hình thái kinh doanh của những người sản xuất hàng hoá nhỏ nhằm chống lại quá trình tan rã và phá sản của họ trước phương thức kinh doanh TBCN. Các HTX chủ yếu là HTX tín dụng, HTX cung tiêu, HTX sản xuất... từ chỗ thống nhất về vốn liếng về mua và bán sản phẩm, dần dần loại hình HTX xâm nhập vào trong sản xuất hình thành nên hình thái kinh doanh HTX như là sự thống nhất của quá trình tái sản xuất: từ sản xuất đến lưu thông và huy động vốn. Trên cơ sở góp chung tư liệu sản xuất, vốn liếng và sức lao động các HTX tiến hành kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong hưởng lợi và chịu rủi ro. Do sự chi phối của chế độ tín dụng đang ngày càng phát triển thì hình thái kinh doanh HTX ngày càng phụ thuộc vào các quan hệ kinh tế TBCN. Hơn nữa, với tính chất lỏng lẻo trong tổ chức, chỉ hoạt động trong 1 lĩnh vực nhất định, không chấp nhận rủi ro nên không kinh doanh quy mô lớn. Do đó ít có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh nên bị thu hẹp về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... Ngoài hình thái kinh doanh HTX của những người sản xuất nhỏ còn có hình thái kinh doanh Công ty chung vốn của các nhà tư bản với mục đích giành chiến thắng trong cạnh tranh, giảm sức ép của tín dụng ngân hàng và các hình thức vay mượn khác. Đặc điểm chung của loại hình công ty này là góp vốn thiên về thân nhân, trách nhiệm pháp lý vô hạn và cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đơn giản. Vì vậy, vào thời kỳ đầu của sự phát triển phương thức sản xuất TBCN khi mà cạnh tranh còn đang thống trị thì loại hình này rất được ưu chuộng, nó phản ánh một bước tiến của chế độ tín dụng. Tuy nhiên sau này do trách nhiệm pháp lý không hạn chế trong lĩnh vực kinh doanh chung vốn làm cho nó mang tính mạo hiểm quá cao, do đó rất khó khăn trong việc huy động một số vốn lớn. Thêm nữa sự ràng buộc của nó hết sức lỏng lẻo có thể bị giải tán bất cứ lúc nào nếu một người chung vốn muốn rút lui. Những hạn chế này làm cho hình thái Công ty chung vốn cũng bị thu hẹp dần về những ngành kinh doanh nhỏ lẻ, nhường chỗ cho các hình thức Công ty cổ phần ra đời. Sự ra đời và phát triển của chế độ tín dụng đã góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản bằng việc đẩy nhanh quá trình tuần hoàn và chu chuyển các loại vốn, tăng nhanh quy mô sản xuất và thúc đẩy quá trình xã hội hoá sở hữu trong nền kinh tế thị trường TBCN. Đồng thời nó đã tạo cơ sở cho việc hình thành thị trường vốn đầu tư và thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của các Công ty cổ phần. Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán đã giúp cho các công ty mở rộng và xâm nhập ngày càng mạnh mẽ ra hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế TBCN. Công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Sự phồn vinh của các Công ty cổ phần luôn đảm bảo cho sự thịnh vượng của thị trường tài chính, ngược lại sự phát triển của thị trường tài chính luôn tạo điều kiện cho các Công ty cổ phần sinh sôi nảy nở. Tóm lại, trải qua thời kỳ lịch sử phát triển lâu dài từ hình thái sơ khai là doanh nghiệp một chủ rồi đến hình thái kinh doanh chung vốn và cuối cùng là Công ty cổ phần, Công ty cổ phần đã thực sự trở thành một phát minh quan trọng nhất trong lịch sử phát triển các hình thái doanh nghiệp kể từ cuộc Cách mạng trong công nghiệp của TBCN chứ không đơn thuần chỉ là sản phẩm thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường. 2.Vai trò của Công ty Cổ phần trong sự phát triển của kinh tế thị trường Công ty cổ phần ra đời đã đóng góp vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trước hết, Công ty cổ phần là kết quả của sự vận động tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh về tư liệu sản xuất. Nó cho phép đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. Đồng thời Công ty cổ phần cũng tạo điều kiện thuận lợi cho di chuyển tư bản, phân tán bớt rủi ro cho những người đầu tư trong môi trường cạnh tranh. Việc hình thành Công ty cổ phần theo Mác đã: ”trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau) đối lập với tư bản tư nhân: còn các xí nghiệp của nó biểu hiện ra