Đề tài Đặc điểm chất hữu cơ trong đất ngập nước tại vườn quốc gia lò gò - Xa mát, tỉnh Tây Ninh

MỤC LỤC

Nhiệm vụ Đồ án tốt nghiệp i

Nhận xét của giáo viên hướng dẫn ii

Lời cảm ơn iii

Mục lục iv

Danh sách các ký hiệu, chữ viết tắt x

Danh mục các bảng xi

Danh mục các hình xii

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

 

Lời nói đầu

Chương 1: Giới thiệu về đề tài 1

1.1. Đặt vấn đề 1

1.2. Tên đề tài đề 1

1.3. Mục tiêu nghiên cứu 2

1.4. Đối tượng nghiên cứu 2

1.5. Khách thể nghiên cứu 2

1.6. Đối tượng khảo sát 2

1.7. Mục đích nghiên cứu 2

1.8. Phạm vi nghiên cứu 2

Chương2: Tổng quan điều kiện tự nhiên, tỉnh Tây Ninh. 3

2.1. Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội 3

2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3

2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 10

2.2. Tổng quan về đất – đất ngập nước, tỉnh Tây Ninh 12

2.2.1. Tài nguyên đất 12

2.2.2. Sơ lược hệ thống đất ngập nước ở tỉnh Tây Ninh 12

 Chương 3: Đặc điểm đất ngập nước và điều kiện tự nhiên của vùng nghiên

 

