Đề tài Cơ sở lý luận, thực tiễn và hệ thống giải pháp để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Công cuộc CNH & HĐH ở nước ta diễn ra muộn nên có điều kiện rút kinh nghiệm và tiếp thu những công nghệ mới sẵn có trên thế giới. Tình hình chính trị,xã hội ổn định,nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã được hình thành và có những bước phát triển nhất định.

Đất nước ta sau 10 năm đổi mới đã đi ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhiều tiền đề cần thiết cho CNH & HĐH đã được tạo ra, chúng ta đã và đang có những thế và lực mới cả ở bên trong và bên ngoài để bước vào một tthời kỳ phát triển mới.

Tầm quan trọng của vị trí địa lý là thuận lợi khiến cho chúng ta có thể giao lưu trao đổi kinh nghiệm,thông thương với nước ngoài. Hơn nữa cũng tạo ra điều kiện cho sự đầu tư cho nước ngoài. Vị trí địa lý thuận lợi cũng kèm theo bên cạnh sự xuất hiện nhiều khoáng sản, là yếu tố cần thiết cho chúng ta trong hoàn cảnh khó khăn này.

Nguồn nhân lực của chúng ta rất dồi dào. Nước ta có đội ngũ ngũ tri thức có tư chất có trí tuệ cao đã trưởng thành cùng với sự phát triển của đất nước,có đội ngũ lao động có học vấn tương đối cao, lực lượng lao động có trình độ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo tương đối lớn.

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận, thực tiễn và hệ thống giải pháp để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự dịch chuyển cơ cấu nghành là sự dịch chuyển cơ cấu vùng lãnh thổ.Do không có đIều kiện để triển khai đầu tư ngay cho tất cả các vùng vì vậy trước mắt từ nay đến năm 2010 phát triển hai địa bàn kinh tế trọng đIểm là Hà Nội – HảI Phòng-Hạ Long và Hồ Chí Minh – Biên Hoà và Bà Rịa -Vũng Tàu.Mục đích là từ những khu kinh tế trọng đIểm này tạo ra sức kéo cho các vùng kinh tế khác.Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn tới quá trình phân công lại lao động và chính sách đầu tư cho phù hợp. Với tư cách là một tiến trình khách quan,sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH & HĐH cơ cấu kinh tế quốc dân sẽ diễn ra như là một tất yếu.Nền kinh tế sẽ nằm trong quá trình cất cánh và hội nhập cùng thế giới... Tóm lại nội dung cơ bản của CNH & HĐH trong những năm còn lạI của thập kỷ 90 có thể nói :” Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,phát triển toàn diện nông,lâm,thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.Nâng cấp cảI tạo,mở rộng và xây dựng mới có trọng đIểm kết cấu hạ tầng kinh tế,trước hết ở những khâu ách tắc và yếu nhất đang cản trở sự phát triển ” (Văn kiện Đại hội đạI biểu toàn quốc lần thứ VIII) -Về công nghiệp : Để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý :công nghiệp –nông nghiệp –dịch vụ ta phải ưu tiên các nghành chế biến lương thực –thực phẩm,sản xuất hàng hoá tiêu dùng,hàng xuất khẩu,công nghiệp đIện tử và công nghệ thông tin. Phát triển có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng.Cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và về công nghệ sản xuất.Xây dựng mới một số khu công nghiệp,phân bố rộng trên các vùng. - CNH & HĐH nông nghiệp và nông thôn.Phải có cshính sách riêng ưu đãi trợ giúp nông dân trong xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển giao công nghệ.Giải quyết khó khăn về vốn,giá cả vật tư nông nghiệp và hàng nông sản.Phát triển toàn diện nông,lâm,ngư nghiệp sao cho có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng,tốt về chất lượng. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội,từng bước hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại.Hoàn thành cơ bản việc giao đất khoán rừng cho hộ nông dân.Phát triển các nghành nghề làng nghề truyền thống để giải quyết vấn đề việc làm. -Để đạt được mục tiêu năm 2020 là nước công nghiệp thì ngoài phát triển công nghiệp,nông nghiệp ta còn phảI phát triển kinh tế đối ngoạI.Ta phảI chủ động tham gia vào cộng đồng thương mại thế giới các diễn đàn,tổ chức một cách có chọn lọc với những bước đi thích hợp,Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập được với khu vực vừa hội nhập được với toàn cầu.Cải thiện cán cân thanh toán,tăng dự trữ ngoại tệ , dần tiến hành việc đầu tư ra nước ngoài. 4-Những tiền đề cần thiết của CNH & HĐH Việc tiến hành CNH & HĐH là hết sức cần thiết cho các nước nói chung và chúng ta nói riêng.Trong đIều kiện hoàn cảnh lịch sử còn có nhiều việc phải bàn chúng ta bước vào CNH & HĐH ắt hẳn phảI có những đIều kiện và khó khăn nhất định.Đứng trước tình hình đó Đại hội đại biểu lần thứ VIII đã đưa ra những tiền đề và giải pháp cho công cuộc CNH & HĐH như sau: Tạo nguồn vốn tích luỹ cho CNH & HĐH Vốn và sử dụng vốn là vấn đề đặc biệt quan trọng.Không có vốn thì không thể nói đến CNH & HĐH.Kinh nghiệm các nước có nền kinh tế phát triển cho thấy tốc độ CNH & HĐH phụ thuộc khá chặt chẽ vào mức độ,cách thức tạo vốn và khả năng sử dụng vốn. Vốn có nhiều loại :Vật tư kỹ thuật,tiền tệ,lực lượng lao động có tri thức cao..ở nước ta tiềm năng những loại vốn này khá phong phú.Vấn đề là làm thế nào huy động được từ các thành phần kinh tế và trong toàn xã hội để tạo thành một nguồn vốn lớn.Nguồn gốc cơ bản của vốn tích luỹ là lao động thặng dư chứ không phải tăng độ dài của thời gian lao động.Nguồn vốn để tiến hành CNH & HĐH bao gồm vốn tích luỹ trong nước và vốn tích luỹ từ bên ngoài.Trong hai loại vốn trên cần nhận thức rằng vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng đặc biệt,là giai đoạn đầu nhưng nguồn vốn trong nước lạI có ý nghĩa quyết định.Hãy thử nhìn ra các nước ta thấy tuy được sự hỗ trợ tài chính từ nước ngoài nhưng các nước NIC vẫn phải huy động từ 70- 80 % vốn trong nước trong thời kỳ đầu của quá trình CNH. Nhà nước phải tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo đIều kiện cho từng địa phương,từng cơ sở phát triển mạnh mẽ sản xuất.Muốn vậy nhà nước phải đề ra các chính sách kinh tế phù hợp,đặc biệt là chính sách tài chính,tiền tệ nhằm khơi thêm các nguồn vốn trong tất cả các thành phần kinh tế dể tập trung cho CNH Kinh nghiệm của nhiều nước trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho thấy để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần phải tạo ra được môi trường đầu tư có lợi –là mội trường đầu tư có nhiều yếu tố đảm bảo cho nhà đầu tư thực hiện được mục đích của mình.Môi trường đầu tư có lợi nói chung bao gồm các yếu tố : Bảo đảm có lợi nhuận cao,đây là nhu cầu cơ bản nhất là mục đích chủ yếu của người đầu tư. Vấn đề này liên quan trực tiếp tới luật đầu tư có đủ sức hấp dẫn đến mức độ nào,đến triển vọng của nền kinh tế,đến dung lượng tthi trường,đến giá cả lao động cao hay thấp... Xét về mặt này thì Việt Nam còn có nhiều khả năng để thu hút FDI vì Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển và lại nằm trong vùng kinh tế năng động nhất thế giới.Sức lao động rẻ có khả năng sử dụng các kĩ thuật mới... Đảm bảo an toàn đầu tư.