Đề tài Cơ sở khoa học của mô hình công ty mẹ – Công ty con

Lời mở đầu

Chương I. Mô hình Công ty mẹ-con

 I.Nhận thức về công ty mẹ-con

 II.Mô hình Công ty mẹ–con là một hình thức tổ chức

 III.Mô hình công ty mẹ – con có phải là một hình thức hoạt động của tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

 III.1.Sự hình thành của mô hình công ty mẹ–con trong thời kì chủ nghĩa tư bản độc quyền

 III.2.Sự hình thành của mô hình công ty mẹ–con trong thời kì xã hội chủ nghĩa mà cụ thể là các nước xã hội chủ nghĩa

Chương II. Ưu và nhược điểm của mô hình công ty mẹ-con

 I.Ưu điểm

 II.Nhược điểm

 III.Hướng tới mô hình Tập đoàn kinh doanh

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cơ sở khoa học của mô hình công ty mẹ – Công ty con, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông ) Cty TNHH nhiều thành viên Các loại hình của Công ty con Công ty mẹ và công ty con đều là doanh nghiệp độc lập , có tư cách pháp nhân đầy đủ, có vốn và tài sản riêng. Công ty mẹ là một trong các công ty chủ sở hữu công ty con. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là mối quan hệ giữa chủ sở hữu với công ty có vốn của mình. Mối quan hệ này được xác lập trong Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty. Một công ty hôm nay là công ty con của công ty mẹ, hôm sau có thể nó là công ty liên kết với công ty mẹ hoặc là độc lập với công ty mẹ nếu công ty mẹ bán cổ phần của công ty con mà nó nắm giữ cho công ty khác. Như vậy mô hình công ty mẹ con rất linh hoạt, không quá lệ thuộc vào sự quản lí của các cấp hành chính mà chỉ phụ thuộc vào quyết định của chủ sở hữu. Chúng ta xem thử cấu trúc của công ty đầu tư xây dựng và xuất nhập khẩu VN(Constrexim Holding) được Thủ tướng chính phủ cho phép chuyển sang hoạt động theo mô hình mới này. Trong giai đoạn đầu, Constrexim Holding đã có 10 công ty con tham gia, bao gồm năm doanh nghiệp nhà nước, bốn công ty TNHH, một công ty cổ phần. Trong đó : - Các doanh nghiệp đã thực hiện thí điểm mô hình công ty mẹ- con là : Công ty Đúc TÂN LONG. Công ty thương mại và xây dựng Sài Gòn. Công ty cơ giới và xây lắp. Công ty cổ phần gạch ốp lát Terrajjo. Công ty thương mại và xây dựng Miền Trung. Các công ty TNHH và cổ phần là: Công ty cổ phần dầu tư phát triển công nghệ xây dựng A-D tại Tp Hà nội. Công ty TNHH Hoàng Gia tại Tp HCM. Công ty TNHH Tân Đô tại TP Hà Nội. Công ty TNHH Phục Hưng tại TP Hà Nội. Công ty TNHH Ban Mai tại TP Hà Nội. Sau khi chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-con thì Constrexim Holding đã hoạt động rất hiệu quả, tận dụng các ưu điểm vốn có mà mô hình công ty mẹ-con đem lại. II. Mô hình Công ty mẹ – con là một hình thức tổ chức Công ty mẹ và các công ty con đều là các doanh nghiệp độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ, có vốn và tài sản riêng. Tuy nhiên để nói một cách rõ ràng thì tài sản của công ty con có cái là của riêng công ty con nhưng cũng có cái là của chung giữa công ty mẹ và công ty con. Điều này được nhận thấy bởi tỉ lệ góp vốn của công ty mẹ vào công ty con, nếu công ty mẹ góp 100% vốn vào công ty con (Cty con là cty TNHH một thành viên) thì toàn bộ tài sản của công ty con đều thuộc công ty mẹ, trong trường hợp này công ty con chỉ đóng vai trò thay công ty mẹ kinh doanh. Còn nếu công ty mẹ chỉ góp vốn với một tỉ lệ nhất định thì công ty con có cả tài sản riêng và chung. Theo nghị quyết TW 3 đề ra , thì các tổng công ty dần dần chuyển hoạt động theo mô hình công ty mẹ – con. Dù đang trong giai đoạn thí điểm hoạt động mô hình nhưng chúng ta cần nhìn nhận rõ đâu là trách nhiệm của công ty mẹ, đâu là trách nhiệm của công ty con. Công ty mẹ có trách nhiệm trên phần vốn góp mà mình đóng góp vào công ty con, quan hệ kinh tế giữa công ty mẹ và công ty con là bình đẳng, tự nguyện, không tồn tại hình thức “xin – cho” như trong thời kì áp dụng mô hình TCT nữa. Ngoài ra công ty mẹ còn tăng cường các hoạt động để quảng bá thương hiệu của mình, tạo năng lực cạnh tranh cho các công ty con. Trách nhiệm của công ty con, có trách nhiệm đối với số vốn mà mình được nhận đồng thời với số vốn của mình nữa. Tuy công ty mẹ và công ty con hoạt động độc lập nhưng toàn bộ mô hình này đều được đặt dưới sự quản lí thống nhất của Hội Đồng Giám Đốc do Tổng Giám Đốc công ty mẹ làm chủ tịch và giám đốc các công ty con làm ủy viên. Hội đồng này đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển, các quy hoạch và kế hoạch dài hạn của toàn bộ tổ chức. Đảm bảo sự liên kết đa chiều trong mô hình về phương diện thương hiệu, thị phần, tín dụng, tài chính và thậm chí là cả nguồn nhân lực nữa. Bên cạnh Hội Đồng Giám Đốc là Ban kiểm soát với trưởng Ban kiểm soát do bộ trưởng của bộ đó bổ nhiệm, giúp Hội Đồng Giám Đốc kiểm tra, giám sát tất cả các công ty trong mô hình công ty mẹ – công ty con, kể cả công ty mẹ. Môi trường kinh doanh cấp n Môi trường kinh doanh cấp 1 Môi trường kinh doanh cấp 1 Công ty mẹ Công ty con cấp 1 Công ty con cấp 1 Công ty con cấp 2 Công ty con cấp 2 Công ty con cấp n Quan hệ quản lí trực tiếp Quan hệ phối hợp Mô hình tổ chức công ty mẹ – công ty con Nhìn vào hình minh họa về công ty con và mô hình công ty mẹ – con ta có thể thấy rằng để chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – con cần đa dạng hóa sở hữu của các doanh nghiệp thành viên, trong đó có một công ty chiếm số cổ phần chi phối và công ty này phải có vị trí quan trọng để có thể trở thành công ty mẹ. Hoặc có thể chuyển đổi công ty sang hoạt động theo hình thức công ty TNHH một thành viên theo nghị định 63 của chính phủ, hoạt động theo luật DN và chịu sự chi phối hoạt động của công ty mẹ. Thông thường mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con được phân làm hai loại. Thứ nhất, chi phối chặt : Thông qua số cổ phần khống chế của công ty mẹ đối với công ty con. Số cổ phần khống chế này dao động từ 30-51% tùy thuộc vào từng công ty mà số cổ phần khống chế này khác nhau. Đối với một số công ty lớn với sổ cổ phần khống chế có khi chỉ là 10% vì số cổ phiếu phân tán nhỏ lẻ ra ngoài rất nhiều và không tập trung vào tay một người sơ hữu ngoài ra có thể do cổ phần này quá được ưu chuộng nên được trao tay liên tục và giá khá cao. Thứ hai, chi phối lỏng : Nhờ hình thức này mà một công ty mẹ có thể đầu tư vào nhiều công ty con hay nó có thể hợp tác với một hoặc nhiều công ty khác. Bằng hình thức này thì công ty mẹ chỉ đóng vai trò là người góp vốn kinh doanh với công ty con đó, và nó có thể tham gia hoặc không trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh của công ty được góp vốn. Nhưng dù là liên kết theo kiểu gì thì mục tiêu của nó vẫn là tăng hiệu quả của quản lí, tăng sức mạnh cạnh tranh, đa dạng hóa về sản phẩm và địa lí, giảm bớt chi phí giao dịch không cần thiết, chia sẻ thông tin, rủi ro và lợi nhuận nhằm. Chính vì thế nguyên tắc nắng bù dài, mạnh bù yếu, lấy sự khác biệt đẻ tạo nên sức mạnh – nghĩa là các công ty con cũng phải bổ xung, hỗ trợ nhau về sự thiếu hụt của các nguồn lực chứ không phải là cạnh tranh loại từ lẫn nhau Như vậy sự liên kết giữa công ty mẹ và công ty con nhờ vào cơ chế vốn, điều này tiến bộ hơn một bước so với mô hình TCT. Mô hình TCT hoạt động dựa theo cơ chế hành chính, TCT và các đơn vị cấp dưới vẫn là “mệnh lệnh” và “xin - cho”. Cơ chế hoạt động của mô hình công ty mẹ–con linh động hơn, thay vì công ty con phải xin vốn , thì nay công ty mẹ đầu tư cho công ty con. Đây thực sự là bước đổi mới trong cơ chế quản lí từ mệnh lệnh hành chính sang cơ chế thị trường. III. Mô hình công ty mẹ – con có phải là một hình thức hoạt động của tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính III.1. Sự hình