Đề tài Công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam

Mục lục

A. PHẦN MỞ ĐẦU: 1

B: NỘI DUNG: 1

1.SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM: 1

1.1.KINH TẾ THỊ TRƯỜNG LÀ GÌ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ: 2

1.1.1.Kinh tế thị trường là gì: 2

1.1.2 Những ưu điểm của nền kinh tế thị trường: 2

1.1.3. Những nhược điểm của kinh tế thị trường : 3

1.2.KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẶC ĐIỂM VÀ YÊU CẦU: 5

1.2.1. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: 5

1.2.2. Những yêu cầu để thực hiện thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: 7

1.3. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: 8

1.3.1. Sự bộc lộ yếu kém của nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung bao cấp: 8

1.3.2. Những biến động trên thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế nước ta: 10

1.3.3. Kinh tế thị trườngvà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: 11

2.CÔNG CUỘC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HÔI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 12

2.1 Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: 12

2.1.1 Các thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế Việt nam 12

2.1.2. Đặc điểm của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta: 14

2.2 Thực trạng của nền kinh tế sau 15 năm đổi mới: 15

2.2.1. Những thành công đã đạt được trong kinh tế xã hội: 15

2.2.2. Những mặt còn yếu kém hạn chế của nền kinh tế nước ta: 17

2.3. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ: 19

3. ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ ỔN ĐỊNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: 21