là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. Đó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân trong khuân khổ của bản thân phương thức sản xuất TBCN”. Công ty cổ phần mang những đặc điểm cho phép thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường mà các hình thái khác không thể đáp ứng được. Đó là: xét về mặt pháp lý công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần, các cổ đông chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty trong giới hạn số tiền mà họ đóng góp. Trong trường hợp công ty bị phá sản thì họ chỉ mất số tiền đã đầu tư vào công ty mà thôi, không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ hoặc chung vốn. Bằng cách bán cổ phiếu, trái phiếu cho những người có vốn muốn đầu tư để gia tăng thu nhập, nó đã làm cho họ không e ngại những hậu quả tài chính sẽ xảy ra với gia sản của mình. Xét về mặt huy động vốn: nó cho phép huy động một số vốn lớn trong xã hội bằng cách có thể định giá cổ phiếu thấp để khai thác được cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công chúng. Việc mua cổ phiếu không những mang lại lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn những khoản thu nhờ việc gia tăng giá trị cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Ngoài ra các cổ đông có quyền được tham gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn, thêm nữa cổ đông có quyền được ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành trước khi chúng được đem bán rộng rãi cho công chúng. Do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý mà những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phầnkhông trực tiếp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác chức năng đó cho bộ máy quản lý của công ty. Bản thân công ty được pháp luật thừa nhân như một pháp nhân độc lập tách rời với các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó, công ty cổ phần tiến hành tất cả các hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính mình và nhận trách nhiệm đến cùng với các cam kết tài chính của công ty. Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần có Đại hội cổ đông - có quyền quyết định tối cao: bầu hoặc bãi miễn Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị - có trách nhiệm phân chia lợi nhuận, sửa đổi Điều lệ công ty, bảo toàn và phát triển giá trị các khoản vốn đầu tư của cổ đông... Ban giám đốc có trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động quản lý kinh doanh. Cổ đông cũng có thể bầu ra Ban kiểm soát thực hiện việc kiểm tra giám sát hoạt động của công ty để bảo vệ lợi ích cho những người góp vốn. Chính vì những ưu việt của mình về trách nhiệm pháp lý, cơ cấu tổ chức chặt chẽ, rõ ràng... mà hình thái Công ty cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường khi có sự phát triển của thị trường chứng khoán - giúp việc giao dịch mua bán cổ phiếu, trái phiếu trở nên vô cùng dễ dàng. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán vừa duy trì được sự ổn định của doanh nghiệp vừa tạo nên sự di chuyển linh hoạt của các luồng vốn xã hội. Ngày nay, hàng ngàn tập đoàn công ty khổng lồ được hình thành theo hình thái Công ty cổ phần đã góp phần tạo nên sức mạnh kinh tế của một quốc gia (do biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất) và tham gia đắc lực vào các qúa trình quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế. III. Tiến trình Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước Sớm nhận thức được tầm quan trọng cũng như sự nan giải trong tiến trình thực hiện, chủ trươngCPH một bộ phận DNNN đã được Đảng và Chính phủ đặt ra từ đầu những năm 1990 và chính thức triển khai từ giữa năm 1992 với những văn bản: - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 11/1991)đã ghi: “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. - Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá 7 (tháng1/1994) chỉ rõ CPH nhằm thu hút thêm vốn cho doanh nghiệp. - Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chỉ đạo của DNNN (số 10 NQ/TW) đã chỉ rõ: tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên.... và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp”. - Thông