thành của mô hình công ty mẹ–con trong thời kì chủ nghĩa tư bản độc quyền Nguồn gốc hình thành tư bản tài chính thể hiện thông qua vai trò mới của ngân hàng. Song song với quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong công nghiệp thì trong ngân hàng cũng diễn ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng. Đó là quá trình ngân hàng lớn thôn tính ngân hàng nhỏ, hoặc hợp nhất thành những ngân hàng lớn hơn. Nhờ sự phát triển song song trong ngân hàng và công nghiệp đã làm sản xuất phát triển và làm cho các ngân hàng và tư bản công nghiệp càng phụ thuộc vào nhau hơn. Các tổ chức độc quyền trong ngân hàng thì cho các tổ chức độc quyền trong công nghiệp vay tiền, dần dần dẫn tới sự phụ thuộc cả các nghiệp vụ tài chính, tiếp theo là sự kiểm soát, giám sát ngày càng chặt chẽ hơn của các tổ chức độc quyền trong công nghiệp vào các tổ chức trong ngân hàng. Dù vậy chúng vẫn dựa vào nhau để mà phát triển, chính Lê-Nin đã nói: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất tư bản của mấy ngân hàng độc quyền lớn với tư bản ngân hàng của những tập đoàn các nhà công nghiệp độc quyền” ( V.I Lê Nin toàn tập, tập 22 Nhà xuất bản Sự Thật , Hà Nội , 1963, trang 339). Tuy nhiên điều cần quan tâm ở đây là sự thâu tóm của các ngân hàng trong ngân hàng hay trong lĩnh vực công nghiệp , và sự xuất hiện của tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính. Chúng thông qua cái gọi là “chế độ tham dự”, để thống trị các ngành kinh tế. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được các công ty cổ phần chủ yếu, gọi là “công ty mẹ”, công ty này mùa lại cổ phần của các công ty khác nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế mà thống trị được các công ty này mà gọi là các “công ty con”, đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu”.... Chế độ này càng ngày càng phát triển và mở rộng, trước kia tư bản tài chính chỉ khống chế chủ yếu trong ngành công nghiệp và ngân hàng thì nay chúng khống chế gần như khắp các ngành kinh tế, thực hiện chế độ tham dự phát triển theo xâu chuỗi hay móc xích. Theo hình thức này các công ty mẹ hoặc các công ty con của các tập đoàn tư bản tài chính thâm nhập và khống chế các công ty con và công ty cháu của các tập đoàn kinh tế khác, tạo nên sự xoắn xít về quyền lợi và đấu tranh, giành giật lẫn nhau giữa chúng. III.2. Sự hình thành của mô hình công ty mẹ–con trong thời kì xã hội chủ nghĩa mà cụ thể là các nước xã hội chủ nghĩa Trước kia, doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo luật DNNN còn doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật DN, giữa hai luật này có sự phân chia rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của thành viên tham gia. Trong mô hình công ty mẹ- con thì tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường Luật DN, tức là đã tạo sự bình đẳng giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân. Có sự tham gia của nhiều chủ thể thuộc thuộc các lĩnh vực có chế độ sở hữu khác nhau. Trong mô hinh công ty mẹ con có cả sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, thành phần kinh tế có sự tham gia của nước ngoài. Sự luân chuyển vốn giữa công ty mẹ và các công ty con trở nên mềm dẻo hơn. Tuy nhiên có sự độc lập tương đối giữa công ty mẹ và các công ty con. Công ty mẹ góp vốn vào công ty con và công ty con chịu trách nhiệm kinh doanh, còn công ty mẹ chỉ nhận số lãi dựa trên phần vốn góp của mình. Công ty con không phải đóng phụ phí quản lí như mô hình tổng công ty, do đó có sự độc lập tương đối với công ty mẹ. Sự phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các chủ thể trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước. Quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất kinh doanh của các công ty áp dụng mô hình công ty mẹ – con để dần tiến tới hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Chương II Ưu và nhược điểm của mô hình công ty mẹ–con Chúng ta thực hiện thí điểm chuyển từ mô hình TCT sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ–con, do sau môt thời gian hoạt động theo mô hình TCT , chúng ta đã nhìn ra nhược điểm của mô hình TCT là : Thứ nhất, với vị thế độc quyền nhà nước, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu (kết cấu hạ tầng của nền kinh tế), là đầu vào của quá trình sản xuất nhiều hàng hoá khác, nhưng một số tổng công ty đã không nỗ lực trong việc phấn đấu hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. thậm chí có trường hợp còn tăng giá. Qua đó cũng gián tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân. Với vai trò bảo đảm các cân đối lớn và góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô nhưng có trường hợp một số tổng công ty không bảo đảm kịp thời cân đối cung - cầu như ở các mặt hàng xăng dầu, xi măng,... chưa chủ động thu mua và đảm bảo giá lương thực, nông sản cho nông dân. Thứ hai, trước yêu cầu phát triển kinh tế đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, so với khu vực và thế giới, rằng năng lực sản xuất của các tổng công ty còn nhỏ bé. Biểu hiện là: vốn ít, công nghệ phần lớn lạc hậu; năng suất, hiệu quả chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém. Một số tổng công ty do không có đối thủ cạnh tranh trong nước nên mọi vấn đề về thị trường cũng như điều hoà sản xuất đều dựa vào Nhà nước, giá bán hàng hoá cao, chất lượng không đảm bảo, không cạnh tranh nổi với hàng hoá của nước ngoài.         Thứ ba, chưa tạo được sức mạnh tổng thể của các doanh nghiệp thành viên trong một tổng công ty như mong muốn, do đó chưa phát huy được triệt để nội lực cũng như các lợi thế so sánh và nâng cao khả năng cạnh tranh. Do đó việc chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ-con là cần thiết vì mô hình này có những ưu điểm sau : I.Ưu điểm Thứ nhất, tăng quyền tự chủ kinh doanh của các công ty thành viên. Sự chỉ đạo, chi phối của công ty mẹ đối với công ty con được thực hiện thông qua hình thức Đại hội cổ đông, quyền hạn của cổ đông được luật hiện hành quy định. Hoạt động theo cơ chế công ty TNHH một thành viên hoặc luật doanh nghiệp, quyền tự chủ kinh doanh của các công ty con được tăng cường , giảm bớt sự quản lí, can thiệp qúa sâu và công việc của công ty con như mô hình TCT. Thứ hai, xuất hiện một loại hình công ty mới–Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty TNHH một thành viên được thành lập từ những doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% số vốn thông qua nghị định 63/2001/NĐ-CP ngày 14/9/2001. Trong loại hình công ty TNHH một thành viên này thì cơ chế quản lí, quyền hạn, trách nhiệm của đại diện chỉ sở hữu và ngời quản lí điều hành doanh nghiệp được phân định rõ ràng cụ thể dựa trên cơ sở giá trị còn đối với DNNN hoạt động theo luật DNNN thì chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể, nhất quán , đại diẹn chủ sở hữu còn can thiệp vào việc quản lí tài sản của doanh nghiệp. Như vậy loại hình công ty TNHH một thành viên đã tạo ra bước chuyển biến mới trong việc quản lí DNNN còn 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước. Sự đổi mới này đã làm tăng khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động cho DNNN. Thứ ba, làm cho TCT thực sự là một đơn vị kinh doanh, có vai trò trung tâm, là một nhà đầu tư cỡ lớn đối với các công ty con. Thật vậy, sau khi xóa bỏ được cơ chế “xin- cho” thì sự đầu tư của TCT đóng vai trò quan trọng đối với các công ty con. TCT sẽ đầu tư só vốn của mình vào các công ty con của nó, sự đầu tư này sẽ được đánh giá dựa trên các tiêu thức về tỉ lệ sinh lời của các dự án mà công ty con có được, phụ thuộc vào tỉ lệ lợi nhuận mà công ty mẹ có được... Các công ty con sẽ sử dụng thương