Đề tài Cơ sở lý luận vấn đề dân tộc, giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ DÂN TỘC, GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 2

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề giai cấp 2

2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề dân tộc: 3

3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp 5

II. BIỆN CHỨNG GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 7

1. Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp 7

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễnViệt Nam 12

KẾT LUẬN 15

TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6281 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận vấn đề dân tộc, giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phẩm. Khác nhau về địa vị trong nền sản xuất: Tập đoàn nào nắm giữ tư liệu sản xuất trong tay sẽ đứng vị trí cao nhất. Như vậy giai cấp không phải là phạm trù xã hội thông thường mà là phạm trù kinh tế- xã hội có tính chất lịch sử. Nguồn gốc hình thành giai cấp: Mác chỉ ra rằng: “ Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển của lịch sử nhất định của sản xuất”. Ví dụ: Trong xã hội công xã nguyên thuỷ: lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ sản xuất chủ yếu bằng đá, gậy gộc dẫn đến năng suất lao động chưa cao, chưa có sản phẩm dư thừa vì vậy chưa có chế độ người bóc lột người dẫn đến chưa hình thành giai cấp. Cuối xã hội nguyên thủy xuất hiện công cụ sản xuất bằng kim loại làm năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển, dẫn đến phân công lao động, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, tư hữu thay công hữu, hình thành xã hội giai cấp. Xã hội nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài người: giai cấp chủ nô và nô lệ. Giai cấp được hình thành từ 2 nguồn gốc : Nguồn gốc sâu xa là do sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định. Nguồn gốc trực tiếp là sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Có 2 con đường dẫn tới sự hình thành giai cấp: thứ nhất, những kẻ có chức có quyền trong thị tộc, bộ lạc dùng quyền uy của mình để chiếm đoạt tư liệu sản xuất làm của riêng từ đó hình thành giai cấp thống trị. Thứ hai, tù binh bắt được trong những cuộc chiến tranh bị biến thành nô lệ, còn bao gồm cả những người nghèo khổ trong thị tộc, bộ lạc bị mất hết tư liệu sản xuất. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề dân tộc:  Dân tộc là khái niệm chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi những quyền lợi về: chính trị, kinh tế, truyền thống, văn hoá, truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng nước và bảo vệ đất nước. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học. Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc. Nguồn gốc hình thành dân tộc: Dân tộc ra đời cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và có 2 con đường hình thành: hình thành từ nhiều bộ tộc và hình thành từ một bộ tộc. Hình thành từ nhiều bộ tộc: con đường này thường gắn với các nước ở Tây Âu vì chủ nghĩa tư bản ở đây ra đời sớm, phát triển mạnh. Hình thành từ một bộ tộc: thường gắn với các nứơc Đông Âu, chũ nghĩa tư bản ra đời muộn, yếu, không đủ sức chiến thắng hoàn toàn thế lực phong kiến Mác- Ăngghen chỉ ra dân tộc có bốn đặc trưng sau : Thứ nhất, Cộng đồng về lãnh thổ: Lãnh thổ là chủ quyền không thẻ chia cắt, là nơi sinh tồn, phát triển và là nền tảng hình thành nên tổ quốc của mỗi quốc gia, dân tộc. Thứ hai, Cộng đồng về kinh tế: Kinh tế là yếu tố thống nhất của một quốc gia. Sự tương đồng và phù hợp về lợi ích càng lớn tính thống nhất của dân tộc càng cao, sự cách biệt và đối lập về lợi ích giữa các bộ tộc dân tộc càng cao. Thứ ba, Cộng đồng về ngôn ngữ: Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình nhưng trong một quốc gia nhiều dân tộc bao giờ cũng có một ngôn ngữ chung thống nhất. Ngôn ngữ là nền tảng văn hoá đồng thời là di sản tinh thần của mỗi dân tộc. Thứ tư, Cộng đồng về văn hoá: Văn hoá là yếu tố đặc biệt trong sự gắn kết cộng đồng dân tộc thanh một khối thống nhất. Mỗi dân tộc có nét đặc trưng văn hóa riêng, phong phú và đa dạng. Dân tộc có tính ổn định, bền vững: đảm bảo bởi nguyên tắc pháp lý cao, tông trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc. Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, và chỉ ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và biểu hiện trong thời đại ngày nay là : Xu hướng 1: Những quốc gia, khu vực gồm nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau làm ăn, sinh sống đến một thời kỳ nào đó có sự trưởng thành ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, từ đó tách khỏi nhau thành lập các dân tộc độc lập. Ví dụ: Liên Xô tách thành Liên Bang Nga và một số nước xã hội chủ nghĩa. Ý nghĩa: Các dân tộc có quyền tự quyết định vận mệnh của mình như tự do lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình. Xu hướng 2: Các dân tộc muốn liên hiệp với nhau dựa trên nguyên tắc bình đẳng nhằm có sự giao lưu kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc. Ví dụ: Liên minh châu Âu EU: sử dụng đồng tiền chung, nhân dân đi lại giữa các nước rất dễ dàng. Ý nghĩa: Tạo sự tự chủ, phồn vinh do những tinh hoa, những giá trị của những dân tộc hoà nhập, bổ sung cho nhau. Những giá trị chung hoà quyện đó không xoá nhoà những đặc thù dân tộc mà ngược lại, nó bảo lưu, giữ gìn, phát huy những tinh hoa, bản sắc dân tộc. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp Giai cấp và quan hệ giai cấp có vai trò quyết định tới sự hình thành xu hướng phát triển, bản chất xã hội của dân tộc, tính chất quan hệ giữa các dân tộc với nhau. Giai cấp nào lãnh đạo dân tộc nào thì dân tộc đó mang bản chất của giai cấp đó. Ví dụ: Phương thức sản xuất TBCN: giai cấp tư sản phù hợp với phương thức sản xuất này đã nắm quyền lãnh đạo ở các nước phương Tây, các dân tộc này mang bản chất của giai cấp tư sản( năng động, thực dụng, coi trọng lợi ích, có nền kinh tế phát triển nhưng cũng luôn tồn tại những bất ổn về chính trị…) Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. Áp bức giai cấp là cơ sở của áp bức dân tộc. Giai cấp và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại, giai cấp có trước dân tộc hàng nghìn năm nhưng khi giai cấp mất đi dân tộc vẫn tồn tại lâu dài. Muốn hiểu được mối quan hệ phức tạp giữa giai cấp và dân tộc thì phải nhận thức rõ vai trò của nhân tố kinh tế. Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc. Mác kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,... không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu  nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp. Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách mạng vô sản ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.” Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.” Như vậy, có thể thấy chủ nghĩa Mác- Lênin luôn đề cao vấn đề giai cấp, cho rằng vấn đề dân tộc lệ thuộc vào vấn đề giai cấp, là một bộ phận của vấn đề giai cấp. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác- Lênin còn khẳng định: ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, việc giải quyết nhiệm vụ dân tộc bao giờ cũng thuộc về một giai cấp tiêu biểu. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin căn cứ và khái quát dựa trên tình hình châu Âu nên nó hoàn toàn phù hợp với thực tiễn ở đây. Trong giai đoạn quốc tế chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới. Mác, Ănghen và Lênin đã nêu những quan điểm biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nhưng trong điều kiện từ đầu thế kỷ XX trở đi, cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin cho phù hợp với thực tiễn, chính Hồ Chí Minh là người đáp ứng yêu cầu đó. BIỆN CHỨNG GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, người đã vận dụng một cách rất phù hợp và sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin. Đó cũng là bí quyết thành công của Việt Nam. Vấn đề giai cấp, theo Hồ Chí Minh cơ cấu xã hội giai cấp của xã hội Việt Nam khác với các nước khác; giữa các giai cấp, tầng lớp khác nhau đều có tính dân tộc chung và mâu thuẫn giữa chúng không sâu sắc, mạnh mẽ bằng ở các nước phương Tây. Nói cách khác, Hồ Chí Minh coi trọng chữ “đồng” hơn “dị” trong sự phân chia giai cấp ở nước ta. Còn vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa. Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam. Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyễn Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''. Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị. Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt'' do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự. Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ: Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch. Thứ hai, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh. Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận. Thứ tư, khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác. Như vậy, có thể thấy rằng Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu nhưng không tuyệt đối hóa nó- Đây là đặc điểm hơn hẳn các sĩ phu yêu nước trước đó. Không những thế, tất cả tư tưởng Hồ Chí Minh đều lấy nội dung biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp. Như tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, hay trong tư tưởng về Đảng (mọi hoạt động cách mạng của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp). Mọi biểu hiện tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp coi nhẹ vấn đề dân tộc, hay quá nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà xem nhẹ vấn đề giai cấp đều trái với quan điểm của Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễnViệt Nam Chúng ta đều biết rằng, chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, trong bản Chánh cương vắn tắt của Đảng do chính Người soạn thảo đã khẳng định: “…làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(1). Ngay từ trước đó khá lâu và nhất là trong suốt cả quá trình lãnh đạo cách mạng về sau này, Người luôn luôn kết hợp chặt chẽ vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, kết hợp đấu tranh về giải phóng dân tộc với đấu tranh để xoá bỏ bóc lột và áp bức giai cấp. Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…”(2) Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc. “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” (3) Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.”(4) Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt.” (5) Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam. Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam. Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ ôn hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25722.doc
Tài liệu liên quan