Đó là sự ổn định chính trị và kinh tế không có sự biến động lớn về chính trị ; kinh tế phát triển ổn định,ít hoặc không lạm phát. Ví như Singapore năm 1990 được xác định là nơi không có “nguy hiểm đầu tư ”.Đó là đIều kiện quan trọng để các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào quốc gia này Các đIều kiện cần thiết cho đầu tư thuận lợi như kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, pháp chế được kiện toàn,có lượng vốn trong nước đạt đến một trình độ nhất định,có các năng lực nội tại đủ để tiếp nhận và phát triển các công nghệ phù hợp của các dự án FDL Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ đồng thời có chiến lược đào tạo cán bộ khoa học –kỹ thuật,khoa học quản lý,công nhân lành nghề Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra rất mạnh mẽ và nhanh chóng trên thế giới.Nó tạo ra những vận hội và cả những thách thức trong sự nghiệp phát triển đất nước,đặc biệt là những nước kém phát triển.Việt Nam cũng không nằm ngoàI xu thế đó. Biết sử dụng và đầu tư đúng mức cho hoạt động nghiên cứu chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta những kết quả khả quan, vững bước trên con đường CNH Sự nghiệp công nghiệp hoá là sự nghiệp của toàn thể nhân dân lao động trông đó lực lượng cán bộ khoa học –kỹ thuật,khoa học quản lý sản xuất kinh doanh và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng.Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia chỉ đạt được với tốc độ cao khi chúng ta giảI quyết tốt và thực hiện đồng bộ cả hai nhân tố của quá trình sản xuất đó là TLSX hiện đạI và công người hiện đạI –chủ thể của quá trình đó. Tài nguyên con người là yếu tố quan trọng nhất của CNH & HĐH .Trong văn kiện ĐạI hội VIII có nêu :” Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Công cuộc CNH & HĐH đòi hỏi phảI tiếp thu có hiệu quả những tri thức hiện đại của thế giới nhưng đồng thời phải phát huy được sức mạnh nội sinh của dân tộc và phát huy được mọi tiềm năng của đất nước.Do vậy sự nghiệp CNH & HĐH ở nước ta đòi hỏi phải phát triển một cách mạnh mẽ liên tục đội ngũ tri thức đội ngũ các nhà khoa học trong tất cả các nghành,lĩnh vực. Không ai phủ nhận được rằng đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo là cách đầu tư cơ bản nhất,đảm bảo nhất cho sự phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững chắc chắn nhất.Đến một thời đIểm nào đó nó nhất định góp phần tạo ra sự thăng tiến,nhảy vọt về kinh tế – xã hội. Vì vậy về cơ bản cần nghiên cứu một cách có hệ thống các chính sách nhằm động viên,khuyến khích bồi dưỡng nhân tài thu hút được các tri thức trong và ngoài nước.Không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ những người làm công tác giáo dục -đào tạo,những người làm công tác khoa học.Tăng cường việc xét học hàm cho đội ngũ này để xứng đáng với vai trò to lớn mà họ đảm nhận Đồng thời chúng ta cũng phải tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề để đảm đương công việc lao động trong quá trình CNH. Hiện nay ỏ nước ta do quá nghiêng về lý thuyết nên đào tạo cán bộ khoa học cũng như cán bộ quản lý một cách xô bồ,hầu như không có chất lượng.Tất cả chạy theo số lượng mà không để ý tới chất lượng.Mọi thành viên đều muốn làm cán bộ khoa học mà không hiểu cán bộ khoa học là gì. Trong khi đó đội ngũ công nhân lành nghề thì thiếu trầm trọng. Hấu như công nhân hiện có đều không qua đào tạo hoặc nếu có thì rất căn bản không đủ yêu