hiệu, phân chia thị phần, nguồn nhân lực của công ty mẹ, cùng với sự kết hợp hoạt động với các công ty con cùng cấp nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược kinh doanh mà Hội đồng giám đốc đã đề ra. Tăng hiệu quả và hiệu năng của quản lí hệ thống DNNN vốn còn chứa đựng nhiều yếu kém. Thứ tư, quá trình tích tụ và tập trung vốn sẽ được thực hiện tốt hơn và nhanh hơn do công ty mẹ sẽ nhận được số lợi nhuận tương ứng với số vốn đã bỏ ra để đầu tư vào công ty con. Vốn sẽ được luân chuyển một cách linh hoạt từ công ty con này sang các công ty con khác thông qua công ty mẹ. Đây là lợi thế về quy mô, khi tổ chức càng lớn thì tạo ra một lượng vốn có thể huy động là đáng kể, như vậy khả năng cạnh tranh sẽ được nâng lên. Sự đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào ngân sách bây giờ sẽ tương xứng hơn vì nó phụ thuộc vào phần vốn góp của nhà nước góp vào kinh doanh dưới dạng là một cổ đông lớn của công ty đó. Thứ năm, chi phí chuyển giao công nghệ giảm đi đáng kể. Tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu là mục tiêu đặt ra của doanh nghiệp, trong điều kiện khoa học công nghệ đang phát triển với tốc độ nhanh chóng thì việc chuyển giao công nghệ là việc làm thiết thực để tăng khả năng cạnh tranh về chất lượng và giá cả của sản phẩm. Hơn nữa công nghệ chỉ chuyển giao cho những công ty con thuộc hệ thống công ty mẹ – con do đó tạo thêm lợi thế về quy mô so với các công ty khác. Hơn nữa trong tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam đang mắc phải là trình độ kĩ thuật công nghệ qúa lạc hậu , chắp vá của nhiều thế hệ, mức độ hoàn chỉnh đồng bộ rất thấp, đã hao mòn quá nửa. Từ đó hao phí vật chất quá lớn, chất lượng quá kém nên không có khả năng cạnh tranh, mô hình công ty mẹ- con đã khắc phục được hạn chế này của các doanh nghiệp. Thứ sáu, ưu điểm về cán bộ, tận dụng và phát huy nhân tố con người, phát triển trình độ lao động, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ doanh nghiệp cả về cán bộ kĩ thuật lẫn cán bộ về quản lí. Đổi mới cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp theo mô hình công ty mẹ- con đã đạt được các yêu cầu: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Chống độc quyền trong kinh doanh phát triển cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cơ sở tạo lập môi trường pháp lí cho sự cạnh tranh trung thực, công bằng với thước đo là hiệu quả kinh tế cao. Kiên quyết xóa bỏ mọi hình thức bao cấp, do đó phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế để đánh giá sự tăng trưởng hay phá sả. Đầu tư của nhà nước theo phương thức kinh doanh. Tạo ra một cơ chế về trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng. Quyền hạn, trách nghiệm của chủ sở hữu, tính năng động của người chỉ đạo kinh doanh phải được xác định rõ ràng trên cơ sở bảo đảm: Phát triển vốn do nhà nước đầu t, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách, không ngừng cải thiện đời sống của người lao động; phát huy vai trò làm chủ của người lao động, tăng cường gắn bó quyền lợi trách nhiệm của người lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Mô hình công ty mẹ–con cũng chưa phải là mô hình hoàn hảo do đó nó cũng có những nhược điểm, những nếu chúng ta khắc phục được những nhược điểm này thì đây sẽ là mô hình được nhân rộng ở Việt Nam trong những năm sắp tới. II.Nhược điểm Tuy có nhiều ưu điểm song mô hình công ty mẹ – công ty con cũng có những nhược điểm của nó. Thứ nhất, sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các công ty con, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty mẹ và con. Mục tiêu của các công ty đều là tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu, do đó để tăng doanh số của mình, các công ty con phải tăng cường quảng cáo, mở rộng quy mô, giảm chi phí sản xuất của công ty