Đề tài Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Trong khi đó thì để đối phó thành công ở mỗi vụ tranh chấp về bán phá giá đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều bên liên quan. Chẳng hạn, phải có một cơ quan đầu mối về các tranh chấp liên quan tới bán phá giá. Cơ quan này phải làm việc chặt chẽ với các bộ ngành liên quan. Hơn thế nữa phải phối hợp hành động với các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu hay nhập khẩu, hội bảo vệ người tiêu dùng, v.v. Mặc dù chúng ta đang cải cách nền hành chính quốc gia, chính phủ nhiệm kỳ mới vừa được thành lập nhưng rõ ràng là sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa thích hợp để giải quyết tranh chấp phá giá. Đó là chưa tính tới sự liên kết của các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu với nhau còn tỏ ra yếu kém. Có thể thấy nếu sự thiếu kiến thức và kinh nghiệm là khó khăn lớn nhất thì khó khăn tiếp theo chính là sự phối hợp của ta còn thấp.

Khó khăn lớn thứ ba là hệ thống pháp luật về kinh tế . thương mại của Việt nam còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường chưa được hai thập kỷ. Mặc dù hệ thống pháp luật về kinh tế . thương mại của chúng ta đã được xây dựng mới và bổ sung, sửa đổi liên tục nhưng rõ ràng là trong một giai đoạn ngắn như vậy hệ thống pháp luật của chúng ta không thể đầy đủ và phù hợp với luật thương mại quốc tế ngay được. Trong lĩnh vực chống bán phá giá, chúng ta chưa có luật để đối phó với hàng nhập khẩu vào Việt nam bị bán phá giá cũng như những qui định cần thiết để đối phó với việc hàng xuất khẩu của chúng ta bị các đối tác thương mại khác áp dụng biện pháp này.

Trong việc đối phó với biện pháp chống phá giá thì ngoài luật về chống bán phá giá chúng ta còn cần hoàn chỉnh các luật liên quan khác phù hợp với chuẩn quốc tế. Chẳng hạn, điều tra xác định biên độ phá giá là vấn đề rất phức tạp về kỹ thuật, những quy định về kế toán có tầm quan trọng lớn trong những tính toán cụ thể về chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, v.v. Nếu không có hệ thống kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế thì rất khó có thể điều tra và có kết luật thích hợp được. Trong việc đối phó với biện pháp chống bán phá giá cũng cần cải tổ hệ thống toà án. Nhà nhập khẩu có thể kiện ra toà các quyết định liên quan tới biện pháp chống phá giá của cơ quan hành chính có thẩm quyền. Trong trường hợp ta chủ động áp dụng biện pháp chống bán phá giá thì hệ thống toà án của ta có lẽ chưa đủ điều kiện để giảI quyết khiếu kiện kiểu này, còn trong trường hợp ta phải đối phó với biện pháp chống phá giá của các đối tác khác thì chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm sử dụng cơ chế kiện ra toà chống lại quyết định của các cơ quan hành chính có thẩm quyền của họ.

 

doc96 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặt cọc nhưng cũng chỉ vì mục đích thu thuế tạm thời sau này. Trong điều kiện bình thường, biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng trong thời gian không quá 4 tháng, nhưng nếu có yêu cầu của một nhà xuất khẩu chiếm tỷ lệ đáng kể trong thương mại mặt hàng đó, thời hạn này có thể được kéo dài nhưng tối đa cũng không quá 6 tháng. b. Thuế chống bán phá giá chính thức Cũng như WTO, Luật của Thái Lan quy định nguyên tắc thuế chống phá giá được đặt ở mức đủ để khắc phục thiệt hại và trong mọi trường hợp không vượt quá biên độ phá giá. Thuế chống phá giá có thể được áp dụng với thuế suất khác nhau cho từng loại nhà nhập khẩu. Trường hợp này xảy ra khi phương pháp xác định biên độ phá giá là phương pháp lấy theo mẫu. Thuế suất thuế chống phá giá được ấn định sẽ chỉ áp dụng đối với các nhà nhập khẩu được lựa chọn để tính biên độ phá giá. Đối với các nhà nhập khẩu khác, thuế suất chống phá giá không được vượt quá biên độ phá giá bình quân gia quyền đã xác định được. Nếu mỗi bên liên quan có thể đệ trình thông tin phù hợp với trường hợp của mình thì thuế suất riêng cũng được áp dụng đối với