3.1. Tạo môi trường thông thoáng và bình đẳng cho các thành phần kinh tế: 21

3.2. Tăng cường vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế: 22

3.3. Mở rộng quan hệ hợp tác với khu vực và quốc tế : 24

C. KẾT LUẬN: 25

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thể phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường của nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới để thu hút vốn, kĩ thuật công nghệ hiện đại để có thể rút ngắn giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay xu thế toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan tiếp tục lôi cuốn các nước vầ mở rộng trên hầu khắp các lĩnh vực làm tăng sức ép cạnh tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Hội nhập quốc tế vừa là quá trình hợp tác và đấu tranh phức tạp muốn phát triển kinh tế phải mở rộng cửa, hội nhập với kinh tế quốc tế nhưng đồng thời cũng phải gắn liền với độc lập tự chủ lợi ích quốc gia dân tộc. Tóm lại nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là kinh tế thị trường tự do và “đối với chúng ta cơ chế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng, không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện”(9-6 ) 1.2.2. Những yêu cầu để thực hiện thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Mục đích của Đảng ta là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh và chúng ta lấy kinh tế thị trường làm phương tiện đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng nếu chúng ta không có những chính sách cụ thể định hướng rõ ràng thì “nền kinh tế thị trường có xu hướng tự phát thành tư bản chủ nghĩa- con đường quen thuộc và đã có tiền lệ trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới”(25-8 ) Trước hết chúng ta cần giữ vững và tăng cường bản chất nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì dân, giữ vững vai trò lãnh đạo của đảng công sản Việt Nam, thực hiện chế độ Đảng cầm quyền lấy dân làm gốc. Kinh tế thị trường đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới căn bản nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nhất quán về định hướng và nguyên tắc. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta phải xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật củachủ nghĩa xã hội, do đó nền kinh tế thị trường là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác phải được củng cố và mở rộng. Thông qua kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác nhà nước tăng cường nâng cao chất lượng quản lí vĩ mô đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được sự tiến bộ và công bằng xã hội. Trong điều kiện lịch sử trong nước cũng như thế giới ngày nay thì quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình phấn đấu đầy gian khổ, chúng ta vừa xây dựng con đường đi cho mình vừa phải thẳng thắn nhìn vào con đường đinhững khuyết tật để sửa chữa, phải có bản lĩnh vững vàng trước những biến động khôn lường của lich sử. Xây dựng kinh tế thị trường là một tất yếu để đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng chúng ta không được coi đó là mục đích mà mục đích cuối cùng vẫn là chủ nghĩa xã hội. 1.3. Vai trò của kinh tế thị trường trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: 1.3.1. Sự bộc lộ yếu kém của nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung bao cấp: Trước đây trong chiến tranh mô hình kinh tế chỉ huy tập chung đã phát huy được những ưu điểm của mình vì dồn tất cả cho chiến tranh và những nhược điểm của nó bị hoàn cảnh chiến tranh che lấp. Sau chiến tranh cùng với sự khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nguồn viện trợ từ nước ngoài bị cắt giảm đột ngột nền kinh tế chỉ huy tập chung bộc lộ những yếu kém khuyết tật của mình làm cho nền kinh tế bị suy thoái. Có thể nói “không phải chế độ xã hội chủ nghĩa thua chế độ tư bản mà kinh tế hiện vật thua kinh tế thị trường” Trước hết đó là sự tập trung quan liêu về chính trị, chúng ta vẫn hô hào rằng chúng ta xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân, nhân dân làm chủ nhưng thực ra trong kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp hay còn gọi là mô hình kinh tế chỉ huy tập chung quan liêu bao cấp chúng ta rất ít coi trong dân chủ nhất là dân chủ trong kinh tế. Trong nền kinh tế chỉ có kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là tồn tại mà phủ nhận sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân, chúng ta thậm chí còn cấm đoán không cho nhân dân có quyền tự do buôn bán, kinh doanh phục vụ lợi ích của mình và góp phần phát triển xã hội. Do đó chúng ta không phát huy được sức mạnh của toàn dân, nhân dân không có quyền tự do làm giàu cho chính mình, mọi thứ đều được cào bằng chứ không phải là phân phối theo lao động đã làm nảy sinh tư tưởng chán nản, làm cầm chừng vì có làm tích cực hay không thì cũng chỉ được hưởng chế độ như nhau, mọi người hưởng chế độ phân phối làm cho nhiều lúc thì lương thực thừa thãi còn nhiều lúc thì khan hiếm lương thực làm lòng dân lung lay, niềm tin vào Đảng có phần suy giảm. Về kinh tế chúng ta nhà nước hoá về kinh tế, chúng ta đã quá nông vội trong việc xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân còn trong kinh tế nhà nước thì thực chất các xí nghiệp nhà máyvận hành theo cơ chế: “cấp phát và giao nộp” họ chỉ được vận hành theo yêu cầu và văn bản của nhà nước do đó đã làm thủ tiêu sự sáng tạo của các doanh nghiệp, nên họ đã tư động xé rào do thiếu vật tư, tư liệu sản xuất. Trong nông nghiệp nông dân không thể yên tâm khi sản phẩm thu được nộp cho hợp tác xã và bị cào bằng nên khoán chui đã trở thành phổ biến của các địa phương. Các quan hệ hàng hoá tiền tệ bị hình thức hoá. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp đã gây ra những hậu quả nặng nề mà cho tới giờ chúng ta vẫn chưa thể khắc phục được. Mọi sản phẩm được cào bằng nên động lực về lợi ích kinh tế của nền kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế, người lao động nói riêng bị thủ tiêu, đời sống của nhân dân sa sút, sản xuất đình trệ nền kinh tế hoạt động một cách thiếu sinh khí. Các doanh nghiệp nhà nước thiếu trách nhiệm vì “lãi nộp nhà nước lỗ nhà nước chịu” . Trong nền kinh tế bên cạnh thị trường có tổ chức do nhà nước nắm giữ là thị trường tự do phát triển không thể khiểm soát được, sự vi phạm những nguyên tắc của nhà nước làm nền kinh tế rơi và tình trạng khủng hoảng. Có thể nói trong nền kinh tế việc thực hiện kế hoạch hoá chủ yếu được tiến hành theo cách giao chỉ tiêu và pháp lệnh, với cách đó các cấp dưới và các đơn vị cơ sở chỉ làm một việc duy nhất là nghiêm chỉnh chấp hành, họ không phải suy nghĩ xem phải làm gì và làm như thế nào để có hiệu quả vì mọi việc đã có cấp trên tính toán và chịu hậu quả. Tóm lại cái gọi là hoạt động kinh doanh cuẩ họ hết sức thụ động và ngồi chờ nhà nước. Do đó từ những năm 70-80 nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng sản xuất thì đình đốn, giá cả thất thường, tỉ lệ lạm phát đã lên mức phi mã(năm 1986 tỉ lệ lạm phát đã lên 774,7%) Nhưng hậu quả về kinh tế kéo theo một loạt sự xuống cấp về xã hội. Một bộ phận những người có chức có quyền đã lợi dụng để làm giàu cho mình một cách phi pháp theo kiểu đục nước béo cò, những người nắm giữ quyền phân phối sản phẩm như các mậu dịch viên thì hách dịch tự cho mình có quyền bán cho ai, bán như thế nào, nạn thất nghiệp có phần gia tăng. Trong nông nghiệp nông dân chỉ còn sức lao động vì mọi ruộng đất đều bị xung vào hợp tác xã, trong khi đó hợp tác xã thì làm ăn không hiệu quả sản xuất thì phân tán. Có thể nói cả một thời kì dài kinh tế nước ta rơi vào suy thoái và đòi hỏi phải có luồng gió mới để phát triển kinh tế xã hội. 1.3.2. Những biến động trên thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế nước ta: Có thể nói thế kỉ 20 là một thế kỉ đầy biến động có ảnh hượng mạnh mẽ tới nền kinh tế nước ta. Trước hết đó là sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xôvà Đông Âu làm cho nước ta mất đi một chỗ dựa vững chắc về kinh tế và chính trị, nguồn viện trợ to lớn để ổn định nền kinh tế bị cắt giảm đột ngột, hơn nữa giờ đây chúng ta phải đơn thương độc mã trong sự bao vây thù địch của hệ thống tư bản chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh và thủ đoạn hơn cả về kinh tế và chính trị. Trên thế giới ngày nay xu hướng toàn cầu hoá trở thành xu thế chủ đạo đang ngày càng lôi cuốn các nước. Đã có hơn 120 nước tham gia vào các tổ chức kinh tế chính trị khác nhau và nổi lên ba khu vực chính đó là khu vực thị trường chung( EU ), khu vực mậu dịch tự do, và khu vưc Châu á-Thái Bình Dương làm cho kinh tế nước ta đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn thúc đẩy kinh tế phát triển đồng thời tạo sức ép cạnh tranh