doc61 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1096 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm chất hữu cơ trong đất ngập nước tại vườn quốc gia lò gò - Xa mát, tỉnh Tây Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc. Khai thác mà vẫn quan tâm đến tỷ lệ sản xuất hàng năm và khả năng tái sinh của từng loài thì vẫn có thể tạo lợi ích to lớm cho xã hội loài người. Tài nguyên rừng: việc khai thác trực tiếp các tài nguyên rừng của nhiều vùng đất ngập nước mang lại môt loạt các sản phẩm quan trọng từ củi đun, gỗ, vỏ cây cho tới các sản phẩm phụ không phải gỗ như các chất nhựa và dược phẩm. Tài nguyên động vật hoang dại: nhiều vùng đất ngập nước rất giàu về động vật hoang dại tạo ra những khu giải trí quan trọng và những sản phẩm thương mại từ thịt đến da, từ mật ong đến trứng chim và rùa. Nghề cá: nhiều vùng đất ngập nước đã cung cấp chất dinh dưỡng đáng kể và là môi trường trú ngụ cho cá đẻ trứng, nơi ương cá con hoặc là môi trường sinh sống cho cá đã trưởng thành. Hai phần ba số cá mà chúng ta ăn là sống nhờ vào đất ngập nước ở một số giai đoạn phát triển của chúng. Tài nguyên cỏ: những vùng đất ngập nước có chứa những diện tích đất cỏ quan trọng và có chứa những loại cây làm thức ăn cho gia súc. Tài nguyên nông nghiệp: nhiều vùng đất ngập nước đã được chuyển hoá sang sản xuất nông nghiệp thâm canh. Tuy nhiên, hãy còn đang tiếp tục được canh tác tự nhiên. Nếu được quản lý tốt, nền nông nghiệp trên đất ngập nước tự nhiên có thể sinh ra những lợi ích to lớn cho các cộng đồng nông thôn. Cung cấp nước: các vùng đất ngập nước có thể được sử dụng như là nguồn cung cấp nước cho con người sử trực tiếp như trong nông nghiệp, tắm rửa vật nuôi và cung cấp cho công nghiệp. - Các thuộc tính: những thuộc tính đặc biệt của một vùng đất ngập nước-tính đa dạng sinh học và tầm quan trọng của nó đối với giá trị văn hoá, di sản. Chúng càng có giá trị khi đất ngập nước được duy trì ở hiện trạng “ nguyên vẹn” hoặc được bảo vệ. Nhiều vùng đất ngập nước trợ giúp đáng kể cho sự tập trung của các loài động vật hoang dại. Ở Tây Phi, các đồng bằng ngập nước của các lưu vực Senegal, Niger và Chard đã trợ giúp cho hơn một triệu con chim nước, nhiều loài di trú, trong suốt thời gian của một năm. (Monval, et.al., 1987) Tính độc đáo về văn hoá/di sản: nét đẹp cảnh quan đất ngập nước cũng như nguồn động vật hoang dại ở đó đã hấp dẫn con người đến các vùng đất ngập nước. - Gía trị nhiều mặt của các hệ sinh thái đất ngập nước: một vùng đất ngập nước không thể thực hiện được tất cả các chức năng thì tất cả các vùng đất ngập nước sẽ sản ra những lợi ích tổng hợp. 3.2. Chức năng của đất ngập nước: - Nạp nước ngầm: chức năng này xuất hiện khi nước di chuyển từ vùng đất ngập nước xuống tầng ngậm nước trong lòng đất. - Tiết nước ngầm: chức năng này xuất hiện khi nước tích luỹ trong lòng đất di chuyển lên một vùng đất ngập nước và trở thành nước mặt. - Khống chế lũ lụt: bằng cách giữ và giải thoát nước mưa một cách điều độ, đất ngập nước có thể làm giảm sự tàn phá khơc liệt của các đỉnh lũ ở phia hạ lưu. - Oån định bờ biển/ chống xói mòn: thực vật ở vùng đất ngập mước có thể làm ổn định bờ biển bằng cách giảm năng lượng của sóng, dòng chảy và các lực xói mòn khác đồng thời lại cố định được lớp trầm tích đáy bằng rễ của chúng. -Giữ chất lắng đọng và chất độc: chất lắng đọng và chất độc thường là chất gây ô nhiễm nước chủ yếu ở nhiều hệ thống sông ngòi. Vì các vùng đất ngập nước thường nằm trong các lưu vực nên chúng có tác dụng như các bể lắng. -Giữ chất dinh dưỡng: chức năng này xuất hiện khi các chất dinh dưỡng quan trọng nhất là photpho và nitơ, tích luỹ trong tầng đất hoặc trong cây cối của vùng đất ngập nước. Các vùng đất ngập nước loại bỏ được chất dinh dưỡng có thể nâng cao chất lương nước và giúp ngăn ngừa hiện tượng phú dưỡng hoá. - Xuất khẩu sinh khối: vùng đất ngập nước là môi trường sống cho tôm, cá, động vật hoang dã và các đồng cỏ tươi tốt. - Chống sóng, bão, chắn gió: rừng ngập mặn và các vùng đất ngâp nước ven biển có rừng có tác dụng làm giảm sức gió và giảm thiệt hại do biển gây ra. - Oån định vi khí hậu: toàn bộ các chu trình về thuỷ văn, dinh dưỡng và vật chất, và các dòng năng lượng của các vùng đất ngâïp nước có thể làm ổn định được các điều kiện khí hậu địa phương, đặc biệt là lượng mưa và nhiệt độ. - Giao thông đường thuỷ: môi trương nước mênh mông cảu các hệ sinh thái đất ngập nước có thể dùng để vận chuyển hàng hoá và làm đường giao thông. -Giải trí-du lịch: gồm săn bắn thể thao, câu cá, xem chim, chụp ảnh thiên nhiên, bơi lội và đi thuyền. 