bên đó. Thuế chống phá giá chỉ được thu từ ngày xác định được có thiệt hại do phá giá gây ra và chỉ duy trì trong khoảng thời gian đủ để chống lại việc phá giá gây ra thiệt hại. Thuế chống phá giá sẽ được dỡ bỏ không muộn hơn 5 năm kể từ ngày áp dụng hoặc kể từ ngày rà soát gần nhất xác định được việc bán phá giá và thiệt hại. c. Truy thu và hoàn thuế Hoàn thuế: Các khoản thu tạm thời được giữ riêng cho mục đích hoàn thuế khi cần thiết cho đến khi có lý do rõ ràng để không cần phải giữ các khoản này nữa. Thủ tục hoàn thuế được quy định tại văn bản pháp quy dưới luật cấp Bộ. Ngay khi thuế chống phá giá được thu, thuế tạm thời phải được hoàn lại trong thời gian sớm nhất. Thuế tạm thời hoặc tiền đặt cọc cũng phải được hoàn lại khi xác định không có việc bán phá giá hoặc không có thiệt hại. Truy thu thuế: Thuế chống phá giá có thể được truy thu trong các trường hợp sau: - Khi đã xác định được có thiệt hại và thiệt hại đó là do hàng nhập khẩu phá giá gây ra do không áp dụng biện pháp tạm thời, Uỷ ban về phá giá và trợ cấp có thể quyết định truy thu thuế đối với giai đoạn đáng lẽ biện pháp tạm thời đã được áp dụng; - Uỷ ban về phá giá và trợ cấp cũng có thể quyết định truy thu thuế chống phá giá đối với giai đoạn không quá 90 ngày trước thời điểm áp dụng thuế tạm thời nếu: + Sản phẩm đó đã có lịch sử bán phá giá và đã gây thiệt hại, hoặc nhà nhập khẩu đã biết hoặc đáng ra phải biết nhà xuất khẩu sản phẩm đó thường bán phá giá và việc bán phá giá đó gây thiệt hại; và + Thiệt hại là do lượng hàng nhập khẩu phá giá quá lớn trong một thời gian ngắn, làm ảnh hưởng đáng kể đến tác dụng của thuế chống phá giá cuối cùng do chưa áp dụng thuế chống phá giá trước thời điểm áp dụng biện pháp tạm thời. CHƯƠNG III CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP LIÊN QUAN TỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM I. Đánh giá về khó khăn của Việt Nam khi phải đối mặt với tranh chấp bán phá giá Đối phó với biện pháp chống bán phá giá của các đối tác thương mại khác thường là rất khó khăn, phức tạp. Trong những trường hợp gặp phải các đối tác có tiềm lực kinh tế mạnh, có kinh nghiệm trong thương mại quốc tế và có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và cộng đồng doanh nghiệp, thì cơ hội thắng cuộc một cách chủ động không cao mà nhiều khi phụ thuộc vào chính sự cân bằng quyền lợi của các nhóm lợi ích khác nhau trong nội bộ đối tác đó. Vai trò của ta trong những trường hợp này đôi khi chỉ là hậu thuẫn cho những nhóm bị thiệt hại do các biện pháp chống bán phá giá gây ra mà thôi. Để có thể đánh giá khách quan những khó khăn của ta trong các tranh chấp liên quan tới bán phá giá, trước hết ta cần xem xét tiến trình chung của mỗi vụ tranh chấp ở nước nhập khẩu và nước xuất khẩu * Các hoạt động tại nước nhập khẩu Tại nước nhập khẩu, trước hết các nhà sản xuất một mặt hàng nào đó thấy lo ngại trước áp lực cạnh tranh ngày càng tăng của hàng nhập khẩu tương tự do giá nhập khẩu ngày càng thấp, kim ngạch nhập khẩu ngày càng tăng hoặc cả hai nhân tố đó. Các nhà sản xuất có thể có những hành động cụ thể để lên tiếng về tình hình khó khăn của họ theo các kênh thông tin chính thức hoặc qua phương tiện thông tin đại chúng. Tiếp đó họ có thể liên kết nhau lại để thu thập các thông tin cần thiết về hàng nhập khẩu mà họ phải cạnh tranh, đồng thời vận động các chính khách, các quan chức chính phủ ủng hộ họ trong việc tiến hành điều tra phá giá, đặc biệt là hậu thuẫn việc họ bị thiệt hại do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Tiếp đó, các nhà sản xuất hoặc cơ quan có thẩm quyền sẽ nộp đơn yêu cầu điều tra phá giá, chính thức buộc chính phủ của họ phải giải quyết yêu cầu của họ theo luật định. Khi nhận được đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét tính hợp lệ của đơn dựa trên ba tiêu chí chủ yếu là đơn có đại diện cho ngành không và các nhà sản xuất ủng hộ đơn có lớn hơn các nhà sản xuất phản đối đơn không, tiếp đó sản phẩm của ngành có phải là