Đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta

MỤC LỤC

Mở đầu. 3

Chương 1: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá những vấn đề về quan điểm. 5

I- Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 5

II- Thực chất, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 6

Chương 2: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. 9

I- Những khó khăn 10

II- Những thuận lợi. 11

III- Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 11

IV- các giải pháp, phương hướng để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 14

Kết luận. 22

Tài liệu tham khảo. 24

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2117 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,5 - 3 lần so với năm 2000 tức là khoảng 800 - 1.000 USD. Muốn vậy dự kiến phải có tốc độ bình quân GDP tăng hàng năm khoảng 13%, dựa trên cơ sở phát triển mạnh công nghiệp, công nghệ, kết cấu hạ tầng, kinh tế đối ngoại và dịch vụ, công nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giai đoạn này phải phấn đấu đạt tới sử dụng 50% sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp công nghiệp tiên tiến và hiện đại. Giai đoạn hoàn thành cơ bản quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân từ 2011 - 2020. Mục tiêu cơ bản của giai đoạn hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là đưa đất nước ta trở thành đất nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vượt trình độ trung bình của các nước phát triển trên thế giới. Để thực hiện mục tiêu này cần đạt mức bình quân GDP tính theo đầu người tăng 2 lần so với năm 2010, tức khoảng 2000 USD. Muốn vậy phải có tốt độ tăng GDP hàng năm khoảng 15% dựa trên cơ sở phát triển bền vững các ngành công nghiệp, công nghệ, kết cấu hạ tầng, kinh tế đối ngoại, dịch vụ công nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giai đoạn này phấn đấu đạt tới sử dụng 80% sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp công nghiệp tiên tiến và hiện đại. Chương II Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam I- NHững khó khăn 1. NHững khó khăn khách quan: Sự sụp đổ chế độ XHCN của Liên Xô và các nước Đông Âu khiến cho chúng ta mất thị trường lớn và sự giúp đỡ không nhỏ từ các nước này. Hơn nữa, trên thế giới các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển, nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường ... thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa phát triển và các công ty xuyên quốc gia cho nên các nước đang phát triển và chậm phát triển đang đứng trước những thách thức to lớn, chênh lệch giàu nghèo giữa các nước còn mở rộng. Cuộc cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học, công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt các thế lực đế quốc và thù địch, những kẻ chống chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc luôn chĩa mũi nhọn vào nước ta, tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng và tổ chức, lòng tin của nhân dân thông qua các diễn biến hoà bình, xuyên tạc lịch sử, gieo rắc hoài nghi phủ nhận thành tựu cách mạng ... 2. Những khó khăn chủ quan: Trước hết hiện nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kĩ thuật còn nhiều mặt lạc hậu, nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn và cấp bách nhưng một bộ phận cán bộ và nhân dân còn tiêu xài lãng phí, tiêu dùng quá mức mình làm ra, chưa tiết kiệm để dồn vốn cho phát triển. Nhà nước còn thiếu chính sách để huy động vốn có hiệu quả nguồn vốn trong nhân dân. Như năm 1995, đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn trong nước (kể cả nguồn vốn khấu hao cơ bản) chỉ chiếm 16,7% GDP, trong đó phần vốn ngân sách chỉ chiếm 4,2% GDP, còn rất thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế để tiếp thu có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài. Hơn nữa nước ta có xuất phát điểm thấp, là một nước nông nghiệp có trình độ thấp kém, hậu quả của chiến tranh và những thói quen còn tồn tại ở chế độ quan liêu, bao cấp, kế hoạch hoá tập chung. Cơ chế thị trường ở nước ta còn sơ khai, vai trò quản lí nhà nước đối với nền kinh tế xã hội còn yếu. Hệ thống quản lý kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, nhất quán để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tài chính, ngân hàng, giá cả, các công tác kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng quản lý đất đai, thủ tục hành chính ... còn chưa thay đổi, đổi mới còn chậm. Trong xã hội nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí ... vẫn nghiêm trọng kéo dài. Chúng ta không sử dụng nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài một cách hợp lý, triệt để và tiết kiệm. Ngoài ra, nguồn nhân lực nước ta tuy dồi dào nhưng trình độ còn thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tầng lớp trí thức, phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư có tuổi đời bình quân cao mà tầng lớp thừa kế, trẻ tuổi, năng động còn ít. II- NHững thuận lợi: 1. Những thuận lợi khách quan: Sau thời kì chiến tranh lạnh, ngày nay thế giới đang ở vào xu thế hoà hoãn. Hoà bình hợp tác hữu nghị là những điều kiện để chúng ta hợp tác với nước ngoài một cách bình đẳng. Có điều kiện để tiếp cận với những khoa học hiện đại của cả những nươc tư bản củ nghĩa tạo tiền đề cho công nghiệp hoá. Do tính chất của thời đại vẫn không thay đổi, loài người vẫn đang ở trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội luôn là một xã hội cao đẹp mà mọi đất nước mọi dân tộc đều muốn vươn tới. Trên cơ sở cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ mà nội dung cơ bản là những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới ... tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, làm tăng nhanh tính chất xã hội của học lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội. Hơn nữa cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi bệnh tật hiểm nghèo) không một quốc gia riêng lẻ nào tự giải quyết mà cần phải có sự hợp tác đa phương và sử lý thông qua Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên hợp các tổ chức quốc tế và khu vực. Mặt khác, nước ta lại nằm trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, là khu vực đang phát triển và sẽ tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Trong khu vực diễn ra xu thế tự do hoá thương mại và quá trình liên kết, hợp tác kinh tế cạnh tranh trên nhiều tầng nếu: đại khu vực, khu vực, tiểu khu vực, tam giác, tứ giác ... trên thế giới, cuộc chiến tranh lạnh giữa các nước đã kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi và hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp. 2. Những thuận lợi chủ quan. Công cuộc đổi mới đang diễn ra ở nước ta sau 12 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo tiền đề cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát ở những năm 1986 - 1989 là 3 con số, bội chi ngân sách lớn 1987 là 5,5% GDP và 1988 là 8,3% GDP; năm 1988 so với năm 1989 thu nhập quốc dân tăng 2,7% nông nghiệp giảm 2,3%. Cho đến những năm gần đây lạm phát giảm xuống còn 2 con số, thiếu hụt ngân sách giảm từ 6,5% GDP xuống 4% và 1,2% (1991), cán cân thương mại chuyển từ thiếu tình tràng hụt trên 9% GDP vào giữa những năm 80 sang mức thặng dư khoảng 2% GDP (1991) GDP thực tế tăng 7% (1989), 4,5% (1990), 4% (1991), 8,2% (1992). Đặc biệt nền kinh tế Việt Nam có dịp tăng tổng sản phẩm trong nước năm 1996 (GDP) là 9,3%, sản lượng lương thực 29,14 triệu tấn, xuất khẩu 3 triệu tấn gạo (là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới), chỉ só lạm phát chỉ còn 4,5% và bội chi ngân sách chiếm 3,2% GDP. Ngoài ra, từ khi có luật đầu tư nước ngoài thì số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta không chỉ tăng lên số lượng vốn và dự án mà ngày càng có những chuyển biến tích cực về cơ cấu đầu tư và chất lượng dự án. Nếu tổng số vốn đầu tư đăng ký năm 1988 là 360 triệu USD thì đến năm 1996 là 8,6 tỉ USD. Hơn nữa nước ta còn có một thuận lợi lớn là có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, có đủ 60 loại khoáng sản chủ yếu, có hơn 2000 km đường bờ biển, truyền thống cần cù chăm chỉ của dân tộc, học hỏi nhanh. Đồng thời nước ta có lợi thế là được áp dụng những khoa học, công nghệ tiên tiến nhất đã đang được sử dụng trên thế giới. Một thuận lợi nữa là ta có một nước có nền chính trị ổn định, dân tộc đoàn kết, có chính sách hợp lý, sẵn sàng hợp tác trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi với mọi nước trên thế giới. III- Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 1. Các giai đoạn công nghiệp hoá. Chủ trương tiến hành công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân đã bắt đầu từ đầu những năm 60 ở miền Bắc và sau năm 1975 trong cả nước. Thực trạng công nghiệp hoá nước ta được thể hiện ở hai thời kì trước đổi mới và từ sau đổi mới đến nay. Trong suốt thời kì trước đổi mới việc thực hiện công nghiệp hoá chủ yếu dựa vào các nguồn lực tập trung do nhà nước trực tiếp quản lý và thực hiện trong đó công nghiệp nặng luôn được ưu tiên phát triển và đuực coi là nền tảng của công nghiệp hoá. Đổi mới kinh tế được đẩy mạnh sau Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) và đường lối công nghiệp hoá cũng chuyển đổi từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang bước vào thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn là: sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Từ sau thời kì đổi mới kinh tế đến nay bằng việc thực hiện giao ruộng đất khoán sử dụng lâu dài cho các hộ nông dân là bước ngoặt về giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho nền kinh tế nông nghiệp. Các chính sách đã tạo ra sự ổn định kinh tế, chặn đứng lạm phát phi mã, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của những năm 1991 - 1994 có tốc độ khá, có tác động tích cực đến công nghiệp hoá. Tuy nhiên thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay như thế nào cần được xem xét, đánh giá trên trình độ công cụ, công nghệ thể hiện chủ yếu qua “5 hoá”: cơ khí hoá, tự động hoá, sinh học hoá, hoá học hoá, tin học hoá. 2. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thông qua “5 hoá”: a. Thực trạng cơ khí hoá: - Về cơ sở và năng lực sản xuất cơ khí: Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường ngành cơ khí đã khắc phục được những khó khăn ban đầu và từng bước ổn định sản xuất, cải tiến công nghệ, cải tiến mẫu mã, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay, ngành cơ khí đã sản xuất được một số mặt hàng bảo đảm chất lượng, không thua kém hàng nhập ngoại nên tiêu thụ nhanh, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu nhưng số lượng còn hạn chế chỉ giới hạn trong một số loại sản phẩm. Ngành cơ khí đã sản xuất được nhiều thiết bị phụ tùng thay thế hàng nhập ngoại, tuy nhiên phần lớn các cơ sở đều là vừa và nhỏ, thiết bị công cụ lạc hậu, thua kém so với các nước từ 4 - 5 thế hệ. - Về công cụ cơ khí: Các công cụ, phương tiện cơ khí và cơ giới của các ngành sản xuất vật chất hiện nay rất cũ, chắp vá, thiếu đồng bộ và lạc hậu. Tuổi trung bình của thiết bị cơ khí nói chung là 15 - 30 năm . Hệ số sử dụng phương tiện công cụ cơ khí cơ giới rất thấp, tính trung bình chỉ số sử dụng 20 - 30% số đầu máy công cụ và động cơ, còn lại trong