cầu để đáp ứng cho nền CN hiện đại.Vì vậy trong đai hội VIII giữa nhiệm kỳ đảng ta có nhắc đến vấn đề đào tạo cho xã hội một đội ngũ công nhân thực thụ tránh tình trạng “thừa mà thiếu ”. Sau một thời gian thực hiện thì trước mắt chúng ta đã có một kết quả khả quan hơn về đội ngũ cán bộ cũng như công nhân : Số lượng đào tạo cán bộ khoa học có chất lượng được tăng lên, Số lượng công nhân lành nghề phục vụ quá trình CNH tăng lên trong những năm cuối thập kỷ 90 và traong năm 2000 Song nếu chỉ có đào tạo con người phục vụ cho quá trình CNH thì chưa đủ, chúng ta phả có nhiệm vụ tạo ra công nghệ mới hay chí ít cũng phải hiểu được công nghệ sẵn có.Vì vậy công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ cũng không thể tách rời khỏi quá trình CNH & HĐH.Mục đích cuối cùng cũng chỉ là phục vụ cho công cuộc CNH toàn diện. Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất. Nhằm bố trí khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên chúng ta phải xây dựng các cơ sở hạ tầng,đặc biệt là cơ sở hạ tầng của nghành giao thông vận tảI và có kế hoạch phát triển hợp lý,phù hợp với đIều kiện ở các vùng lãnh thổ.Nghiên cứu quy hoạch hướng dần các nhà đầu tư theo quy hoạch của chính phủ,chỉ đạo thực hiện các chương trình trọng đIểm quốc gia về CNH và phát triển công nghiệp trong từng thời kỳ cho phù hợp. Đẩy mạnh tìm kiếm khoáng sản,thăm dò và khai thác dầu và khí.Đa dạng hoá các hình thức hợp tác liên doanh ; nâng cao năng lực công nghiệp dầu khí quốc gia cả trong thăm dò,khai thác, chế biến và dịch vụ.Xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng khí thiên nhiên,khí đồng hành. Đây là những nhiệm vụ trước mắt,là lợi thế của đất nước ta Đảm bảo sự cân bằng hệ sinh thái trong quá trình CNH & HĐH Trong quá trình CNH & HĐH khi xây dựng các khu công nghiệp,các chương trình trọng điểm về kinhh tế phải tính tới những vấn đề có tính quy luật trong quá trình đô thị hóa đó là giải quyết vấn đề việc làm,giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5 % và tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn trên 75%. Quá trình CNH là tất yếu xảy ra thì quá trình đô thị hoá cũng tất yếu xảy ra. Hiện tượng chạy xô ra thành thị để mong chờ cuộc sống tốt đẹp hơn không thể tránh khỏi,chúng ta cần có biện pháp hợp lý để tránh tình trạng chỗ thì thừa người chỗ thì thiếu người. Ngăn chặn và giảm ô nhiễm môi trường ở thành phố, khu công nghiệp. Thực hiện chủ trương phân bố dân cư đồng đều để tránh tạo ra những siêu đô thị. Trong giai đoạn hiện nay do bùng nổ về công nghiệp ở các nước thế giới thứ ba là những nước chỉ quan tâm lợi ích trước mắt mà không quan tâm tới hậu quả của quá trình CNH tạo ra nên hệ sinh thái của thế giới nói chung đang đi vào bờ vực thẳm của sự ô nhiễm. ở đâu cũng có sự ô nhiễm trầm trọng,mà đó là hậu quả không đâu khác ngoài quá trình CNH tạo ra.Vì vậy không chỉ riêng chúng ta mà cả thế giới này đang tìm cách bảo vệ môi trường. Do đó một mặt chúng ta đẩy mạnh quá trình CNH một mặt chúng ta cần hạn chế thậm chí loại trừ những công việc nào có ảnh hưởng trực tiếp nghiêm trọng tới môi trường. Nước ta mới bước vào thời kì đẩy nhanh CNH & HĐH nhưng đã đối mặt với vấn đề môi trường.Chỉ riêng thành phố Hà Nội và thành phố HCM ô nhiễm tới mức báo động.