với kinh tế khu vực và thế giới. Sự phát triển của Trung Quốc đã chứng tỏ sự tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, chúng ta cần phải học hỏi những kinh nghiệm thành công của Trung Quốc để áp dụng vào kinh tế nước nhà. Thế giới đang biến động phức tạp bên cạnh xu thế đối thoại hoà bình thì chiến tranh vẫn đang gia tăng, sự can thiệp quá sâu và nội bộ các nước của Mĩ làm một cuộc chạy đua vũ trang mới đang diễn ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân huỷ diệt đang đe dọa loài người, sự gia tăng đột ngột của chủ nghĩa khủng bố....và hàng loạt những nguy cơ khác đòi hỏi loài người phải chung sức phấn đấu vì hoà bình cho nhân loại. 1.3.3. Kinh tế thị trườngvà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Sự sa sút về kinh tế trong những năm 70-80 buộc Đảng ta phải thẳng thắn nhìn nhận lại mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp và tìm ra một mô hình kinh tế mới phù hợp để phát triển. Đảng ta đã nhận ra rằng “chủ nghĩa xã hội với những mục tiêu tốt đẹp nhưng không sử dụng cơ chế thị trường thì không thể thành công, không thể biến những ý tưởng tốt đẹp đó thành hiện thực của cuộc sống” (7/8-5 ) Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát thấp, cơ cấu kinh tế mang đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu với hơn 80% dân số làm nông nghiệp, trong thời gian đầu chúng ta quá vội vàng sao chép một cách nguyên si mô hình kinh tế của các nưóckhác mà không tính đến điều kiện lịch sử. Chủ nghĩa Mác-Lê Nin khẳng định cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng tái tạo cả nông nghiệp, vì vậy chúng ta cần có một mô hình kinh tế không những phải đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho đời sống nhân dân mà còn đòi hỏi phải có tích luỹ đáng kể cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường đi đúng đắnđể xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Với những đặc trưng của mình kinh tế thị trường sẽ khuyến khích mọi người cùng tham gia xây dựng kinh tế để phục vụ cho nhu cầu lợi ích của mình và góp phần vào xây dựng đất nước. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp đấu tranh của Đảng và nhân dân ta, nhờ chuyển sang kinh tế thị trường nền kinh tế nước ta đã có những bước thay đổi căn bản. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ phát huy được nguồn lực trong dân mà còn hạn chế được những yếu tố tự phát, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường tư do “chúng ta đã có độc lập dân tộc, còn phải tiếp tục làm cho dân giàu nước mạnh điều đó chỉ có thể sử dụng đọng lực của kinh té thị trường và vai trò của nhà nước”(28/29-5 ) Trải qua những năm đổi mới nhờ chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế phát triển đời sống của nhân dân được cải thiện bước đầu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội được củng cố. Chủ nghĩa xã hội giờ đây không còn là những lý thuyết trừu tượng, xã rời thực tế mà giờ đây gắn liền với những vấn đề cụ thể đời thường, phù hợp với cách nghĩ của hàng triệu quần chúng 2.Công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1 Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: 2.1.1 Các thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế Việt nam Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định nước ta có năm thành phần kinh tế cơ bản đó là kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, nhưng đại hội Đảng lần thứ IX đã quyết định bổ xung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy kinh tế nước ta có những thành phần sau: +Kinh tế nhà nước: thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở kinh tế; nó bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, tài sản thuộc sở hữu của nhà nước như đất đai, ngân sách, các nguồn dự trữ, tài nguyên...vốn của nhà nước trong các công ty cổ phần, trong liên doanh...nhìn chung kinh tế nhà nước do nhiều bộ phận cấu thành lên nhưng nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước. + Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã : thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, có thể là từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã hoạt động của kinh tế hợp tác dựa trên nguyên tắc tự nguyện bình đẳng cùng có lợi, quản lý dân chủ, các hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên và phân phối theo kết quả