Đề tài Con người- Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức

KTTT làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế thế giới và cấu trúc quan hệ kinh tế quốc tế. Với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, cơ cấu kinh tế thế giới đang đứng trước một sự thay đổi sâu sắc. Trong những năm 60 cơ cấu sản phẩm thế giới có tỉ lệ nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ là 10,4%-28,4%-50,4%, đến năm 90 cơ cấu này đã thay đổi mạnh mẽ : 4,4%-21%-62,4%. Như vậy các ngành dựa trên tri thức đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng hơn và trong tương lai với sự phát triển của kinh tế tri thức, các ngành dựa trên tri thức sẽ chiếm vị trí áp đảo trong cơ cấu kinh tế thế giới. Cụ thể:

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Con người- Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiệp. Trên 50%. 10% - 20% Dưới 10% Công nghiệp. 15% - 20% Trên 30%. Dưới 20% Công nghệ cao. 10% - 15%. Trên 40%. 10 Tỷ lệ tăng dân số Cao. Thấp. Rất thấp. 11 Mức độ đô thị hoá. 25% 70% Hạ thấp dưới 70%. 12 Vai trò của truyền thông. Không lớn Lớn. Rất Lớn. 13 Trình độ tổ chức xã hội. Đơn giản. Phức tạp Rất phức tạp. 14 Mức độ toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Thấp. Khá cao. Rất cao. 1.2. Các phạm trù trong kinh tế tri thức: Thông tin và tri thức là nguồn lực chủ yếu của kinh tế tri thức. Chúng ta phải phân biệt 2 phạm trù này vì như John Naribett nói"Chìm ngập trong thông tin mà vẫn thiếu tri thức" * Thông tin là dữ liệu được xếp thành trật tự có nghĩa, có thể thu nhận được, có thể dùng hoặc không. * Tri thức là thông tin đã được thu thập, xử lí và nhận thức, là áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin. Theo nhiều tài liệu kinh điển thì tri thức được hiểu là kết quả của nhận thức, là phản ánh trung thực của thực tiễn vào tư duy con người, tính đúng đắn của nó thể hiện bằng sự kiểm nghiệm của thực tế, đồng thời phù hợp với các nguyên lí của lí luận về nhận thức trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng. - Thông tin là nội dung của tri thức được truyền đạt, nhưng khi tri thức được hệ thống hóa lại trở thành thông tin. Thông tin là đầu vào của quá trình sản sinh ra tri thức. * Sản phẩm tri thức Tri thức là sản phẩm của lao động, là biểu hiện cụ thể về năng lực tư duy mà chỉ duy nhất loài người mới có. Sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc biệt khác với các sản phẩm vật thể thông thường: + Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên tri thức luôn phải có vật mang nó. Vật mang ấy có thể là bộ nhớ trong não, băng từ, đĩa quang... + Đối với sản phẩm thông thường, người mua có quyền sở hữu về nó, nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.Đối với sản phẩm tri thức người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang, còn về nội dung tri thức thì chỉ có quyền sử dụng. Đặc tính này có nguồn gốc sâu xa ở chỗ chỉ duy nhất con người mới có khả năng tư duy. + Quá trình tiêu dùng sản phẩm tri thức dù là tiêu dùng sản xuất hay tiêu dùng cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất của một quá trình nghiên cứu, học tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng còn phát hiện ra tính năng mà chính tác giả của nó không ngờ tới. + Việc sản xuất các loại sản phẩm tri thức thường có giá trị gia tăng rất lớn. Chẳng hạn, E. Sanchez và D. Myric sản xuất bộ phim" Đồ án Blair Witch" bằng kỹ thuật số, phát hành trên Internet, chỉ riêng trong nước Mỹ đã thu được 140 triệu $, trong khi chi phí chỉ là 500 000$, nghĩa là tỉ suất lợi nhuận 280! Nền kinh tế tri thức do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri thức nên phát triển nhanh và khả năng bền vững cao. * Công nhân tri thức Theo tính tất yếu của lịch sử thì