ở Hà Nội ô nhiễm khí CO2 gấp 14 lần tiêu chuẩn cho phép. ở TP HCM với 700 nhà máy và hơn 30000 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và nước thải sinh hoạt không được xử lý đã làm cho ô nhiễm môi trường đến mức các kim loại nặng như chì thuỷ ngân với hàm lượng lớn hơn 20 lần tiêu chuẩn cho phép,còn bụi bẩn thì vượt chỉ tiêu cho phép tới 70 lần. Chính vì vậy chúng ta phải có hoạch địng rõ ràng để ngăn chặn tình trạng này một cách có hiệu quả,tránh tình trạng được việc này thì hỏng việc kia. Bài học kinh nghiệm của các nước đi trước cũng như thực tế đất nước là rất bổ ích cho chúng ta trong quá trình CNH & HĐH ,để làm giảm tối đa nạn ô nhiễm môi trường. Chương II - Thực trạng quá trình CNH & HĐH ở nước ta Thuận lợi, khó khăn của nước ta khi bước vào CNH & HĐH: Khó khăn: Do chúng ta phải vật lộn với hết cuộc chiến tranh này đến cuộc đấu tranh khác do vậy không chỉ con người chúng ta bị kiệt qụê, mệt mỏi mà toàn bộ đất nước đều bị vắt kiệt sức lực trên mọi mặt. Thêm vào đó chúng ta lại không trải qua giai đoạn phát triển tư bản tức là không qua phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó người Việt Nam hiện nay rất khó tiếp thu quy tắc của đời sống đô thị,tác phong lao động công nghiệp có kỷ luật cao. Dấu ấn tiểu nông không chỉ nằm trong tiềm thức những người lao động mà còn nằm trong các cấp quản lý. Cố vấn Võ Văn Kiệt đã từng nhận xét trong hội nghị phát triển đô thị rằng chúng ta quản lý các đô thị hệt như quản lý các làng xã. Việt Nam thuộc hàng các nước kém phát triển điều kiện kiện cơ sở vật chất,kỹ thuật thiếu thốn, trình độ khoa học công nghệ thấp kém. Thêm vào đó ta lại phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt về kinh tế và thương mạI của các cường quốc bấy lâu vẫn muốn xâm lược gây cho ta không ít khó khăn. An ninh quốc phòng chưa thật sự ổn định,các thế lực phản động trong và ngoài nước vẫn luôn chống phá ta trên cả hai mặt kinh tế và an ninh, quốc phòng. Công tác giáo dục và đào tạo chưa theo kịp yêu cầu.Các chính sách đầu tư chưa thoả đáng,các chính sách khuyến khích tài năng chưa mang tính thường xuyên, nghiêm trọng hơn tình trạng “chảy máu chất xám “ đang diễn ra ngày càng nhiều đội ngũ tri thức còn mỏng, phân bố không đồng đều gây cản trở cho tiến trình CNH & HĐH. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH & HĐH từ một cơ cấu kinh tế mất cân đối và kết cấu hạ tầng kém phát triển là những khó khăn, cản trở đáng kể,đòi hỏi phảI có sự chuyển biến nhanh chóng mới tạo đIều kiện để tiến trình CNH & HĐH có hiệu quả. Nhìn chung những khó khăn ban đầu và sự phát sinh CNH & HĐH ở nước ta là rất lớn song mặt thuận lợi vẫn là cơ bản. Với đường lối CNH & HĐH đúng đắn chắc chắn sự nghiệp vĩ đạI nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên XHCN ở nước ta nhất định giành thắng lợi. Thuận lợi: Công cuộc CNH & HĐH ở nước ta diễn ra muộn nên có điều kiện rút kinh nghiệm và tiếp thu những công nghệ mới sẵn có trên thế giới. Tình hình chính trị,xã hội ổn định,nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã được hình thành và có những bước phát triển nhất định. Đất nước ta sau 10 năm đổi mới đã đi ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhiều tiền đề cần thiết cho CNH & HĐH đã được tạo ra, chúng ta đã và đang có những thế và lực mới cả ở bên trong và bên ngoài để bước vào một tthời kỳ phát triển mới. Tầm quan trọng của vị trí địa lý là thuận lợi khiến cho chúng ta có thể giao lưu trao đổi kinh nghiệm,thông thương với nước ngoài. Hơn nữa cũng tạo ra điều kiện cho sự đầu tư cho nước ngoài. Vị trí địa lý thuận lợi cũng kèm theo