lao động và cổ phần. Kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là nền tảng của kinh tế quốc dân. + Kinh tế tư bản nhà nước : là hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa nhà nước và tư bản tư nhân trong và nước ngoài mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư. +Kinh tế cá thể tiểu chủ: thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân họ, phát triển trong nhiều ngành nghề ở thành thị hoặc nông thôn. Thành phần kinh tế này có thể tồn tại độc lập hoặc tham gia vào các loại hình hợp tác, các doanh nghiệp dưới mọi hình thức. Và nhà nước hướng họ vào con đường hợp tác trên cơ sở tự nguyện, không gò ép cùng có lợi. + Kinh tế tư bản tư nhân: Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và quan hệ người bóc lột người mặc dù không còn nguyên nghĩa như trong xã hội cũ. Thành phần kinh tế này tồn tại trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh được pháp luật cho phép, nó có thể được nhà nước liên doanh dưới nhiều hình thức cả tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài để hình thành loại hình kinh tế tư bản tư nhân và nhà nước. Có thể nói sự phát triển của nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế thì sự thống nhất và cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Mặc dù sự hoạt động của mỗi thành phần kinh tế có sự khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội và luôn hướng vào việc đáp ứng nhu cầu ccủa xã hội và dân cư trên thị trường. Muốn kinh doanh có hiệu quả thì họ phải có mối liên hệ lẫn nhau và hàng hoá sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và được thị trường chấp nhận. Trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội mỗi thành phần kinh tế đều là yếu tố tham gia điều tiết nền kinh tế song đều chịu sự tri phối điều tiết của yếu tố cơ bản đó là kinh tế quốc doanh dưới sự chỉ đạo của chính sách kinh tế và pháp luật của nhà nước . Tuy có sự thống nhất lẫn nhau trong nền kinh tế song giữa các thành phần kinh tế luôn có sự đấu tranh gay gắt về lợi ích kinh tế của mình. Các mâu thuẫn diễn ra hết sức phức tạp vì các thành phần kinh tế luôn tồn tại và tác động lẫn nhau trong suốt thời kì quá độ. Chúng ta cần phải có những chính sách, những phương pháp giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn trên và làm tăng tính thống nhất của các thành phần kinh tế. 2.1.2. Đặc điểm của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta: Trải qua 15 năm đổi mới có thể nói nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã phát huy được những thành công của nó. Sự phát triển ccủa kinh tế tư nhân, cá thể trong những năm đã qua đã làm cho nền kinh tế trở nên sống động, nhưng không có nghĩa là nó sẽ được tự thân vận động mà phải đặt trong tổng thể nền kinh tế có lãnh đạo quản lí. Vì nền kinh tế là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên đòi hỏi kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nắm vững vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ quan trọng để nhà nước định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngày nay các doanh nghiệp nhà nước cũng phải thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, nộp ngân sách đầy đủ và có lãi. Trên cơ sở đó nhà nước cũng tạo điều kiện về chính sách, pháp luật để cho thành phần kinh tế nhà nước phát triển và trở thành chủ chốt trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế hợp tác được nhà nước hỗ trợ đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, giải quyết nợ tồn đọng để kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước trở thành chủ đạo trong nền kinh tée. Nhà nước khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển rộng rãi không hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề sản xuất có lợi cho kinh tế quốc dân nhưng đồng thời cũng đảm bảo cho sự kiểm soát của nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân chưa được tham gia vào một số ngành kinh tế chủ lực nắm vị trí then chốt trong nền kinh tế như điện, thông tin liên lạc, than ... Ngày nay trong mô hình kinh tế các thành phần kinh tế không tồn tại một cách riêng rẽ mà ngày càng phát triển nhiều hình thức đan xen hỗn hợp dưới dạng công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn làm cho nền kinh tế linh hoạt hơn và đảm bảo sự quản lí của nhà nước. Ngày nay chúng ta hướng kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ đi vào con đường kinh tế nhà nước kinh tế hợp tác dưới nhiều hình thức để nhằm tiến tới kinh tế xã hội chủ nghĩa. 