sản phẩm tương tự với mặt hàng nhập khẩu đang bị coi là bán phá giá hay không, ngoài ra biên độ phá giá có cao hơn 2% và kim ngạch nhập khẩu có cao hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó hay không. Khi cơ quan có thẩm quyền cho rằng đơn đã hợp lệ, họ sẽ tiến hành điều tra sơ bộ về phá giá và thiệt hại. Trong giai đoạn này họ có thể nghe quan điểm của các bên liên quan trong nước cũng như của các nhà xuất khẩu hoặc đại diện chính phủ của nước xuất khẩu. Cơ quan điều tra có thể gửi phiếu điều tra tới các cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu hay cả nhà sản xuất ở nước xuất khẩu để thu thập các thông tin cần thiết cho việc điều tra của họ. Trong trường hợp có những bằng chứng sơ bộ cho thấy hàng nhập khẩu bị bán phá giá và điều này dẫn tới thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước, cơ quan điều tra có thể đề xuất áp dụng các biện pháp tạm thời như đặt cọc hay thu thuế tạm thời. Nếu các nhà xuất khẩu tự nguyện đưa ra đề xuất cam kết tăng giá xuất khẩu hay ngừng việc bán phá giá thì họ cũng phải cân nhắc xem có chấp nhận hay không. Trong trường hợp chấp nhận biện pháp cam kết giá thì cơ quan điều tra vẫn có thể tiếp tục điều tra phá giá và thiệt hại. Giai đoạn nhậy cảm nhất là giai đoạn cơ quan điều tra cân nhắc quyết định cuối cùng áp dụng hoặc không áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong trường hợp quyết định cuối cùng là áp dụng thì đi kèm với nó là thuế suất thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, công việc của cơ quan điều tra không chấm dứt ngay sau khi đưa ra quyết định cuối cùng. Những công việc liên quan sau đó cũng ảnh hưởng lớn tới nhà xuất khẩu, đặc biệt là những công việc liên quan tới truy thu thuế, rà soát việc áp dụng và đối xử với những nhà xuất khẩu không được điều tra phá giá. * Các hoạt động tại nước xuất khẩu Toàn bộ các hoạt động tại nước xuất khẩu liên quan tới mỗi tranh chấp bán phá giá gắn chặt với từng hoạt động tại nước nhập khẩu với mục tiêu rõ ràng là làm sao để cơ quan điều tra của nước nhập khẩu không đưa ra bất kỳ một quyết định nào không có lợi cho mình. Những hoạt động rõ ràng nhất là nước xuất khẩu phải vận động các nhà sản xuất tại nước nhập khẩu không nộp đơn, khi đơn đã nộp thì vận động cơ quan có thẩm quyền không điều tra phá giá và thiệt hại. Sau đó nếu vụ việc vẫn tiếp diễn thì nước xuất khẩu lại phải tiếp tục vận động cơ quan điều tra không áp dụng các biện pháp tạm thời cũng như phải cân nhắc có đưa ra cam kết tăng giá xuất khẩu hay không. Nếu tất cả các cố gắng trên không đạt kết quả mong đợi thì nước xuất khẩu phải vận động cơ quan điều tra không ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá hoặc làm sao để thuế suất là thấp nhất, v.v... Các hoạt động trên rất phức tạp và có thể diễn ra đồng thời chứ không nhất thiết phải tiến hành tuần tự. Trong quá trình vận động, nước xuất khẩu phải tranh thủ sự ủng hộ của các nhà sản xuất sử dụng hàng nhập khẩu là đầu vào tại nước nhập khẩu cũng như người tiêu dùng cuối cùng của mặt hàng liên quan. Về hình thức thức thì tranh chấp liên quan tới bán phá giá chỉ thuần tuý mang tính thương mại, nhưng về bản chất thì đây là vấn đề mang tính chính trị nhạy cảm tại nước nhập khẩu cũng như giữa nước nhập khẩu với nước xuất khẩu. Tại nước nhập khẩu việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá sẽ động chạm trực tiếp tới lợi ích vật chất của hai nhóm lợi ích căn bản là những nhà sản xuất mặt hàng tương tự và những người tiêu dùng mặt hàng đó, trong số này phải kể tới những nhà sản xuất sử dụng mặt hàng này như đầu vào cho quá trình sản xuất của họ. Mặc dù lợi ích chung của toàn xã hội có thể bị giảm nếu áp dụng biện pháp chống bán phá giá nhưng thông thường do sức mạnh chính trị của các nhà sản xuất cao hơn của nhóm còn lại nên cơ quan có thẩm quyền vẫn đưa ra những quyết định có lợi cho họ. Chính vậy trong một số tranh chấp dù cho nước xuất khẩu rất tích cực vận động nhưng do bối cảnh chính