bên cạnh sự xuất hiện nhiều khoáng sản, là yếu tố cần thiết cho chúng ta trong hoàn cảnh khó khăn này. Nguồn nhân lực của chúng ta rất dồi dào. Nước ta có đội ngũ ngũ tri thức có tư chất có trí tuệ cao đã trưởng thành cùng với sự phát triển của đất nước,có đội ngũ lao động có học vấn tương đối cao, lực lượng lao động có trình độ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo tương đối lớn. Với các tiềm năng trên cộng với đường lối chính sách đúng dắn chúng ta có thể tranh thủ được thời cơ và thuận lợi vượt qua những thử thách,thực hiện thắng lợi CNH & HĐH,đưa đất nước thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Thực trạng quá trình CNH & HĐH ở nước ta hiện nay a- Thành tựu chủ yếu: Có thể nói sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986). Từ đó đến nay nước ta đã đứng trước những biến động to lớn và phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và những khó khăn thử thách của việc chuyển sang nền kinh tế thị trường.Nhìn tổng quát, quá trình CNH ở nước ta trong trong những thập niên vừa qua tuy có nhiều bước thăng trầm do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra song những thành tựu đạt được là rất đáng ghi nhận.Nền kinh tế của ta sau hơn 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể : Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng không ổn định giai đoạn 1986-1990, đạt mức bình quân hàng năm 5,6 % đã dần từng bước tăng ổn định và nhanhh chóng trong giai đoạn 1991-1995,đạt bình quân hàng năm 8,2 %. Cơ cấu GDP có sự cải thiện: Nông nghiệp giảm tương đối so với khu vực dịch vụ Nông nghiệp phát triển nhanh,ổn định trong đIều kiện có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,nông thôn,làm cho tình hình kinh tế –xã hội có sự chuyển biến ngày càng tốt.Từng bước thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp độc canh, lạc hậu dần tiến tới hình thành một cơ cấu nhiều nghành và nhiều thành phần trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong nội bộ nghành công nghiệp nói riêng Trong mười năm qua từ 1991 đến 2000 nghành nông nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực.giá trị sản lượng toàn nghành tăng bình quân 5.6% trong đó ngành thuỷ sản tăng 9.1%, lâm nghiệp tăng 2.1%, nông nghiệp tăng 5.4%. tốc độ tăng trưởng GDP trong nông nghiệp mười năm đạt 4.3%/năm, trong đó thời kỳ 1991-1995 đạt 4.38%/ năm, thời kỳ 1996-2000 đạt 4.28%/năm... Nếu như năm 1991 chỉ có hai mặt hàng nông sản là chủ lực xuất khẩu của Việt Nam, là gạo và thuỷ sản ( trong tổng số bốn mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo, dệt, may, thuỷ sản ) thì đến năm 1998 đã có tới năm mặt hàng nông sản là : gạo, cà phê, cao su, hạt đIều, rau quả trong tám mặt hàng xuất khẩu của lực của Việt nam. trong đó giá trị kim nghạch xuất khẩu gạo đạt trên 1 triệu USD ; cà phê,cao su, hạt điều, rau quả có giá trị kim nghạch xuất khẩu từ 500USD đến 1triệu USD. ĐIều này cho thấy hàng hoá nông sản của Việt nam ngày càng được tiêu thụ mạnh trên thị trường thế giới và đã có chỗ đứng vững chắc. Từ 1999 Việt Nam đã là nước đứng thứ hai về xuất khẩu gạo với 4508 nghìn tấn sau Thái Lan. Công nghiệp tăng trưởng nhanh với chất lượng mới sau quá trình tổ chức lại và đương đầu có kết quả với cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Từ mức sản xuất thu nhập quốc dân không đủ trang trảI quỹ tiêu dùng,Việt Nam đã nâng mức tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế tăng nhanh. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) được mở ra từ cuối năm 1987. Đến nay Việt Nam đã cấp giấy phép cho hơn 1500 dự án với tổng vốn đầu tư lên tới hơn 19 tỷ đô la, trong đó vốn thực hiện gần 6 tỷ. Thời kỳ 1991-1995 tỷ lệ FDI thực hiện trong tổng đầu tư xã hội đạt 26,8 %. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là một nguồn vốn bổ xung quan trọng cho tích luỹ trong nước,đồng thời đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh sản xuất chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường,tạo thêm việc làm. Bước đầu đã tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Năng lực sản xuất công nghiệp của một số nghành có tác động quan trọng trong nền kinh tế như : điện, dầu khí, xi măng đa được tăng nhanh trong những năm qua. Thời gian gần đây một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến lương thực – thực phẩm đã được chú trọng đầu tư và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp đã vượt qua thời kỳ phát triển thấp trước năm 1990, giá trị sản xuất từ năm 1991 trở lại đây tăng bình quân hàng năm 13% so với mức mục tiêu đề ra là 7.5-8% .Tạo mức tăng trưởng cao về một số sản phẩm công nghiệp khai thác nguồn tài nguyên trong nước như :nhiên liệu, điện,vật liệu xây dựng (chủ yếu là xi măng), công nghiệp chế biến thực phẩm.Theo báo cáo của Bộ công nghiệp thì sau năm năm thực hiện kế hoạch (1991-1995) thì công nghiệp nặng tăng :15,4%, đIện tăng 14,25%, Than tăng 15,10%, công nghiệp nhẹ tăng 10,6% Xuất khẩu tăng nhanh,đạt nhịp độ tăng bình quân 1986-1990 là 28%,bảo đảm nguồn tài chính đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhập vật tư cho sản xuất và hàng hoá tiêu dùng của nhân dân. Năm 1995 tỷ lệ xuất khẩu GDP đạt 25 %,là mức cao trên thế giới, phản ánh “độ mở cửa” ngày càng tăng của nền kinh tế Việt Nam. Sản xuất công nghiệp có bước đIều chỉnh khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và bị cắt giảm nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tăng trưởng bình quân khoảng 6 % thời kỳ 1986-1990. Cùng với quá trình đổi mới,tổ chức lại sản xuất công nghiệp tăng bình quân 13,5% thời kỳ 1991-1995, góp phần tăng GDP bình quân 8,2% trong năm năm gần đây. Sản xuất xi măng trong nước tăng nhanh, đáp ứng phần lớn nhu cầu xây dựng ngày càng tăng. Tổng sản lượng xi măng 5 năm 1991-1995 đạt 14 triệu tấn. Sản xuất thép tăng 30,3 % trogn thời kỳ 1991-1995.Hiện nay nước ta đã có 7 công ty liên doanh cán thép xây dựng, các công ty này đã hoạt động được từ 2- 5 năm.Năm 2000 nghành thép nước ta có tổng công suất cán kéo là 2.650.000 tấn /năm. Lần đầu tiên Việt Nam đã sản xuất được dầu,góp phần tăng nhanh nguồn xuất khẩu, sản xuất khí đốt phục vụ công nghiệp và đời sống. Sản lượng dầu thô thời kỳ 1991-1995 đạt 30,4 triệu tấn gấp 6 lần thời kỳ 1986-1990. Điện năng phát triển mạnh,tăng trên 10 % hàng năm.Đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và phục vụ đời sống cho nhân dân. Đặc biệt chúng ta hoàn thành công trình đường dây 500KV xuyên suốt từ Hoà Bình tới TP Hồ CHí Minh góp phần làm tăng năng suất khai thác và sử dụng đIện năng. Sắp tới chúng ta sẽ xây dựng nhà máy nhiệt đIện PHú Mỹ với công suất 3600-3800MW Đây là nhà máy đIện lớn và hiện đạI bậc nhất Đông Nam á... Hình thành một đội ngũ cán bộ,lao động đông đảo có trình độ văn hoá,kỹ thuật và tay nghề khá,đó là vốn quý nhất thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện tạI và những năm sắp tới. Có thể nói qua giai đoạn khó khăn,chúng ta bước vào thời kỳ CNH & HĐH cả trên những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đã đạt được những thành tựu đáng kể. Công nghiệp đã thể hiện được vai trò nòng cốt trong quá trình CNH & HĐH đã tạo ra được cơ sở vững chắc cho kế hoạch tiếp theo của giai đoạn công nghiệp hoá.Nông nghiệp cũng tạo ra những bước chuyển mình góp phần vào tăng nhanh quá trình hiện đạI hoá nông nghiệp.Người nông dân đã thực sự sống được nhờ vào nông nghiệp.Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn rất nhiều thiếu sót, không cớ gì mà cuối 1999 thị trường nông thôn và sức mua của nông dân giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm, giá hàng lương thực giảm nghiêm trọng 10.6% . Về công nghiệp bức tranh toàn cảnh không mấy sáng sủa... b- Các thiếu sót cần khắc phục: Đúng, không thể phủ nhận kết quả đã đạt được sau hơn 10 năm đổi mới.Đó là mồ hôi nước mắt,là bao công sức của cả một dân tộc .Song chúng ta hãy thẳng thắn nhìn lại xem quá trình của chúng ta đã và đang làm được những gì. Vậy khuyết điểm của chúng ta là gì ? Cần khắc phục ra sao ? Trình độ phát triển công nghiệp, chất lượng năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp,cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều mặt lạc hậu.Nguồn vốn đầu tư cho phát triển còn hạn chế so với yêu cầu của sự phát triển công nghiệp. Sự chú trọng vào đổi mới và phát triển công nghệ trong qua trình công nghiệp còn thiếu đồng bộ.So với thế giới và khu vực,trình độ công nghệ của chúng ta lạc hậu nhiều thế hệ,phổ biến là trình độ thấp thô sơ và lạc hậu nhất là ở khu vực nông thôn và miền núi. Theo sự đánh giá chung thì sự đóng góp của công nghệ trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp Công nghiệp quốc doanh chưa thật phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Công nghiệp ngoài quốc doanh đặc biệt là tiểu thủ công nghiệp,nghành nghề truyền thống chưa được chú ý đầu tư phát triển đúng mức ; kinh tế hợp tác xã công nghiệp theo kiểu cũ bị tan vỡ, trong khi kinh tế hợp tác kiểu mới còn lúng túng trong tổ chức. Hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với doanh nghiệp đặc biệt là với doanh nghiệp Nhà nước còn thấp, chưa tạo lập được môI trường pháp lý và chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp nhiều thành phần thuận lợi đạt hiệu quả cao. Quá trình hội nhập với nền nông nghiệp trên thế giới còn chưa thật phù hợp về trình độ và chất lượng sản phẩm. Công nghệ chế biến của chúng ta hiện nay còn kém cả về quy mô và trình độ công nghệ, quản lý. Do đó sản phẩm của công nghiệp chế biến không có khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, tức là bản thân công nghiệp chế biến cũng dang gặp ách tắc về tiêu thụ hàng hoá của mình. Hơn nữa công nghiệp chế biến không có khả năng tiêu thụ được lượng nông sản hàng hoá lớn, nên không kích thích tiêu thụ hàng hoá nông sản trong nội địa. Nông sản hàng hoá còn chưa phù hợp với thị trường. Sự phát triển sản xuất nông nghiệp mang đậm nét tình trạng xuất phát từ cung, nghĩa là xuất phát từ khả năng và truyền thống sản xuất, chứ chưa hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thị trường. Về các nghành kinh tế, dịch vụ khác: Mặc dù có sự đầu tư khá mạnh song chúng ta vẫn chưa thu hút được khách hàng bởi lẽ cung cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35038.doc
Tài liệu liên quan