2.2 Thực trạng của nền kinh tế sau 15 năm đổi mới: 2.2.1. Những thành công đã đạt được trong kinh tế xã hội: Đại hội VII của Đảng đã đưa ra “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991-2000”nhằm mục tiêu thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, ổn định kinh tế chính trị xã hội ...tạo điều kiện cho kinh tế đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỉ 21. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn thách thức nhưng nhìn chung nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: Trước hết nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, trong những năm 70-80 do chưa tìm được con đường đi đúng đắn cho mình kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát ở mức phi mã (1986tỉ lệ lạm phát là 774,7 ) tốc độ tăng kinh trưởng tế còn chậm chạp, nền kinh tế khép kín bị động. Trải qua quá trình đổi mới 15 năm nền kinh tế nước ta không những thoát khỏi tình trạng khủng hoảng mà còn đang phát triển với tốc độ tương đối khá( tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm 90 là trên 8%, trong đó năm 1995 là 9,5%) lạm phát được kìm hẫm và ổn định( năm 1995 là12,7%) Tổng sản phẩn trong nước tính đến năm 1994 tăng 8,5% trong đó sản xuất công nghiệp tăng là 13%, nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%. Tổng sản phẩm trong nước(GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi tình trạng khan hiếm nay đã không còn, lương thực và các mặt hàng thiết yếu cho đời sống nay không những đủ mà còn thừa một phần phục vụ cho xuất khẩu. Đặc biệt là trong nông nghiệp, trước kia chúng ta từ một nước đói phải nhập lương thực từ nước ngoài nay chúng ta đã là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, cà phê đứng thứ ba, hàng thuỷ sản chiếm 25% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Hàng năm tốc độ tăng nông nghiệp là 5% bình quân lương thực tăng từ 370kg/ người năm 1995 lên 435kg/ người năm 2000, sản lượng lương thực tăng 1,3 triệu tấn một năm, trị giá nông lâm thuỷ sản năm 2000 là 4tỉ USD gấp 1,6 lần năm 1995. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực trong GDP tỉ trong nông nghiệp giảm từ 38,7% xuống còn 25%, công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5% dịch vụ tăng từ 38,6% lên40.5%(từ năm 1995 và năm 2000) Quan hệ sản xuất đã có bước phát triển quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước giữ vâi trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cac doanh nghiệp nhà nước đang từng bước phát triển, hình thành các tổng công ty nắm những lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế như điên, thông tin liên lạc, xây dựng, ngân hàng...các thành phần kinh tế khác cũng đang phát triển khá nhanh. Cơ cấu vốn của các khu vực kinh tế năm 1995 là doanh nghiệp nhà nước chiếm 58,1%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 5.7%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 36,2% như vậy doanh nghiệp nhà nước vẫn có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và chiếm một tỉ trọng lớn. Đời sống của nhân dân được cải thiện, GDP tính theo đầu người của nước ta là 400USD mặc dù so với kinh tế thế giới thì đó vẫn là mức thấp nhưng đó là cố gắng lớn của Đảng và nhân dân ta. Mỗi năm chúng ta tạo thêm được 1,2 đến 1,3 triệu việc làm mới. Tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ 30% xuống còn 11%. Người có công với cách mạng được quan tâm chăm sóc. Tỉ lệ tăng dân số giảm từ 2.31% xuống còn 1,53%, tuổi thọ bình quân tăng từ 65 tuổi lên 68 tuổi, những dịch vụ xã hội được đảm bảo, trường học khang trang, y tế phát triển, về cơ bản chúng ta đã phổ cập xong giáo dục tiểu học và chúng ta đang tiến tới phổ cập trung học, số sinh viên đại học cao đẳng tăng gấp 1,5 lần ... tao được một mặt bằng dân trí cao để phát triển kinh tế tri thức. Từ chỗ bị bao vây cấm vận nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế thế giới, bình thường hoá quan hệ với các nước khác, nước ta đã gia nhập ASEANnăm 1995 và đang tiến tới gia nhập WTO, nhịp độ tăng xuất khẩu gấp 3 lần nhịp độ tăng GDP. Đầu tư nước ngoài tăng trong 5 năm đã có 1500 dự án với số vốn lên tới 20,7 tỉ USD, trong đó chủ yếu là từ các nước ASEAN và Châu ÂU. Đầu