báo số 63 TB/TWngày 4/4/1991 của Bộ chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. - Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khoá VIII ngày 26/12/1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991- 1995 đã ghi: “Thí điểm về việc cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản: - Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) về tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. - Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm và giao nhiệm vụ cho mỗi bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. - Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. - Nghị định số 28/CPngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. - Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996. - Chỉ thị số 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy triển khai vững chắc CPH doanh nghiệp nhà nước. Hơn 30 doanh nghiệp đã ký với Bộ Tài chính để thí điểm thực hiện CPH và 3 DNNN xin chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị số 84/TTg. Sau 4 năm thực hiện Quyết định 202/CT có 5 doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần; 1. Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ Giao thông). 2. Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (TP HCM). 3. Công ty cổ phần Giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp). 4. Công ty Cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An). 5. Công ty Chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp). Trong đó, doanh nghiệp đi tiên phong trong chủ trương CPH là Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Tổng Công ty Hàng hải), tiếp sau là Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh TP HCM. Hai Công ty này đã hoàn thành vịệc CPH và chính thức hoạt động theo hình thức Công ty Cổ phần từ ngày 1/10/1993. Hai DNNN chuyển thành Công ty Trách nhiệm hữu hạn là Công ty dịch vụ Thương mại tổng hợp quận Hồng Bàng (Hải Phòng) và Công ty Gạch Bông Đức Tân (TP HCM). Sau 4 năm thực hiện đã đúc rút được một số kinh nghiệm để bổ sung và sửa đổi chế độ về CPH, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ra Nghị quyết số 28/CP thay cho Nghị quyết số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Thực hiện Nghị định 28/CP công tác CPH đã được quan tâm hơn, các ngành các cấp đã triển khai một số việc sau: - Củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban Chỉ đạo CPH, kiện toàn và thành lập các Ban Chỉ đạo CPH ở địa phương. - Một số bộ, địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương, chính sách về CPH DNNN cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Xây dựng, tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Bình Định, tỉnh Quảng Ninh.... Tuy nhiên, còn nhiều địa phương và ngành chưa chú ý đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp hiểu chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là i trong những nguyên nhân gây chậm chễ trong quá trình triển khai thực hiện CPH doanh nghiệp. Đến đầu năm 1998 có 36 tỉnh, thành phố, bộ, ngành và các Tổng Công ty 91 đã đăng ký hơn 200 doanh nghiệp thực hiện CPH chiếm 3% số DNNN. Từ khi có Nghị định số 28/CP, đã thực hiện CPH được 13 doanh nghiệp, số doanh nghiệp đang tiến hành ở các bước xác định giá trị doanh nghiệp, kiểm toán là 30 doanh nghiệp. Đầu năm 1998 có khoảng18 doanh nghiệp thực hiện CPH chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty. Trong số 18 doanh nghiệp có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty Đầu tư sản xuất và Thương mại Hà nội (Xí nghiệp Mộc). Còn lại 17 công ty cổ phần, Nhà nước nắm ít nhất 18%, cao nhất là 51% cổ phần Công ty; Cổ đông do người lao động trong công ty chiếm từ 18 - 50%; cổ phần còn lại là do cổ đông ngoài xã hội nắm giữ. Hầu hết các công ty này sau khi chuyển sang Công ty Cổ phần đều kinh doang phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp đều có lợi. Sau một thời gian thí điểm và rút kinh nghiệm, tại Thông báo số 63/TB-TU ngày 4/4/1997, Bộ Chính trị đã tổng kết và cho ý kiến chỉ đạo tiếp tục triển khai vững chắc CPH doanh nghiệp nhà nước. Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về “Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty Cổ phần, kèm theo phụ lục danh mục các loại doanh nghiệp nhà nước để lựa chọn cổ phần hoá”. Theo phụ lục này chỉ có một số doanh nghiệp đặc biệt Nhà nước chưa CPH và một số doanh nghiệp quan trọng Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, còn lại cơ bản các doanh nghiệp nhà nước khác đều chuyển thành Công ty Cổ phần. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nghị định số 44/CPlần này có những điểm mới, thông thoáng, với những quy định cụ thể, chặt chẽ sát với thực tế cuộc sống, giải quyể những băn khoăn thắc mắc thường vấp phải của nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH. Chẳng hạn như: - Về đối tượng huy động vốn cổ phần không chỉ bó khung trong công nhân v iên chức mà theo hướng mở rộng “huy động vốn toàn xã hội”. - Về nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp trước khi tiến hành CPH. Để thực hiện Nghị định 44/CP Bộ Tài chính đã có Thông tư 104/1998/TT-BTC hướng dẫ cách tính toán cụ thể giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp và xác định lợi thế của doanh nghiệp qua tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi CPH (chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp). - Về chính sách ưu đãi đối với người lao động khi DNNN chuyển sang Công ty Cổ phần được xác định tương đối cụ thể và thỏa đáng: mỗi năm làm việc người lao động được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá 100.000đ/cổ phần) với mức ưu đãi giảm giá 30% (tổng giá trị ưu đãi cho tập thể ngươgi lao động không vượt qúa 20 % tổng giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước có vốn tích luỹ trên 40% giá trị doanh nghiệp thì tổng giá trị ưu đãi cho tập thể người lao động không vượt quá 30%). Đối với lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi giảm giá 30% và trả dần trong 10 năm không phải chịu lãi.... (số cổ phần dành cho người lao động nghèo mua trả dần không được vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi). Có thể nói việc giải quyết quyền lợi của người lao động trong DNNN được CPH theo quy định của Nghị định 44/CP là tương đối hợp lý, hợp tình có tác dụng thu hút người lao động tham gia tích cực vào CPH doanh nghiệp nhà nước. IV. Đánh giá chung về quá trình Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam. 1. Những thành tựu đã đạt được Tính đến giữa quí III năm 2000, cả nước ta đã có 451 doanh nghiệp nhà nước được CPH, một con số còn ít so với mục tiêu đặt ra. Theo dự kiến của Chính phủ thì cuối năm 2000 sẽ có khoảng 1.000 DNNN chuyển sang hình thức Công ty Cổ phần. Kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn ở một số doanh nghiệp điển hình trước và sau khi CPH đã chứng tỏ rằng CPH là một chủ trương đúng. Mục tiêu của chủ trương này là huy động thêm vốn, đổi mới phương thức quản lý để tăng hiệu quả kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển, qua đó cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước, xác định quyền làm chủ thật sự của người lao động trong doanh nghiệp. Đánh giá về thành công của chủ trương này ta hãy xem xét những mục tiêu đạt được: - Về huy động vốn: theo tính toán của các nhà kinh tế, trong dân hiện còn một nguồn vốn nhàn rỗi khoảng 8 tỷ $.Cổ phần hóa chính là biện pháp có hiệu quả để huy động nguồn vốn này cho phát triển kinh tế nếu doanh nghiệp hoạt động sản xuất có hiệu quả. Đây không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là một chiến lược lâu dài. Thống kê 451 DNNN cổ phần hoá có giá trị phần lớn vốn nhà nước là 1.649 tỷ đồng qua CPH đã thu thêm được 1.432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào. Đồng thời thông qua việc bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu lại 814 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và dùng vào việc giải quyết chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Về số tuyệt đối thì đây chưa phải là lớn, nhưng về mặt tỷ lệ thì rất đáng kích lệ. Phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp khi CPH được xác định lại, nhìn chung đều tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện CPH, vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp CPH không mất đi mà được tăng lên, hơn nữa còn thu hút thêm được một nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Tuy nhiên, số lượng 451 DNNN cổ phần hóa mới chỉ chiếm 7% tổng số DNNN hiện có. Số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp CPH so với tổng số vốn nhà nước tại các DNNN hiện nay chỉ chiếm gần 1%. Điều này cho thấy số lượng doanh nghiệp và số vốn nhà nước CPH còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chưa có tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn của khu vực DNNN. Ngày 20/7/2000, một trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên đã được đưa vào hoạt động tại 45-47 Bến Chương Dương-Quận I -TP HCM. Thông qua thị trường chứng khoán, đã có 4 Công ty niêm yết cổ phiếu đều có thể huy động thêm vốn ở trong và ngoài nước thông qua việc phát hành cổ phiếu của mình. Vai trò của thị trường chứng khoán là rất to lớn trong việc huy động vốn dùng trong sản xuất kinh doanh cần được phát triển, nhưng thực tế cho thấy thị trường này ở nước ta từ khi thành lập đến nay luôn ở trong tình trạng cung không đủ cầu. Có quá ít các công ty giao bán cổ phiếu của mình, lý do có thể là hoạt động này còn quá mới mẻ ở nước ta hoặc các công ty sợ rằng bọn đầu cơ cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nên họ không dám mạo hiểm. Điều này đã làm cho hoạt động của thị trường chứng khoán trở nên kém sôi động, không hấp dẫn các nhà đầu tư. Chính vì thế mà vai trò của thị trường chứng khoán cũng bị lu mờ. Một số giải pháp cũng đã được đưa ra, trong đó có xem xét việc Chính phủ bán cổ phiếu của mình hay không. Nhưng đây là một vấn đề nhạy cảm nên cần được cân nhắc kỹ lưỡng và tiếp tục nghiên cứu tìm kiếm phương thức tối ưu. - Về đổi mới phương thức quản lý kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh: Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần do có Hội đồng Quản trị và cao hơn là Đại hội Cổ đông nên hoạt động tài chính của doanh nghiệp thường xuyên được giám sát. Lợi ích của doanh nghiệp được gắn chặt với lợi ích của cổ đông nên người lao động trong doanh nghiệp là những chủ nhân thực sự. Cũng thông qua Đại hội Cổ đông và Hội đồng Quản trị trí tuệ tập thể đã được phát huy, nhờ đó mà phương thức quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới cho phù hợp với tình hình biến động của nền kinh tế xã hội. Theo thống kê của Ban đổi mới quản lý Trung ương, các doanh nghiệp sau CPH đều làm ăn có hiệu quả. Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn đều tăng. - Về doanh thu: bình quân các doanh nghiệp đều tăng gấp 2 lần so với trước khi CPH. Điển hình là Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh đã phát triển vượt bậc trong năm 1999 doanh thu đạt 478 tỷ đồng, gấp gần 4 lần so với trước khi CPH là 46 tỷ đồng. Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết năm 1999 đạt doanh số 86 tỷ đồng, gấp 1.5 lần so với trước khi CPH là 55 tỷ đồng. - Về lợi tức cổ phần: bình quân đạt từ 1-2%/tháng. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phải chịu sức ép lớn từ cuộc khủng hoảng khu vực thì mức độ lợi tức cổ phần như vậy là cao và được các cổ đông chấp nhận. - Về vốn: tăng gần 2.5 lần so với trước CPH, nổi bật nhất là Công ty Chế biến hàng xuất khẩu Long An, tổng số vốn tăng 5 lần. - Về nộp ngân sách: tăng bình quân 2 lần so với trước khi CPH. Điển hình là Công ty Cơ điện lạnh TP HCM tăng gần 3 lần. Một số Công ty Cổ phần khác, do những khó khăn về thị trường nên doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách chưa tăng nhưng sau khi CPH nền nếp, kỷ cương trong quản lý đã được thiết lập lại. Chẳng hạn như Công ty Cổ phần Thiết bị thương mại (Bộ Thương mại) khi mới hoạt động gặp phải bất lợi do thị trường khó khăn làm giá thành sản phẩm tăng không bán được nhiều ra thị trường, Công ty đã điều chỉnh những khâu bất hợp lý và do đó đã đạt được những thành công: giảm giá thành, doanh số , tiền lương, các chỉ tiêu nộp ngân sách bảo đảm, lợi tức cổ phần đạt 16%/năm. - Về việc làm và thu nhập cho người lao động. Đây là vấn đề khiến người