trị ở nước nhập khẩu mà kết quả cuối cùng vẫn khó có thể thay đổi. Tuy nhiên, nước xuất khẩu luôn luôn cần sử dụng sức mạnh tổng hợp để gây áp lực và thuyết phục cơ quan có thẩm quyền ở nước nhập khẩu có quyết định có lợi nhất cho mình. Ngoài các cơ quan liên quan tới thương mại và các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu mặt hàng đang là đối tượng điều tra, sự tham gia tích cực của các nhà lãnh đạo chính trị cấp cao, đôi khi cả cấp nguyên thủ quốc gia, là rất cần thiết cho sự vận động thành công. * Những khó khăn chủ yếu của Việt nam khi phải đối phó với tranh chấp phá giá Dù cho phải đương đầu với tình huống hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu điều tra chống bán phá giá hay khi ta chủ động điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu của nước khác thì có thể thấy rằng ta đều gặp phải rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là chúng ta hầu như chưa biết gì về luật thương mại quốc tế liên quan tới bán phá giá. Hầu như tất cả các cán bộ nhà nước chịu trách nhiệm về vấn đề này đều chưa có kiến thức về các khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá và luật quốc tế điều chỉnh hành vi này. Cho đến nay Việt nam chưa lần nào điều tra bán phá giá. Kinh nghiệm đối phó với hàng xuất khẩu của ta bị điều tra phá giá còn ít. Hơn thế nữa, giới nghiên cứu khoa học cũng chưa quan tâm đến vấn đề bán phá giá. Hệ thống đào tạo về luật và thương mại cũng chưa có chương trình và đội ngũ giảng dạy về bán phá giá. Trong bối cảnh như vậy nên chúng ta cũng không có luật sư hay nhà tư vấn nào có kiến thức đầy đủ hay có kinh nghiệm phong phú về phá giá cả. Trong khi đó thì để đối phó thành công ở mỗi vụ tranh chấp về bán phá giá đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều bên liên quan. Chẳng hạn, phải có một cơ quan đầu mối về các tranh chấp liên quan tới bán phá giá. Cơ quan này phải làm việc chặt chẽ với các bộ ngành liên quan. Hơn thế nữa phải phối hợp hành động với các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu hay nhập khẩu, hội bảo vệ người tiêu dùng, v.v... Mặc dù chúng ta đang cải cách nền hành chính quốc gia, chính phủ nhiệm kỳ mới vừa được thành lập nhưng rõ ràng là sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa thích hợp để giải quyết tranh chấp phá giá. Đó là chưa tính tới sự liên kết của các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu với nhau còn tỏ ra yếu kém. Có thể thấy nếu sự thiếu kiến thức và kinh nghiệm là khó khăn lớn nhất thì khó khăn tiếp theo chính là sự phối hợp của ta còn thấp. Khó khăn lớn thứ ba là hệ thống pháp luật về kinh tế . thương mại của Việt nam còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường chưa được hai thập kỷ. Mặc dù hệ thống pháp luật về kinh tế . thương mại của chúng ta đã được xây dựng mới và bổ sung, sửa đổi liên tục nhưng rõ ràng là trong một giai đoạn ngắn như vậy hệ thống pháp luật của chúng ta không thể đầy đủ và phù hợp với luật thương mại quốc tế ngay được. Trong lĩnh vực chống bán phá giá, chúng ta chưa có luật để đối phó với hàng nhập khẩu vào Việt nam bị bán phá giá cũng như những qui định cần thiết để đối phó với việc hàng xuất khẩu của chúng ta bị các đối tác thương mại khác áp dụng biện pháp này. Trong việc đối phó với biện pháp chống phá giá thì ngoài luật về chống bán phá giá chúng ta còn cần hoàn chỉnh các luật liên quan khác phù hợp với chuẩn quốc tế. Chẳng hạn, điều tra xác định biên độ phá giá là vấn đề rất phức tạp về kỹ thuật, những quy định về kế toán có tầm quan trọng lớn trong những tính toán cụ thể về chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, v.v... Nếu không có hệ thống kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế thì rất khó có thể điều tra và có kết luật thích hợp được. Trong việc đối phó với biện pháp chống bán phá giá cũng cần cải tổ hệ thống toà án. Nhà nhập khẩu có thể kiện ra toà các quyết định liên quan tới biện pháp chống phá giá của cơ quan hành chính có thẩm