kinh tế tri thức phát triển đầy đủ ở thế kỉ 21 sẽ là sự phát triển lên một đỉnh cao mới của kinh tế công nghiệp hiện đại của thế kỉ 20- là sự phủ định biện chứng, tức phủ định có kế thừa kinh tế công nghiệp hiện đại thế kỉ 20. Tương ứng với tiến trình đó công nhân tri thức ra đời. Công nhân tri thức có nhiều điểm tiến bộ so với công nhân trước đó. Biểu hiện: - Công nhân tri thức có sở hữu trí tuệ. Sở hữu này cho phép họ có thu nhập cao hơn công nhân công nghiệp bình thường khiến họ có tư hữu chứ không còn là vô sản nữa - Tri thức khoa học dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trên cơ sở đó, số lượng công nhân tri thức, công nhân có tay nghề cao ngày càng tăng. - Công nhân tri thức làm chủ một nền kinh tế mà phần lớn các ngành kinh tế đều dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học. - Giai cấp công nhân có sự tăng tiến cả về số lượng lẫn chất lượng - Kinh tế tri thức thích hợp với tính sáng tạo vốn là bản năng của công nhân. Nhằm mục tiêu tri thức hoá, công nhân chăm lo không ngừng học tập, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Tri thức sẽ đóng vai trò động lực thúc đảy sự phát triển về chất lượng của công nhân. 1.3. Các ngành như thế nào được gọi là ngành kinh tế tri thức? Theo giáo sư viện sĩ Đặng Hữu : Các ngành sản xuất và dịch vụ do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ khoa học và công nghệ,dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao...được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành truyền thống như công nghiệp, nông nghiệp nếu được cải tạo bằng công nghệ cao, mà giá trị do tri thức mới, công nghệ mới mang lại chiếm 2/3 tổng số giá trị thì những ngành đó là ngành kinh tế tri thức. 1.4. Các tiêu chí cơ bản của nền kinh tế tri thức - Về cơ cấu GDP: hơn 70%do các ngành sản xuất và dịch vụ và ứng dụng công nghệ cao - Cơ cấu giá trị gia tăng: hơn 70% do lao động trí óc đem lại - Cơ cấu lao động: hơn 70%là công nhân tri thức - Cơ cấu tư bản: hơn 70% là vốn con người. Ngoài ra còn các tiêu chí khác, trong đó có tiêu chí về vai trò rất quan trọng của giáo dục và bình quân trình độ văn hóa là trung học chuyên nghiệp... 2. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này còn đang được định hình và tiếp tục được phát hiện chứ chưa phải là bộc lộ đâỳ đủ. Nhưng ta có thể thấy xương sống của nền kinh tế dựa trên tri thức chính là thông tin, nhưng không phải chỉ dựa vào công nghệ thông tin mà điều cốt yếu là khả năng thu nhập, phân tích, tổng hợp thông tin trong quá trình đưa ra quyết định dựa trên thông tin đã thu thập được. KTTT có các đặc trưng sau: 2.1. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nếu kinh tế nông nghiệp dựa vào nông nghiệp là chủ yếu, kinh tế công nghiệp thì công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu, thì trong kinh tế tri thức các ngành kinh tế tri thức thống trị. Hiện nay ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu kinh tế tri thứcchiếm khoảng 45%-50% GDP, trong các nước OEDC kinh tế tri thức chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. 2.2. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Do đó sự hình thành và phát triển các khu công nghệ là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy phát triển nhanh sự ra đời các công nghệ mới. 2.3. Cấu trúc mạng toàn cầu. Tức là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực, và thiết lập mạng thông tin phủ khắp các nước. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Thương mại điện tử, thị trường ảo, làm việc từ xa...được thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách bị xoá dần...Chính vì vậy, nhiều người gọi kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng. 2.4. Xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Vốn con người là yếu tố then chốt nhất tạo ra giá trị cho doanh nghiệp tri thức.Về vấn đề này em xin đề cập rõ hơn ở phần sau. 2.5. Tri thức là nền tảng rất quan trọng, là vốn quý nhất trong nền kinh tế dựa trên tri thức. Bất cứ hàng hoá nào cũng chứa đựng một hàm lượng tri thức nhất định. Chỉ cần một chút lệch lạc trong tri thức chúng ta sẽ trở thành kẻ thất bại trên thị trường. 2.6. Cơ sở trực tiếp nhất của kinh tế tri thức là con người. Đó là con người được giáo dục đào tạo tốt, đầy sức sáng tạo, luôn đổi mới mình để thích nghi với những thay đổi nhanh chóng và toàn diện về kinh tế-xã hội. Về vấn đề này sẽ trình bày ở phần sau. 2.7. Đề cao sự sáng tạo, đổi mới. Do môi trường vừa cạnh tranh vừa hợp tác nên sự sáng tạo, sự đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân. Trong nền kinh tế tri thức, vì nảy sinh nhiều công nghệ mới nên luôn luôn xuất hiện nhiều công ty mới. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải đổi mới công nghệ và sản phẩm liên tục- sáng tạo là linh hồn của đổi mới, đồng thời để tăng sức mạnh, các công ty phải hợp tác với nhau không những để mua sản phẩm của nhau mà còn hợp tác thành các công ty lớn, đa quốc gia, chi phối toàn cầu. 2.8. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Cơ sở kinh tế xã hội của kinh tế tri thức là kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Không thể phát triển kinh tế tri thức bằng một nền kinh tế đóng kín. Một sản phẩm sản xuất ở bất kì nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt ở khắp nơi trên thế giới. Toàn cầu hoá và kinh tế tri thức gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra mặt trái là khoảng cách giàu nghèo, sự thách thức đối với văn hoá...Khoảng cách giàu nghèo tăng nhanh do chênh lệch về tri thức. Nếu rút ngắn chênh lệch về tri thức cũng có nghĩa là rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. Còn về văn hoá, do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hóa nâng cao, nội dung và hình thức văn hoá đa dạng. Mặt khác, giao lưu văn hoá cũng làm cho các nền văn hóa đứng trước rủi ro: bị pha tạp, dễ mất bản sắc...Vì vậy cần phải giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 2.9. Kinh tế tri thức phải dựa trên cơ sở pháp luật rõ ràng, có hiệu lực và có đầy đủ thông tin. Tránh hiện tượng lừa đảo, chụp giật, nhiễu thông tin. Kinh nghiệm các nước chỉ rõ rằng công nghệ thông tin cho phép kiểm soát rất có hiệu quả mọi giao dịch, giảm bớt khả năng trốn lậu thuế... 3. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức 3.1. KTTT đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá, làm cho nó trở thành xu thế bao trùm của quan hệ quốc tế hiện đại. Bởi vì, kinh tế tri thức dựa vào việc tạo ra và sử dụng tri thức vốn mang bản chất năng động, lan toả không biên giới, đặc biệt là lĩnh vực thông tin, cho nên lực lượng sản xuất thế giới và các hoạt động kinh tế của con người ngày càng được quốc tế hoá. Trên thực tế, không ít công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng toàn cầu hoá là một quá trình khách quan phổ biến được thúc đẩy chủ yếu bởi những tiến bộ khoa học-công nghệ. Hiện nay, mỗi ngày tổng giá trị giao dịch tài chính quốc tế lên tới 3500 tỉ $, có hơn 50 000 công ty xuyên quốc gia với khoảng 300 000 công ty con nằm khắp các nước trên thế giới. Chính vì điều này, ở nhiều nước khuyến khích việc phát triển và sử dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất. Các công ty ra sức nắm bắt các tiến bộ khoa học-công nghệ trong sản xuất. Trên phương diện vĩ mô, các nước đều tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế để tận dụng tối đa các cơ hội. 3.2. Quá trình phát triển tri thức làm cho phân công lao động trở nên sâu sắc và toàn cầu. Cùng với quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, tri