tình trạng hư hỏng nặng, thiếu phụ tùng thay thế, thời gian sử dụng bình quân của các thiết bị chỉ đạt 65 - 70%. Đặc biệt, hầu hết trong các lĩnh vực sản xuất còn thiếu thiết bị có độ chính xác cao dẫn đến hậu quả hao mòn vật chất cao, giá trị sử dụng thực tế còn lại thấp ... - Trình độ cơ khí hoá một số ngành sản xuất nhìn chung còn rất thấp, ở dưới mức trung bình trong đó cao nhất là ngành công nghiệp, thấp nhất là ngành nông nghiệp. Trong nông nghiệp chủ yếu vẫn là lao động thủ công, tỷ lệ cơ giới hoá thấp. Trong công nghiệp, công nghiệp cơ khí được áp dụng rộng rãi trong các đơn vị sản xuất công nghiệp quốc doanh nhưng lao động thủ công cũng còn trong nhiều khâu: vận chuyển nội bộ. bao gói, cung ứng... b. Thực trạng tự động hoá: Tình trạng chung là rất thấp. - Trong công nghiệp việc tự động hoá thường được áp dụng ở mức cao trong dây chuyền công nghệ có tính liên hợp qui mô lớn như xi măng, luyện kim, sản xuất u rê ... Trừ các nhà máy mới được đầu tư của các kinh tế phát triển hầu hết dây chuyền tự động của Liên Xô (cũ) Trung Quốc và các nước Đông Âu đều lạc hậu, nhiều bộ phận hư hỏng phải thay thế bằng các thiết bị nhập ngoại ở các nước kinh tế phát triển. Tự động hoá từng bộ phận của dâychuyền sản xuất được áp dụng trong một số khâu một số máy công cụ tự động cũng được áp dụng trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ hạ tầng kinh tế. - Trong xây dựng cơ bản tự động hoá được áp dụng trong các xí nghiệp nghiền đá, sản xuất cấu liệu bê tông đúc sẵn, các trạm trộn bê tông, gia công sắt hàn trong xưởng ... Tuy nhiên tỷ lệ tự động hoá không cao, khoảng 1,5 - 2% trong công tác xây dựng cơ bản. - Trong sản xuất nông nghiệp tự động hoá chưa được áp dụng ở nước ta kể cả các xí nghiệp Trung ương và xí nghiệp địa phương. c. Thực trạng hoá học hoá. Hoá học được áp dụng phổ biến và rộng rãi trong công nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, mạ, nhuộm ... và trong tương lai sẽ áp dụng mạnh trong công nghiệp chế biến các sản phẩm từ dầu khí mà nước ta có tiềm năng phong phú. Nhìn chung, công nghiệp hoá học Việt Nam đã được phát triển trong nhiều ngành sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cung cấp cho công nghiệp, nông nghiệp, cho tiêu dùng xã hội và có sự tăng trưởng khá trong những năm gần đây. Ngoài ra sản phẩm của hoá học còn được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp chất dẻo, công nghiệp sản xuất phụ gia, các chất hoá học xúc tác cung cấp cho công nghiệp xi măng, giấy sản xuất kim loại, luyện thép, khai thác kích thích sự tăng trưởng của vật nuôi, cây trồng... Hoá học hoá ngày càng giữ vai trò quan trọng tác động đến năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy vậy việc đầu tư phát triển cho ngành hoá chất còn ít, chưa xây dựng được công nghệ tổng hợp vô cơ và hoá dầu: sản phẩm hoá chất chưa đảm bảo nhu được nhu cầu đòi hỏi của các ngành. Hoá học chưa thành nhân tố mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế, tỷ trọng sản phẩm hoá học chỉ chiếm khoảng 5 - 6% trong tổng số giá trị sản phẩm hàng hoá công nghiệp trong các năm 1991 - 1993. d. Sinh học hoá. Công nghệ sinh học áp dụng chưa nhiều. Có một số ngành đang áp dụng công nghệ sinh học như sản xuất bia, nước giải khát, phân bón... nhưng tỷ lệ áp dụng chưa cao. Đây là ngành non trẻ mới được áp dụng vào Việt Nam. e. Tin học hoá. Trong thời kì đổi mới ngành tin học đã phát triển với tốc độ nhanh. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống thông tin liên lạc với tổng số vốn trên 6.000 tỉ, đã sử dụng nhiều trang thiết bị hiện đại. Hệ thống tổ chức vi tính tin học được thành lập ở hầu hết các cơ sở kinh doanh lớn và đã có sự nối mạng giữa các ngành, khu vực. Tuy nhiên, ở nước ta thông tin tin học qui mô lớn chưa phát triển. IV- Các giải pháp, phương hướng để tiến hành cong nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta: Từ thực trạng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng như những khó khăn và thuận lợi mà chúng ta gặp phải trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá dẫn đến nước ta cần phải có một số giải pháp chủ yếu để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1. Phát triển nguồn nhân lực, có chính sách đào tạo con người. Như Đảng ta đã xác định công cuộc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một sự nghiệp của toàn dân, của nhiều thành phần kinh tế trong đó phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản. Trên cơ sở quán triệt quan điểm này cần có hệ thống biện pháp đồng bộ và phân bố, sử dụng đào tạo bồi dưỡng nguồn lao động. Sử dụng lao động xã hội phải trên cơ sở phân bố lao động hợp lý giữa các ngành và các vùng. Muốn sử dụng và phân bố lao động hợp lý phải đào tạo và bồi dưỡng. Đồng thời đào tạo bồi dưỡng cũng phải gắn với phân bố sử dụng. Trong đó giáo dục, đào tạo phải là quốc sách hàng đầu và để phát triển giáo dục đào tạo phải có một số biện pháp như sau: a. Tăng cường nguồn lực cho giáo dục. - Về ngân sách giáo dục: Tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục để đến năm 2000 đạt 15% so với tổng chi ngân sách. - Mở các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học, lập các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ khoa học gắn với ngành nghề đào tạo, ưu tiên cho xuất bản sách phục phụ cho đào tạo, ưu tiên cho xuất bản sách phục phụ cho đào tạo và nghiên cứu. - Đa dạng hoá giáo dục, tiếp tục phát triển các trường dân lập. b. Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy. - Bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực cho đội ngũ giáo viên phổ thông, chủ động khắc phục tình trạng hụt hẫng giáo viên ở trình độ cao trong các trường đại học. - Tập trung đầu tư, nâng cấp các trường sư phạm, xây dựng một số trường đại học sư phạm trong điểm để vừa đào tạo giáo viên có chất lượng cao vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến. c. Tổ chức cho các học sinh, sinh viên, giáo viên ra nước ngoài học tập. Làm việc để học hỏi những kiến thức, cách làm việc mới nhất, tiên tiến nhất để nâng cao trình độ kiến thức cũng như tay nghề. 2. Các biện pháp quản lý nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các ngành công nghiệp. a. Duy trì, xâm nhập, mở rộng thị trường. Khi chuyển sang cơ chế thị trường và dưới tác động của xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá, công nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt ở các thị trường trong nước và ngoài nước. Cho nên, xâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường là điều kiện tiên quyết có tính sống còn của sự tồn tại và phát triển công nghiệp. Không phải chỉ có doanh nghiệp mà cả nhà nước cũng phải có chính sách và biện pháp xâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường. Chính sách thị trường ở phạm vị vĩ mô sẽ tạo điều kiện tốt cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành công nghiệp. b. Huy động và sử dụng vốn cho phát triển công nghiệp. Đa dạng hoá các nguồn vốn nhằm một mặt huy động được nhiều vốn mặt khác sẽ tạo động lực để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó. Tăng nguồn vốn tự có và vốn liên doanh liên kết. Cần có chính sách khuyến khích phát triển những ngành và sản phẩm cần ưu tiên. Phát triển hình thức cho vay trung và dài hạn. Mở rộng việc áp dụng hình thức cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn của dân và làm cho người lao động thực sự trở thành người chủ doanh nghiệp. Cần có các biện pháp sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngân sách cấp cho xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và sản xuất hàng hoá công cộng. Nhà nước cần áp dụng hình thức đấu thầu, định mức cấp phát có biện pháp thu lệ phí từ người sử dụng ngân sách sẽ đầu tư qua tín dụng với lãi suất ưu đãi đối với những ngành, những sản phẩm những công trình cần ưu tiên. Thực hiện việc cấp phát cho vay ưu đãi theo chương trình đã nêu. c. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ trong công nghiệp là yếu tố quyết định và là nền tảng không chỉ cho phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn cho sự phát triển nhanh, có hiệu quả các ngành công nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân. Đổi mới công nghệ - nội dung của tiến bộ khoa học, công nghệ trong công nghiệp - là công việc của doanh nghiệp do các daonh nghiệp đề xướng, quyết định và thực hiện. Đồng thời nhà nước có vai trò quyết định hướng, hỗ trợ kiểm tra thực hiện theo luật định. d. Phát triển và nâng cao hiệu quả liên doanh liên kết. Phát triển và nâng cao hiệu quả liên doanh, liên kết là xu thế tất yếu của phát triển các ngành công nghiệp. Đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế (bao gồm cả trong nước và nước ngoài) nhằm huy động và sử dụng tốt các nguồn lực và phát triển các ngành công nghiệp. Khắc phục khuynh hướng chỉ thiên về liên doanh liên kết với nước ngoài, xem nhẹ liên doanh, liên kết kinh tế trong nước. Nâng cao vai trò, vị trí của Việt Nam trong liên doanh với nước ngoài thông qua các biện pháp như: nâng phần vốn góp của VIệt Nam, nâng cao trình độ năng lực của cán bộ Việt Nam khi tham gia đàm phán và trong quá trình quản lý công ty liên doanh nước ngoài. Đặt và gắn các dự án liên doanh với nước ngaòi, với chiến lượng và quy hoạch chung về phát triển các ngành công nghiệp. Các dự án liên doanh với nước ngoài phải có tác dụng hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, sản xuất trong nước. 3. Biện pháp chủ yếu nhằm vào thúc đẩy sự phát triển của nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước theo định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước. Muốn vậy thị trường công nghệ cũng phải đáp ứng được đòi hỏi để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cũng như các thị trường khác, thị trường công nghệ cũng có 3 yếu tố cơ bản là cung, cầu và giá cả. Do vậy các biện pháp nhằm ổn định và mở rộng quy mô thị trường công nghệ trước hết cần tác động nhằm vào 3 yếu tố. a) Trong một số năm trước mắt quan điểm của chúng ta trong hoạch định chính sách phát triển công nghệ là tạo mội trường thuận lợi nhất cho việc nhập công nghệ, nhằm tăng nguồn cung các công nghệ. Kinh nghiệm thực tiễn nhập công nghệ trong thời đại qua cho thấu những “vòng vèo” trong lộ trình công nghệ nhập đến tay người sử dụng đã làm không chỉ tăng giá nhập máy móc thiết bị mà còn tâm lý e ngại đầu tư cho phát triển công nghệ. Vì vậy cần phải chú ý đổi mới và hoàn thiện các quy định về nhập khẩu, về tỉ giá, về đầu tư nước ngoài, về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam ... theo hướng tạo ra những khuyến khích, những ưu đãi cho việc nhập công nghệ sao cho những khuyến khích ưu đãi nàỳ không phải rơi vào tay những kẻ trung gian trục lợi ở khâu buôn bán công nghệ mà là vào túi của những người sử dụng, các công nghệ nhập cho các hoạt động sản xuất ra sản phẩm, nhất là đối với các sản phẩm dành cho xuất khẩu. Tuy nhiên có chính sách xuất nhập khẩu phù hợp (thuế, hạn ngạch ...) vừa khuyến khích sự cạnh tranh trong và ngoài nước, vừa khuyến khích bảo vệ sản xuất trong nước. b) Gắn liền với các biện pháp công nghệ nhập cung cầu tạo sự kích thích cần thiết đối với các công nghệ sản xuất trong nước. Nhà nước có cơ chế chính sách buộc