quyền. Trong trường hợp ta chủ động áp dụng biện pháp chống bán phá giá thì hệ thống toà án của ta có lẽ chưa đủ điều kiện để giảI quyết khiếu kiện kiểu này, còn trong trường hợp ta phải đối phó với biện pháp chống phá giá của các đối tác khác thì chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm sử dụng cơ chế kiện ra toà chống lại quyết định của các cơ quan hành chính có thẩm quyền của họ. Trên thực tế chính sách thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng lớn bởi quan hệ chính trị giữa các đối tác. Các biện pháp chống bán phá giá cũng không năm ngoài qui luật chung đó. Trong trường hợp hàng xuất khẩu của Việt nam bị nước ngoài điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chúng ta có thể gây áp lực chính trị với họ. Nhưng với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, khoa học kỹ thuật, v.v... của chúng ta hiện nay, chúng ta cần thấy rõ áp lực của chúng ta không đủ mạnh. Ngược lại, trong trường hợp chúng ta chủ động tiến hành điều tra áp dụng biện pháp này với hàng nhập khẩu thì có thể dự đoán rằng một số nước có thể dùng sức mạnh chính trị để ép chúng ta nhân nhượng họ, chẳng hạn họ có thể dùng những lá bài như viện trợ phát triển chính thức (ODA), gia hạn qui chế đối xử tối huệ quốc (MFN) v.v... để đem ra mặc cả với ta. Trong việc áp dụng hay đối phó với biện pháp chống bán phá giá, chúng ta cũng không thể không tính đến nhiều chi phí cần thiết kể cả ngoại tệ. Thật vậy, nhiều khi chúng ta cần phải cử các nhóm công tác ra nước ngoài để điều tra, thu thập các thông tin cần thiết, hoặc chúng ta phải tham dự các cuộc gặp do các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để giải trình, cung cấp thông tin hoặc thuyết phục họ chấm dứt điều tra, chấp nhận biện pháp cam kết giá hay áp dụng mức thuế chống bán phá giá ở mức càng thấp càng tốt. Một khó khăn khác liên quan tới giải quyết tranh chấp. Cho tới nay và vài năm tới chúng ta chỉ có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan tới chống bán phá giá trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương. Đặc điểm chung của các hiệp định này là không có quy định đầy đủ về giải quyết các tranh chấp thương mại hoặc không có cơ chế hoặc cơ quan có chức năng để giải quyết các tranh chấp đó một cách có hiệu quả. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và chống bán phá giá nói riêng có uy tín và hiệu quả nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Đây cũng là một nhân tố chúng ta phải tính đến trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan tới chống bán phá giá. Cuối cùng không thể không lưu ý đến thực tế là một số nước chưa công nhận nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường (KTTT). Cần phải nhìn nhận vấn đề này từ hai khía cạnh. Thứ nhất, không có những tiêu chí rõ ràng khách quan để phân biệt đâu là nền KTTT và đâu là nền kinh tế phi thị trường. Do đó, việc thừa nhận một nền kinh tế là thị trường hay không nhiều khi phụ thuộc vào đánh giá mang tính chủ quan của từng đối tác thương mại và việc đánh giá này có thể chịu ảnh hưởng bởi quan hệ chính trị. Thứ hai, chúng ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta cũng chưa có đánh giá tổng kết nào xem chúng ta đang ở đâu trong quá trình này, hay nói cách khác nền kinh tế của chúng ta đã thực sự là nền kinh tế thị trường hay chưa. Nếu trong quá trình điều tra phá giá đối với hàng nhập khẩu từ Việt nam mà đối tác chưa công nhận nền kinh tế nước ta là nền KTTT thì chúng ta sẽ gặp bất lợi trong việc chứng minh chúng ta không bán phá giá hoặc bán phá giá với biên độ thấp. II. Khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam 1. Các qui định hiện tại của Việt nam liên quan đến thuế chống bán phá giá Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO. Song song với việc loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan, ta cần nghiên cứu để đưa vào áp dụng các biện pháp bảo hộ mới được WTO cho phép sử dụng như: thuế chống bán phá giá, tự vệ, hạn ngạch thuế quan. Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001. 2. Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ tăng lên bằng biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT - GXK). Do đó, nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở trong nước không thể bán sản phẩm của mình ở mức giá cao hơn giá bán của sản phẩm đó ở nước xuất khẩu cộng thêm các chi phí liên quan tới xuất khẩu như bảo hiểm, vận tải, môi giới, v.v. nhân với thuế nhập khẩu. Thực tế cho thấy chỉ có các ngành sản xuất có qui mô đáng kể, có sự liên kết khá chặt chẽ, có sức mạnh chính trị nhất định mới có thể phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ để áp dụng thành công thuế chống bán phá giá. Như vậy, trong ngắn hạn,việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ góp phần duy trì sản xuất của những ngành đó, qua đó tạo ra sự ổn định chính trị, giảm thất nghiệp và sự phá sản của một số nhà sản xuất. Mặc dù áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ có lợi cho nhà sản xuất trong nước do bán được sản phẩm với giá cao hơn nhưng sẽ gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhiều nghiên cứu về khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá cho rằng bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và bình thường, cả trong trường hợp giá bán trong nước thấp hơn giá xuất khẩu, tức là có sự phân biệt đối xử về giá, cũng như trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất, kể cả chi phí cố định. Lợi ích tăng lên đối với các nhà sản xuất trong nước không đủ bù đắp thiệt hại của người tiêu dùng, hay nói cách khác là thiệt hại chung đối với toàn xã hội. Ngoài ra, áp dụng thuế này cũng sẽ gây ra thiệt hại đối với những nhà sản xuất sử dụng sản phẩm liên quan làm nguyên liệu cho sản xuất các hàng hóa khác. Ví dụ rõ ràng là các nhà chế tạo ô tô Hoa Kỳ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh với các đối thủ Châu Âu và Nhật bản do họ phải sử dụng thép với giá cao hơn khi chính phủ áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ các nhà sản xuất thép. Thuế chống bán phá giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh dài hạn. Thật vậy, thuế này chỉ được áp dụng trong một giai đoạn nhất định. Do nhiều nguyên nhân, các nhà sản xuất nước ngoài có thể hạ được chi phí sản xuất và không bán phá giá nữa. Trong trường hợp này giá xuất khẩu có thể không đổi, thậm chí ngày càng thấp đi. Nếu các nhà sản xuất trong nước không nhận thức rõ điều này mà chậm đổi mới công nghệ,nâng cao năng suất, v.v... quá dựa dẫm vào sự bảo hộ cao hơn do áp dụng thuế này mang lại thì về dài hạn họ sẽ mất khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự của nước xuất khẩu. Các doanh nghiệp được bảo hộ cần nhận thức sau một giai đoạn nào đó, thường là vài năm, hiện tượng bán phá giá có thể biến mất nhưng hàng nhập khẩu vẫn ngày càng rẻ, do đó phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh càng sớm càng tốt. 3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá Việt nam đang xây dựng nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Sau hơn một thập kỷ phát triển kinh tế khá ngoạn mục, Việt nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 với mục tiêu tăng gấp đôi GDP sau mười năm và đến năm 2020 Việt nam sẽ là nước công nghiệp. Đường lối phát triển này của Việt nam có liên quan rất lớn tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong tương lai sẽ xuất hiện ngày càng nhiều ngành sản xuất hàng hóa lớn mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, những ngành này là những ngành non trẻ với những đặc điểm điển hình là đầu tư vào sản xuất lớn nhưng chưa thu hồi vốn, giá thành cao. Ngoài ra, là nước đi sau nên phần lớn những ngành này là những ngành sử dụng nhiều lao động. Trong những năm qua đã hình thành một số ngành sản xuất như vậy. Trong lĩnh vực công nghiệp là những ngành như dệt may, da giầy, sắt thép, xi măng, phân hóa học, v.v... Trong lĩnh vực nông nghiệp là một số