thức mà trước hết là khoa học công nghệ sẽ phát triển hết sức nhanh chóng, làm cho phân công lao động phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Vì trong thời đại kinh tế tri thức, thay vì sử dụng đất đai, tài nguyên và vốn trước đây, tri thức ngày càng làm nên giá trị áp đảo trong mỗi sản phẩm. Bên cạnh đó, sự phân công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày càng có nhiều công ty trong nước đi chuyên vào sản xuất một mặt hàng, một chi tiết cụ thể nào đó của một sản phẩm hoặc chỉ cung cấp một dịch vụ chuyên môn nhất định. 3.3. KTTT làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế thế giới và cấu trúc quan hệ kinh tế quốc tế. Với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, cơ cấu kinh tế thế giới đang đứng trước một sự thay đổi sâu sắc. Trong những năm 60 cơ cấu sản phẩm thế giới có tỉ lệ nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ là 10,4%-28,4%-50,4%, đến năm 90 cơ cấu này đã thay đổi mạnh mẽ : 4,4%-21%-62,4%. Như vậy các ngành dựa trên tri thức đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng hơn và trong tương lai với sự phát triển của kinh tế tri thức, các ngành dựa trên tri thức sẽ chiếm vị trí áp đảo trong cơ cấu kinh tế thế giới. Cụ thể: +Hàng hoá, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm vị trí chủ chốt trong thương mại quốc tế. Hiện nay, tỉ lệ hàng hoá có kỹ thuật cao chiếm khoảng 70% trong tổng các sản phẩm buôn bán giữa các nước phát triển. Trao đổi kỹ thuật và công nghệ giữa các nước đạt 110 tỉ $ năm 1990, 250 tỉ năm 1995, khoảng 500 tỉ năm 2000. + Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển nhanh nhất và sẽ đóng vai trò hàng đầu trong thương maị quốc tế. Trong những năm qua, thương mại điện tử phát triển với tốc độ rất lớn, từ tổng giá trị 17 tỉ $ năm 97 lên 70 tỉ $năm 99 và dự kiến sẽ đạt 1000 tỉ $ năm 2002. + Quá trình phát triển kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa làm tăng tình trạng vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa các doanh nghiệp và tính năng động linh hoạt của chúng trên phạm vi toàn cầu. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá, các công ty luôn tìm cách đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Sẽ có công ty lớn mạnh lên và ngược lại sẽ có công ty phá sản. + Quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá đã và đang làm thay đổi các lợi thế so sánh của các quốc gia trong thương mại quốc tế theo hướng giảm dần các lợi thế truyền thống như đất đai, tài nguyên, vị trí địa lí... và tăng vai trò, giá trị của các yếu tố tri thức. Nước nào khai thác, phát triển tốt nguồn tri thức sẽ có cơ hội phát triểnvà càng có vị trí cao trên thương trường quốc tế. Các nước phát triển sẽ có lợi hơn vì nền kinh tế của họ phát triển cao, đặc biệt có nhiều ngành dựa trên tri thức, nắm giữ khoa học công nghệ hiện đại, có đội ngũ công nhân tri thức đông đảo. Vì thế quá trình toàn cầu hoávà chuyển sang kinh tế tri thứcđang và có thể làm gia tăng sự phân cực về trình độ phát triển và khoảng cách giàu nghèo giữa các nước trên thế giới. Tuy nhiên quá trình này không chỉ tác động một cách tiêu cực mà có còn có tác động tích cực đối với các nước đang phát triển. Nó mở ra nhiều cơ hội mà các nước đang phát triển có thể tận dụng để đi tắt, đón đầu trên con đường phát triển kinh tế, và thu hẹp dần khoảng cách với các nước đi trước. + Theo một số nhà kinh tế, nền kinh tế tri thức mang đặc tính tăng trưởng bền vững và thoát được sự phát triển theo chu kỳ(tăng trưởng- suy thoái) Nếu đúng vậy thì quan hệ kinh tế quốc tế sẽ phát triển một cách ổn định, nguy cơ về khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới không còn là nỗi kinh hoàng nữa. 4. Việt Nam với nền kinh tế tri thức 4.1. Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan Thông qua các đặc điểm của nền kinh tế mới này, chúng ta nhận ra một điều là rõ ràng các nước tư bản phát triển, trước hết là Mỹ hiện đang có rất nhiều lợi thế nắm bắt kinh tế tri thức và chi phối kinh tế thế giới. Khoảng cách về thông tin-tri thức, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các nước và có thể cả giữa các nhóm người trong cùng một nước gia tăng. Tuy nhiên cái gì cũng có 2 mặt của nó. Do kinh tế tri thức có tốc độ biến đổi cực kì cao, thuộc tính tốc độ biến đổi nói lên rằng khả năng bắt kịp các nước đi trước cũng như khả năng tụt hậu sẽ lớn. Kinh tế tri thức là chìa khóa vàng cho các nước nghèo mở lối đi tắt, đón đầu, vươn lên bằng trí tuệ của mình. Mô hình "đi tắt" để chuyển sang kinh tế tri thức là rất cao. Chỉ có cách nắm bắt và lợi dụng các lợi thế của kinh tế tri thức, các nước đang phát triển và chậm phát triển mới có cơ hội từng bước làm chủ vận mệnh của mình. Hiện nay nền kinh tế tri thức mới chỉ được hình thành ở một số nước tiên tiến, chưa thể lan rộng ra toàn thế giới. Những nước đi sau chỉ có 2 cách lựa chọn: hoặc cam phận mãi mãi đi sau, hoặc tìm mọi cách bứt phá lên phía trước. 4.2. Chúng ta có khả năng thực tế tiếp cận và hội nhập nền kinh tế tri thức hay chỉ tìm cách thích nghi với nó? Thực tế đang khẳng định sự đăng quang của nền kinh tế mới. Liệu có quá sức mình khi ta chưa hoàn thành giai đoạn công nghiệp hoá mà đã tiến thẳng vào kinh tế tri thức? Nước ta là một nước nông nghiệp, trình độ phát triển thấp với lực lượng sản xuất chưa phát triển. Bước vào giai đoạn mới, nông nghiệp nông thôn nước ta đang đứng trước những thách thức lớn. Theo nhận định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đó là 4 thách thức lớn: cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, đa số sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao. Kinh tế nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp(70%), lực lượng lao động nông thôn dồi dào, cần cù nhưng vẫn thiếu việc làm... Đứng trước thực trạng nông nghiệp và nông thôn Việt Nam như vậy, nhiều ý kiến cho rằng: với một nước còn nghèo, 3/4 dân số sống ở nông thôn như ở Việt Nam thì có lẽ khó sử dụng tri thức cho phát triển, thậm chí không thể nói việc đi vào nền kinh tế tri thức trong tương lai. Đó dường như là xa vời, là quá sức. Nhưng TSKH Nguyễn Quang Thái- Phó viện trưởng Viện chiến lược phát triển- Bộ Kế hoạch-Đầu tư lại cho rằng: "Trong thực tế có không ít lĩnh vực công nghệ cao trong thời đại ngày nay không chỉ là độc quyền của các nước công nghiệp phát triển. Nếu chúng ta biết lựa chọn những ngành hợp với lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, về tài nguyên thiên nhiên, và tập trung cho đầu tư phát triển với bước đi thích hợp thì có khả năng vươn lên..." Lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn ông cho rằng: "Chúng ta có thể đi theo con đường rút ngắn, đi vào công nghệ hiện đại, dựa vào việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ" Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thì tri thức cho nông thôn- con đường duy nhất để phát triển. Nói cách khác, chúng ta cần sử dụng tri thức, dựa vào tri thứcđể CNH-HĐH nền kinh tế. Như vậy, khi hoàn thành sự nghiệp CNH-HĐH thì chúng ta cũng đồng thời chuyển nền công nghiệp đó sang nền kinh tế tri thức, không như các nước đi trước phải hoàn thành CNH mới có thể tiếp cận nền kinh tế tri thức. Và chúng ta sẽ sử dụng nền kinh tế tri thức để tạo thêm nhiều công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, thực hiện CNH-HĐH nông thôn, đồng thời tạo và phát triển nhanh các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, tạo thành đầu tàu kích thích các nền kinh tế khác phát triển. Dân tộc ta kiên cường