lao động vô cùng băn khoăn, lo lắng khi chuyển sang Công ty Cổ phần. Họ không lo lắng sao được khi chưa biết rõ ngày mai mình sẽ sống ra sao, có được tiếp tục làm việc hay không, thu nhập có giảm không, quyền dân chủ có được bảo đảm không. Bởi họ nghĩ rằng khi đã là doanh nghiệp cổ phần, tài sản trong doanh nghiệp không còn hoàn toàn của Nhà nước, các ông chủ mới là người nắm trong tay đa số cổ phiếu của công ty, họ có thể chỉ chạy theo lợi nhuận, sa thải công nhân mà không một đoàn thể nào bảo vệ họ. Nhưng trên thực tế, hầu như không có một công ty cổ phần sa thải vô lý công nhân, không những thế thu nhập và việc làm của họ luôn ổn định và có xu hướng tăng lên. Do luôn luôn phải mở rộng sản xuất kinh doanh bảo đảm sự phát triển nên các doanh nghiệp này đã tạo thêm nhiều việc làm, lao động tăng bình quân 12%, thu nhập của người lao động tại các công ty cổ phần tăng bình quân hàng nămgần 20% (chưa kể cổ tức). Năm 1999 thu nhập của công nhân viên Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 4trđồng/người/tháng, gấp gần 3 lần so với trước khi CPH. Được làm việc trong môi trường và cơ chế mới người lao động đã thực sự gắn lợi ích của mình với lợi ích của doanh nghiệp; tự giác, tổ chức kỷ luật, chủ động, sáng tạo, tiết kiệm... đó chính là những yếu tố góp phần nâng cao hiệu qủa sản xuất, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, công ty, Nhà nước và xã hội. 2. Những hạn chế Tuy nhiên theo đánh giá chung thì việc triển khai thực hiện còn chậm và không đồng đều giữa các ngành, các địa phương, các Tổng Công ty Nhà nước; kết quả dạt được mặc dù có tính thuyết phục cao nhưng chưa tạo thành sứ bật lôi kéo phong trào CPH đi lên. Tình hình trên có thể do nhiều nguyên nhân gây ra song một số nguyên nhân chủ yếu thể hiện trên các vấn đề sau: - Cổ phần hoá DNNN là công việc mới mẻ, phức tạp, vì vậy việc nghiên cứu các cơ chế chính sách CPH còn chậm chạp. Các văn bản ban hành thiếu đồng bộ, quy trình triển khai phức tạp, còn nhiều mặt chưa hợp lý. Như các văn bản pháp quy về thực hiện chủ trương khống chế tỷ lệ mua cổ phần của các cán bộ quản lý và cá nhân trong lần mua đầu tiên đã làm giảm nhiệt tình và niềm tin của người lao động; thủ tục pháp lý về nhà xưởng, đất đai, xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà, mất nhiều thời gian, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thuộc các Bộ, Tổng Công ty 91. Đồng thời, trong thời gian dài chậm quy định phạm vi DNNN được CPH, chưa đề ra mục tiêu CPH hàng năm để phấn đấu thực hiện. - Chưa có môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số nơi coi công ty cổ phần là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên không được ưu ái như DNNN. Mặt khác, do Luật Công ty trước đây và Luật Doanh nghiệp Nhà nước đều chưa quy định rõ vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn nhà nước góp, nên mỗi nơi vận dụng theo nhận thức riêng, khônh thống nhất. - Về nhận thức: Do CPH đụng chạm đến lợi ích, bao gồm cả lợi ích cục bộ của ngành, đơn vị và cả lợi ích cá nhân, thêm nữa là thói quen trì trệ thích yên ổn, ngại thay đổi nên không ít Tổng Công ty ngần ngại chỉ đạo triển khai CPH vì e rằng khi một công ty thành viên được CPH tính độc lập sẽ cao hơn, ít lệ thuộc vào Tổng Công ty hơn. Cũng có những đơn vị có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình kế hoạch cụ thể, việc triển khai mang tính chất đối phó, hình thức. Ngay cả Ban Chỉ đạo CPH ở Trung ương và địa phương do phải kiêm nhiệm nhiều việc nên chưa tập trung vào công tác chỉ đạo dẫn đến công việc bị chậm trễ, kéo dài. Ban Chỉ đạo CPH Trung ương không đủ thẩm quyền quyết định trực tiếp các đề án, kế hoạch CPH DNNN, chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và giám sát các Bộ, ngành, địa phương thực hiện CPH nên tính hiệu quả của CPH chưa cao. Hơn nữa việc tuyên truyền quán triệt tư tưởng chỉ đạo về CPH trong nội bộ các cấp có thẩm quyền, tới cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp được CPH, tới người dân còn bị xem nhẹ, đặc biệt là ở các khâu trung gian

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0680.doc
Tài liệu liên quan