tư của các nước ASEAN tăng từ 17,3% (1991-1995) lên 29,8%(1996-2000) đầu tư của EU cũng tăng tương ứng tư 23,2% lên 25,8%, vốn đầu tư của các nước EU, Mĩ, Nhật chiếm 42,6%. Như vậy trải qua 15 đổi mới đã khẳng định một lần nữa con đường đi của Đảng và nhân dân ta là hoàn toàn đúng đắn. 2.2.2. Những mặt còn yếu kém hạn chế của nền kinh tế nước ta: Tuy chúng ta đã đạt được những thành công trong công cuộc đổi mới nhưng bên cạnh đó vẫn còn những bất cập yếu kém mà chúng ta cần phải khắc phục, và đó là những điều không phải một sớm một chiều mà chúng ta có thể làm được. Về cơ bản nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nền kinh tế vẫn còn lạc hậu, công nghệ thì yếu kém, nhu cầu vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá lớn nhưng đại bộ phận nhân dân tiêu xài còn lãng phí. Nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển ổn định, sức cạnh tranh còn thấp nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây chậm dần năm 2000 có chiều hướng tăng nhưng vẫn chưa đạt được tốc độ tăng trưởng cao như giữa thập niên 90. Năng suất lao động còn thấp, chất lượng nhiều sản phẩm chưa tốt, giá thành cao, nhiều sản phẩm nông lâm thuỷ sản hàng công nghiệp còn ứa đọng, thiếu thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước. Kinh tế thị trường nước ta tuy đã hình thành nhưng đang ở trong thời kì sơ kai, mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp vừa chưa đủphát huy sức mạnh của cơ chế thị trường, vừa chưa hạn chế được những tiêu cực của nó. Hệ thống pháp luật mặc dù có nhiều tiến bộ song vẫn chưa hoàn chỉnh và nghiêm minh. Lạm phát vẫn còn là mối lo ngại chưa được kiềm chế vững chắc, tài chính tiền tệ chưa ổn định thiếu lành mạnh và còn chưa đủ độ tin cậy, Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tính đến tháng 7-1997 số doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ là 17% ví dụ như công ty dệt Nam Định năm 1995 thua lỗ 130 tỉ đồng, công ty dâu tằm năm 1995 thua lỗ 73,3 tỉ đồng Một số vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt vẫn chưa được giải quyết tốt, tình trạng không có việc làm ở thành thị và nông thôn dẫn tới hiện tượng một số bộ phận dân cư ở nông thôn kéo ra thành thị để kiếm việc làm làm mất ổn định xã hội, ở nước ta lực lượng lao động tăng tự nhiên là 1,2 triệu người trong khi đó tỉ lệ thất nghiệp thành thị là 7,4%(1triệu người), còn ở nông thôn nếu tính số người có việc là 250 ngày trong năm thì có 9 triệu người thất nghiệp. Công tác giáo dục chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều phiền hà sách nhiễu tiêu cực. Tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, tội phạm phát triển, mức sống của nhân dân một số vùng còn thấp, phân phối xã hội ở nhiều nơi còn nhiều bất công khiếu kiện ở nhiều nơi còn xảy ra phức tạp. Việc cải cách nền hành chính nước ta còn chậm chạp, thiếu kiên quyết, tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều khi các chủ trương chính sách đúng đắn khi thực hiện lại biến dạng, không đạt được kết quả do phải qua nhiềunấc quan liêu và những thủ tục phiền hà. Nhiều nghị quyết đã đề ra nhưng làm thiếu tập chung, không làm tới nơi tới chốn làm sai làm chậm, chỉ nói mà không làm, chần chừ do dự, không giám chịu trách nhiệm để làm. Văn hoá xã hội còn nhiều điều nhức nhối, nạn tham nhũng và sự tha hoá biến chất của một số cán bộ có chức có quyền đã trở thành một nguy cơ mới đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng, đời sống của nhân dân thành thị và nông thôn có khoảng cách lớn. Ngay trong đại hội Đảng đã chỉ ra bốn nguy cơ với nước ta đó là: nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nguy cơ trệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ diễn biến hoà bình và nguy cơ nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng. 2.3. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lí nhà nước trong nền kinh tế: Trong lịch sử cách mạng Việt Nam sự lãnh đạo của Dảng đã trở thành một tất yếu của lịch sử. Nhờ sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đã giành được những thắng lợi quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Trước những điều kiện trong nước và bối cảch thế giới hết sức phức tạp sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng trong việc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34548.doc
Tài liệu liên quan