ngành trồng trọt như mía đường, gạo, cà phê, cao su thiên nhiên, hạt tiêu, v.v... Trong lĩnh vực thủy sản là nuôi tôm, nuôi cá. Có thể thấy rằng những ngành sản xuất Việt nam có lợi thế so sánh cao như lúa gạo hay nuôi cá thì khả năng bị nước ngoài áp dụng thuế chống bán phá giá khá lớn. Ngược lại, những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ tương đối tiên tiến như sắt thép, xi măng lại được bảo hộ rất cao bằng các công cụ thuế quan và hạn chế định lượng. Do đó, mặc dù có nhiều khả năng nước ngoài đã bán phá giá vào Việt nam một số mặt hàng, chẳng hạn sắt thép hay xi măng, nhưng nhu cầu sử dụng công cụ thuế chống bán phá giá chưa xuất hiện. Trong những năm tới tình hình sẽ thay đổi. Một mặt, nhiều ngành sẽ xuất hiện với qui mô sản xuất hàng hóa như công nghiệp hóa dầu, điện tử, chăn nuôi lợn, chế biến sữa, chế biến nông sản, v.v... Mặt khác, do các cam kết với các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực, Việt nam sẽ dần dần phải cắt giảm và tiến tới loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng. Phần lớn những ngành này có sức cạnh tranh chưa cao nên nhu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ sẽ ngày càng lớn. Ngoài ra, đường lối lâu dài của Việt nam là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong một số lĩnh vực sản xuất hàng hóa, nhưng các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển nhanh về số lượng cũng như qui mô. Điều này đặt ra vấn đề triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá như thế nào để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho toàn xã hội. Rõ ràng là các doanh nghiệp lớn có sức mạnh chính trị đáng kể nên có nhiều cơ hội hơn trong việc vận động các cơ quan có thẩm quyền điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá cho các sản phẩm của họ. Nhưng với hàng trăm doanh nghiệp tư nhân, trong nhiều trường hợp là hàng vạn hộ nông dân, thì sức mạnh chính trị của họ nhiều khi lại không cao. Do đó, cần có cơ chế thực thi thích hợp để có thể bảo hộ được nhóm các nhà sản xuất này. 4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam Như đã phân tích ở trên, khi áp dụng thuế chống bán phá giá thì lợi ích chung về mặt kinh tế của toàn xã hội có thể bị giảm. Do đó, vấn đề đầu tiên đặt ra là có nên áp dụng thuế này không ngay cả khi các điều kiện cần thiết để áp dụng thuế này đã được tuân thủ. Nói cách khác, ngay cả khi đã có đủ các điều kiện để áp dụng thuế chống bán phá giá theo các qui định của Hiệp định về thuế chống bán phá giá của WTO, cơ quan chức năng vẫn cần cân nhắc mọi yếu tố liên quan để quyết định có nên áp dụng thuế này không. Ví dụ, thịt cừu của New Zealand bị bán phá giá vào Việt nam và gây thiệt hại cho một số nông dân nuôi cừu. Nhưng một mặt chính phủ thấy rằng hiệu quả của việc nuôi cừu ở Việt nam rất thấp nên cần khuyến khích những nông dân đó nuôi dê, mặt khác chính phủ đang khuyến khích phát triển du lịch, trong đó việc cung cấp thịt cừu chất lượng cao với giá thấp là một yếu tố thúc đẩy du khách vào Việt nam. Trong trường hợp đó không nhất thiết phải áp dụng thuế chống bán phá giá với thịt cừu nhập khẩu từ New Zealand. Thứ hai, hiện nay Việt nam vẫn chưa có văn bản pháp lý làm cơ sở áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong bối cảnh nhiều ngành xản xuất hàng hoá đang phát triển khá nhanh, việc áp dụng thuế chống bán phá giá có thể là cần thiết để bảo hộ một số nhà sản xuất nhất định. Do đó, Việt nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá dựa trên Hiệp định tương ứng của WTO. Để có thể triển khai được công cụ này trên thực tế, văn bản pháp lý cần phải có những qui định rất cụ thể về các cơ quan thực thi, đặc biệt là các cơ quan điều tra phá giá và cơ quan đánh giá thiệt hại. Thứ ba, song song với việc ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá, Việt nam cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới áp dụng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.doc
Tài liệu liên quan