mình. Tuy nhiên, trong mô hình công ty mẹ – công ty con ở Việt Nam thì có những công ty con cùng chung lĩnh vực kinh doanh, ví dụ như các công ty cung cấp thiết bị xây dựng. Các công ty này đã cạnh tranh lẫn nhau để giành khách hàng về cho công ty mình. Nguyên nhân của nhược điểm này chính xuất phát từ ưu điểm của nó. Đó là cơ chế cấp vốn quá linh động, công ty mẹ chỉ hưởng số lợi nhuận dựa trên số vốn góp vào công ty con như vậy các công ty con làm mọi cách để tối đa lợi nhuận của mình mà không hề nghĩ rằng họ là “Gà cùng một mẹ”. Do đó các công ty con này trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau, làm giảm lợi nhuận của nhau, vô hình chung điều này lại làm giảm lợi nhuận của công ty mẹ, do công ty mẹ đều có một số vốn góp nhất định vào các công ty con nay. Thứ ba, tư tưởng chuyển đổi ồ ạt các doanh nghiệp nhà nước độc lập, các TCT không đủ điều kiện tiếp tục tồn tại theo quyết định 58/2002/QĐ-TTg sang mô hình này để hi vọng vẵn được tồn tại là doanh nghiệp nhà nước (theo mô hình mới). Việc chuyển đổi ồ ạt trong những năm qua đã cho chúng ta những bài học đắt giá mà hậu quả của nó hiện tại vẫn chưa được khắc phục (đồng loạt chuyển đổi các liên hiệp xí nghiệp sang mô hình TCT). Thứ tư, gia tăng nạn thất nghiệp. Nước ta được đánh giá là nước có nguồn lao động dồi dào, nhân công chăm chỉ học tập kĩ thuật mới, tuy nhiên cũng chính vì yếu tố lợi nhuận, để giảm chi phí sản xuất thì việc tinh giảm biên chế luôn là vấn đề được đặt ra. Điều này làm tăng tỉ lệ thất nghiệp, như vậy sẽ phải tăng ngân sách cho y tế, giáo dục và trợ cấp thất nghiệp... Thứ năm, công ty nào làm công ty mẹ? Theo kết quả kiểm kê lúc 0 giờ này 1/1/2000 do BTC tiến hành thì vốn kinh doanh của các doanh nghiệp đang được thí điểm chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ , con như sau : Tên doanh nghiệp Vốn KD (Tỷ đồng) Cty xây lắp điện III 52,471 TCT Hàng Hải VN 435,210 Cty vàng bạc đá quý TP HCM 80,679 Cty vận tải và thuê tàu 83,502 Nhà máy thuốc lá Khánh Hòa 64,523 Cty Văn hóa tổng hợp Bến Thành 23,998 TCT xây dựng Bạch Đằng 49,20 Cty XNK vật liệu và KTXD 15,376 TCT Đường sông miền nam 7,960 Cty xây dựng và phát triên xây dựng 11,322 TCT địa ốc Sài Gòn 36,612 TCT Du lịch Sài Gòn 79,003 TCT thủy sản VN 33,498 TCT vật liệu xây dựng Sài Gòn 12,728 TCT xây dựng Sài Gòn 246,000 TCT Hàng không VN 3,587,740 TCT lương thực miền nam 969,081 TCT công nghiệp tàu thủy 788,520 TCT Dệt – May VN 4,895,209 Thứ sáu, cần có hành lang pháp lí để giải quyết những vướng mắc đang nảy sinh khi áp dụng mô hình. Trước hết đặt ra đó là phải thiết lập một cơ chế quản lí tài chính giữa công ty mẹ và công ty con. Tiếp đến là quy định rõ trách nhiệm của các bên có liên quan, đó là trách nhiệm của cổ đông thành viên, bên liên doanh, bên góp vốn tại công ty cổ phần vốn góp của công ty theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty con. Các Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con đã tạo ra sự bình đẳng trong các doanh nghiệp, tất cả các công ty thành viên đều hoạt động theo luật doanh nghiệp thay vì phân ra có công ty hoạt động theo luật DNNN hay luật DN. Việc đặt ra là hoàn thiện luật DN. Để khắc phục các nhược điểm này, theo ý kiến của tôi công ty mẹ cần thống nhất các công ty con có chung hoạt động. Cần có sự chỉ đạo thống nhất tập trung ở tầm vĩ mô của công ty mẹ với các công ty con. Công ty mẹ chỉ đưa ra những ý kiến đóng góp về hoạt động của công ty con với tư cách là cổ đông lớn đóng góp vào công ty con, hoặc công ty mẹ chỉ đạo nếu như công ty mẹ nắm giữ số cổ phiếu chi phối công ty con. Ngoài ra, việc tinh giảm biên chế trong các công ty luôn thực hiện ở mức sao cho đạt được hiệu quả tối đa, nghĩa là mở rộng hay thu hẹp phạm vi hoạt động của công ty con ở mức độ vẫn đảm bảo được lợi nhuận của công ty con, công ty mẹ hay các cổ đông khác. Khung pháp lí luôn được đặt ra khi có một mô hình mới xuất hiện, chúng ta đã nhận được bài học từ khi chyển đổi một loạt các liên hiệp xí nghiệp, công ty sang hoạt động theo mô hình TCT và chúng ta đã phải trả giá cho sự nóng vội đó. Vậy để tránh dẫm vào vết xe đổ lần trước, chúng ta cần hoàn thiện khung pháp lí mà cụ thể là hoàn thiện luật DN và đưa ra một quy chế về quản lí tài chính cụ thể cho hoạt động của mô hình này. III.Hướng tới mô hình Tập đoàn kinh doanh Tập đoàn kinh doanh được hiểu là một tổ hợp các công ty mẹ- công ty con. Lĩnh vực của tập đoàn bao quát rộng, một tập đoàn thương được cấu trúc như sau: Các doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào Các công ty phụ trách tiêu thụ sản phẩm Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng ngành Ngân hàng, tài chính, tư vấn, đầu tư... Các nhà máy sản xuất Trước hết cần phải nghiên cứu xây dựng mô hình Tập đoàn thích hợp áp dụng cho các Tổng công ty hiện nay. Việc xây dựng mô hình Tập đoàn không nên rập khuôn theo một mô hình nhất định nào đó mà phải làm sao tận dụng được ưu thế của nứoc đi sau đồng thời phải phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mô hình Tập đoàn kinh tế mà các Tổng công ty hiện nay sẽ tiến tới nhất thiết phải là mô hình liên kết về mặt tài chính, đầu tư chứ không phải liên kết hành chính, cơ học như hiện nay. Mô hình "Công ty mẹ-con" trong đó có tính đến những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi Tổng công ty và của nước ta là một mô hình cần tham khảo. Thực hiện đa dạng hóa về sở hữu nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn phải giữ vai trò chủ đạo. Đối với những doanh nghiệp, những ngành mà Nhà nước không cần nắm giữ thì tiến hành cổ phần hóa hoặc thực hiện bán, khoán, cho thuê nhằm thu hút thêm vốn đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Đối với những ngành, những doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ thì phải tiến hành củng cố, sắp xếp để các doanh nghiệp này có đủ sức mạnh đóng vai trò là những doanh nghiệp chủ đạo của nền kinh tế. Đồng thời với việc đa dạng hóa về sở hữu phải thực hiện đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh nhưng vẫn phải xác định ngành, lĩnh vực trung tâm nhằm tận dụng, phát huy sức mạnh, lợi thế so sánh trong cạnh tranh trên thị trường. Phát triển liên kết kinh tế theo hướng liên kết dọc, liên kết ngang và kết hợp hỗn hợp dọc ngang nhằm nhanh chóng thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn, lao động, khoa học công nghệ, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Liên kết dọc (vertical combination) tức là các công ty có quan hệ với nhau bởi quy trình công nghệ thống nhất liên kết lại với nhau, nói khác đi là liên kết các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Liên kết ngang tức là các công ty cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực kinh doanh liên kết lại với nhau. Liên kết hỗn hợp dọc - ngang theo đó, các công ty thuộc nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau thực hiện liên kết lại với nhau. Đây là hình thức hiện đại và phổ biến nhất hiện nay. Tiến hành chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo Luật công ty, tức là thực hiện công ty hóa các doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Về thực chất, công ty hóa là chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó Nhà nước là cổ đông duy nhất (Cty TNHH một thành viên). Thành lập và phát triển các Công ty tài chính trong Tổng công ty làm trung tâm huy động vốn, cung cấp và điều hòa vốn cho các công ty thành viên. Về lâu dài phải tiến tới thành lập một ngân hàng bởi lẽ hoạt động tài chính ngân hàng đóng vai trò quan trọng cho sự tồn tại và phát tri

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0804.doc
Tài liệu liên quan