bất khuất, tất nhiên sẽ không chịu lùi bước trước khó khăn nào. Tuy nhiên không nên vội vàng, nhưng cũng không được nản chí khi nghe những luận điệu kiểu:" Chưa học hết tiểu học làm sao có thể nhảy thẳng vào đại học" Cuộc sống đa dạng, sôi động đâu chỉ có một "logic tuần tự" ấy. Thực tế cho thấy có nhiều bước đột phá. Nam Triều Tiên, Singapo...công nghiệp hoá đất nước trong vòng 30 năm, Ailen từ một nước nông nghiệp những năm 60, ngày nay đang đàng hoàng sánh vai cùng các nước tiên tiến...Nước ta cũng vậy, nếu chỉ tuân theo logic tuần tự thì trong kháng chiến chắc chắn chúng ta không vượt qua đưởc trình độ vũ khí hiện đại nhất lúc ấy, để có ngày hôm nay. Vấn đề là chúng ta bước vào nền kinh tế tri thức bằng cánh cửa nào? Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan, đang diễn ra một cách ráo riết, dù là nước nghèo nhất thế giới cũng phải đương đầu với những thách thức của nền kinh tế đang được tri thức hoá và toàn cầu hoá. Về vấn đề này tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu rất hay trong bài diễn văn đọc tại hội nghị quốc tế " Việt Nam trong thế kỉ 21" : "Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm ngọn cờ dân tộc...Nhân dân Việt Nam ngày nay có câu: đã biết cầm đũa thì biết vót chông, đã biết vót chông thì 10 ngón tay ấy sẽ biết học tập, sử dụng máy vi tính, đi vào công nghệ thông tin, cánh cửa của kinh tế tri thức." Chiến lược phát triển của ta là chiến lược dựa vào tri thức, nội dung công nghiệp hoá nước ta là vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức. Nước ta hiện nay, GDP bình quân đầu người chỉ bằng 1/12 bình quân của thế giới, thuộc nhóm những nước nghèo nhất. Đảng và Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp cho một chiến lược kinh tế dựa trên tri thức, chẳng hạn đổi mới cơ chế quản lí, phát huy mọi năng lực sáng tạo của người dân, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, cải cách hành chính và tạo lập một khuôn khổ pháp lí mới đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh các doanh nghiệp tri thức...trong đó chăm lo phát triển nguồn nhân lực được coi là quốc sách hàng đầu. Nước ta phải chủ động tiếp cận xu hướng phát triển kinh tế tri thức như một tất yếu và phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức theo mô hình 2 tốc độ-có nghĩa là phải thực hiện 2 nhiệm vụ kép: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ này phải thực hiện đồng thời, lồng ghép và bổ trợ cho nhau. Và một trong những giải pháp chiến lược thích hợp và tối ưu là phát triển nguồn nhân lực, chấn hưng giáo dục. III. Thực trạng nguồn nhân lực và các biện pháp phát triển nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức của nước ta. 1. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng. Với nguồn nhân lực đó, nước ta đã có thể hoà nhập vào môi trường cạnh tranh toàn cầu cũng như đón đầu nền kinh tế tri thức chưa? Nếu chỉ nhìn vào số lượng thì chưa đủ. Chất lượng của nguồn nhân lực còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp, trong khi cầu về lao động lại đòi hỏi nguồn nhân lực lành nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, quản lí cao. Theo điều tra năm 96 : 87,7 % tổng số lao động là lao động giản đơn, đến 1999 số lao động đào tạo đạt 13%. Nếu phân chia trình độ cho số lao động được đào tạo trong những năm đó, trình độ sơ cấp 1,5-1,8 %, công nhân kĩ thuật có bằng cấp 2,1-2,5%, trên đại học 0,03-0,047%. Tuy nhiên những chỉ tiêu đó còn ở mức thấp. Đến cuối 1998, đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động cả nước có khoảng gần 5 triệu người gồm công nhân kĩ thuật, sơ cấp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học thạc sĩ, tiến sĩ. Hiện nay chúng ta có khoảng 88% giáo sư, 63,7% phó tiến sĩ tuổi từ 55 trở lên, 