các doanh nghiệp làm việc có hiệu quả bằng cách làm việc có hiệu quả, bằng cách ứng dụng khoa học: cho phép các doanh nghiệp dùng vốn để làm khoa học. Bảo đảm thu nhập cho các cán bộ khoa học tương xứng với giá trị chất xám, tạo điều kiện trang thiết bị làm việc cho cán bộ khoa học và các cơ sở nghiên cứu phải được áp dụng vào trong kinh doanh sản xuất. Khuyến khích tạo điều kiện trang thiết bị làm việc cho cán bộ khoa học và các cơ sở nghiên cứu phải được áp dụng vào trong kinh doanh sản xuất. Khuyến khích tạo điều kiện để đội ngũ khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài chuyển giao về tri thức và công nghệ tiên tiến. Ngoài ra còn phải phát động phong trào quần chúng tiến công khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ cao vào các công việc của mình. c. Tăng cường với phát triển khoa học, công nghệ. Việc tăng cường này còn được chú ý ở cả 2 phía: đầu tư của nhà nước và đầu tư của các cơ sở sản xuất, vốn huy động trong nước và từ nước ngoài cho phát triển công nghệ. Cần phải có cơ chế để các doanh nghiệp danh một phần vốn cho nghiên cứu đổi mới, cải tiến công nghệ và đào tạo nhân lực, các dự án đầu tư cũng phải dành một phần kinh phí cho nghiên cứu khoa học nhằm bảo đảm hiệu quả của dự án. d. Việc thiết kế đồng bộ các biện pháp kích thích cung để công nghệ còn liên quan trực tiếp tới định hướng xây dựng nền công nghệ nhiều tầng của đất nước. Sự “co lại” thậm chí thui chột đi của các công nghệ ở tầng dưới và tầng công nghệ bên trên tiếp nhận công nghệ thải loại của các nước khác không chỉ chậm lại sự phát triển chung của nền công nghệ quốc gia bởi thiếu sự phối hợp đồng bộ chung trong hệ thống công nghệ. e. Xác định công nghệ ưu tiên cho những ngành, sản phẩm, lĩnh vực sản xuất làm cơ sở cho việc xác định các biện pháp ưu tiên hoặc kích thích trong sản xuất và đầu tư phát triển cũng như sửa đổi những bất hợp lý trong biểu thuế xuất - nhập khẩu và điều đặc biệt quan trọng là để bố trí kế hoạch đào tạo kiến thức kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. f. Nhà nước tập trung xây dựng một số khu công nghệ cao và các trung tâm ứng dụng công nghệ mới. Đó chính là những hạt nhân cơ sở nghiên cứu, thử nghiệm thích nghi và ứng dụng công nghệ phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, của địa phương và là một nguồn quan trọng ung cấp công nghệ cao cho các hướng phát triển sản xuất ưu tiên của nền kinh tế. Khu công nghệ cao sẽ được phát triển theo hướng gắn kết chặt chẽ công đồng khoa học công nghệ với các doanh nghiệp, quy tụ chất xám trong nước và nước ngoài hướng vào kích thích và hõ trợ đổi mới công nghệ trong cả nước. g. Xây dựng đảm bảo thông tin công nghệ, thị trường công nghệ. Thông tin về công nghệ đang là một nhâ tố tất yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường công nghệ ở nước ta. Thực trạng các cơ sở sản xuất kinh doanh nhập công nghệ cũ, lạc hậu, giá đắt như các phương tiện thông tin đã nêu có một phần nguyên nhân quan trọng là thiếu cơ sở thông tin cho các quyết định nhập công nghệ. h. Việc chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường bản thân nó đã là mối kích thích lớn đối với nhu cầu đổi mới công nghệ trong nền kinh tế quốc dân. Tuy vậy, về phía Nhà nước phải đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Nhà nước quản lý thống nhất các hoạt động khoa học và công nghệ, phát huy quyền chủ động các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu khoa học, Nhà nước chăm lo phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn lại các cơ quan khoa học và công nghệ, đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý các chương trình khoa học và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50762.doc
Tài liệu liên quan