24% tiến sĩ và 35,6% phó tiến sĩ ở tuổi ngoài 50. Trong những năm tới nếu không có sự thay đổi đột biến về giáo dục đào tạo thì sẽ thiếu hụt nghiêm trọng lao động chất xám. Đội ngũ lao động có trình độ đại học, cao đẳng tăng nhanh song phân bố chưa hợp lí giữa các ngành, các vùng , các loại trình độ dẫn đến chênh lệch trong cơ cấu chất lượng đội ngũ lao động. Nước ta đang trong tình trạng khan hiếm nhân lực cao cấp nghiêm trọng. Thị trường đang cần chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên...Kỹ năng lao động tập thể của họ còn yếu. Phần lớn sinh viên của ta sau khi tốt nghiệp vẫn chưa đủ trình độ hội nhập khu vực, còn thiếu kinh nghiệm và kiến thức thực tế, ngoại ngữ chưa giỏi. Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ được xem là tổng số người lao động hay đơn thuần là chất lượng, cơ cấu của đội ngũ đó. Phát triển nguồn nhân lực chính là phát triển các năng lực làm việc của người lao động, sử dụng lao động hợp lí. Cơ cấu lao động nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ với tỉ lệ: 67%- 12%- 21%. Đội ngũ trí thức phân bố không đồng đều, phần lớn tập trung ở các thành phố lớn. Mặc dù đội ngũ trí thức nước ta còn mỏng, song theo đánh giá của các nhà khoa học quốc tế thì đó là lực lượng có trình độ cao. Hiện nay, nhiều trí thức nước ngoài đã về nước đầu tư. Như đã nói ở trên, muốn đi tắt đón đâu, con đường phát triển của ta phải phối hợp ở tốc độ cao. Tốc độ cao ấy chỉ có thể thực hiện được bằng công nghệ mới và nguồn nhân lực có khả năng khai thác và phát huy công nghệ đó. Nhưng trên thực tế, nhân lực cho công nghệ, đặc biệt là công nghệ phần mềm ở nước ta còn thiếu trầm trọng. Dự kiến đến năm2005 công nghiệp phần mềm cần ít nhất 50 nghìn chuyên gia về công nghệ thông tin ở các trình độ khác nhau. Một khiếm khuyết lớn nhất về nhân lực công nghệ phần mềm(CNPM) ở nước ta là sự thiếu hụt trầm trọng chuyên viên trình độ cao. Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực phát triển và ứng dụng CNPM được tăng cường chủ yếu là sinh viên tốt nghiệp từ các khoa CNTT thuộc các trường đại học như: ĐH Quốc gia, Bách khoa, ĐH Sư phạm Hà nội, Thăng long, Đông đô... Trong lúc đó số sinh viên tốt nghiệp bổ sung nguồn nhân lực cho CNTT hàng năm khoảng 2000 người- bao gồm 1400 chuyên viên phần mềm, 600 chuyên viên phần cứng. Số cán bộ CNPM trẻ nói trên đã đáp ứng phần nào nhu cầu nhân lực CNPM hiện tại. Tuy nhiên hàng năm các kỹ sư CNTT ra trường rất đông nhưng lại thiếu trầm trọng kỹ sư CNTT có khả năng trong thị trường. Một tỉ lệ không nhỏ- khoảng 30 % đối với nhóm trường đại học hàng đầu- các kỹ sư tốt nghiệp không đủ khả năng làm việc đúng ngành. Cho đến nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa, chúng ta đã có những cán bộ, công nhân đưa được tri thức mới vào quy trình sản xuất, cho ra được những sản phẩm mới có hàm lượng tri thức cao, làm lợi cho nhà máy hàng tỷ đồng. Nhưng phải khi ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào quy trình sản xuất thì sản phẩm có hàm lượng tri thức cao mới tăng lên gấp bội, mới chiếm lĩnh thị trường trong nước và thế giới. Hiện nay, công nghệ thông tin đã được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong các ngành bưu chính viễn thông, ngân hàng, hàng không, dầu khí, điện lực, thương mại, quốc phòng...Cả nước có khoảng 400 000 máy tính cá nhân, khoảng 25 nghìn người truy cập Internet. Bước đầu sản phẩm phần mềm của Việt Nam đã được thế giới biết đến. Cụ thể như sản phẩm phần mềm" PopMap for Windows" của Viện công nghệ thông tin thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia làm theo đơn đặt hàng của LHQ đã thành công, được tặng giải thưởng Khoa học công nghệ năm 200

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35047.doc
Tài liệu liên quan