3.3. Đặc điểm của đất ngập nước của Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát, tỉnh Tây Ninh -Đất ngập nước của VQGLGXM rất phong phú và đa dạng, diện tích ước tính trên 1000ha bao gồm các loại đất ngập nước ven sông suối, các bàu, trảng, hố bom và có thể bao gồm cả loại rừng thưa cây họ dầu trên các triền đất thấp, kết cấu đá ong ở tầng mặt, ngập nước một thời gian ngắn nhất định trong năm. - Các vùng đất ngập nước có diện tích rất khác nhau, từ các hố bom rộng vài m2 đến các trảng cỏ rộng vài trăm ha nằm rải rác trong rừng và ven rừng, ăn thông ra cả diện tích bên ngoài và sang Campuchia. - Ranh giới của các vùng đất ngập nước thật sự là không rõ ràng do địa hình có độ dốc nhỏ, nhiều loại đất và có sự thay đổi một cách tuần tự hệ thực vật từ vùng đất khô đến ngập ít, ngập theo mùa và ngập quanh năm. - Đất ngập nước VQGLGXM có giá trị về nhiều mặt: cảnh quan, đa dạng sinh học và môi trường. Kiểu thảm thực vật này đóng góp đáng kể vào sự đa dạng về hệ sinh thái của khu vực, đa dạng về các loài động thực vật thuỷ sinh, và là sinh cảnh quan trọng quyết định đến sự hiện diện của các loài thú lơn ăn cỏ và các loài chim nước thông qua việc cung cấp thức ăn và nứơc uống. 3.4. Thống kê diện tích các đơn vị đất ngập nước Vườn quốc gia Lò Gò –Xa Mát Diện tích toàn bộ các vùng đất ngập nước của VQGLGXM là 4.533,13ha, trong đó có 3.294,38ha đất ngập nước tự nhiên và 1.238,46ha đất ngập nước nhân tạo (bảng 2). Trong các vùng đất ngập nước tự nhiên, đất ngập nước thuộc trảng có diên tích lớn nhất với 1.780,38ha, kế đến là suối 731,88ha và sông 679,25ha. Các bàu nước chiếm diện tích 103,16ha, trong đó có các bàu lớn như bàu trên trảng bà điếc 17,95ha, bàu quang 8,34ha, bàu đưng lớn 7,16ha, bàu chảo 6,47ha. Quy mô diện tích các vùng đất ngập nước có thể được phân thành các cấp: -Quy mô lớn (gồm các vùng đất ngập nước có diện tích lớn hơn 100ha) có tổng diện tích 2.845ha, trong đó gồm nhiều vùng trảng cỏ, trảng cây gỗ, đất trồng lúa và các vùng ven sông, ven suối. -Quy mô trung bình (gồm các vùng đất ngập nước có diện tích từ 25-100ha) có tổng diện tích là 559,4ha. -Quy mô nhỏ (gồm các vùng đất ngập nước có diện tích từ 1 – 25ha) có tổng diện tích 997,25ha. -Quy mô rất nhỏ (gồm các vùng đất ngập nước có diện tích nhỏ hơn 1ha) có tổng diện tích là 54,37ha Bảng 3-Thống kê diện tích các đơn vị đất ngập nước của VQG Lò Gò-Xa Mát. Lớp Đơn vị ĐNN Diện tích (ha) Ghi chú 1. Đất ngập nước thuộc sông 1.1. Lòng sông 68,80 Dài 23km 1.2. Ven sông 610,45 2. Đất ngập nước thuộc suối. 2.1. Lòng suối 62.00 Dài 31km 2.2. Ven suối 669,88 3. Đất ngập nước thuộc trảng. 3.1. Trảng cỏ 716,95 3.2. Trảng cây gỗ 1.063,43 4. Đất ngập nước thuộc bàu 4. Bàu 103,16 5. Kênh đào 5. Kênh đào Không xác định Dài 29km 6. Ruộng lúa nước 6. Ruộng lúa 1.238,46 7. Đất ngập nước nhân tạo 7. Ao, hố bom Không xác định Tổng diện tích đất ngập nước tự nhiên. Thuộc sông Thuộc suối Thuộc trảng Thuộc bàu 3.294,67 679,25 731,88 1.780,38 103,16 Chiều dài sông suối 54km Tổng diện tích đất ngập nước nhân tạo. 1.238,46 Tổng toàn bộ 4.533,13 Ghi chú- Diện tích lòng suối được phỏng tính dựa trên chiều dài của suối. Độ rộng trung bình của suối sử dụng trong tính toán là 20km. Diện tích thực của đơn vị lòng suối có thể lớn hơn vì đây chỉ mới tính trên hai nhánh chính của hệ thông suối đa ha-xa mát. Chỉ tính chiều dài kênh tà xia ngang qua VQGLGXM, kênh mới đáo tại trảng tà nốt và các kênh khu vực trảng bà điếc. Ngoài ra, còn 60km đường bên trong vườn với các mương nước ở hai bên có chức năng tương tự như các kênh đào. Hình2 . Bản đồ đất ngập nước VQG Lò Gò- Xa Mát 3.5. Hệ thống phân loại đất ngập nước của Vườn quốc gia Lò Gò-Xa Mát.[1] Hệ thống đất ngập nước VQGLGXM được xây dựng dựa trên phương pháp đề nghị trong chương trình kiểm kê đất ngập nước Châu Aù- asian wetland inventory (finlayson et al.2002). Hệ thống bao gồm hai bậc là “lớp” và “đơn vị”. “lớp” được xác định dựa trên hai yếu tố là dạng địa mạo và thuỷ chế. “đơn vị” là sự phân nhỏ hơn của ‘lớp’, dựa trên 2 yếu tố là thảm thực vật và hình thức sử dụng. Kết quả, có 7 lớp và 10 đơn vị được xác định. (bảng 2) Các lớp đất ngập nước thuộc sông, đất ngập nước thuộc suối và kênh đào có cùng dạng địa mạo dòng chảy (channel). Các lớp đất ngập nước thuộc trảng và ruộng lúa nước thuộc dạng địa mạo phẳng(flat). Đất ngập nước thuộc bàu và bồn trũng nhân tạo có dạng địa mạo bồn trũng (basin). Trong lớp đất ngập nước thuộc sông có hai đơn vị là lòng suối và ven suối. Đất ngập nước thuộc trảng được chia làm 2 đơn vị là trảng cỏ và trảng cây gỗ. Các lớp đất ngập nước thuộc bàu, kênh đào, ruộng lúa và bồn trũng nhân tạo chỉ có một đơn vị. Bảng 4 : Hệ thống phân loại đất ngập nước vườn quốc gia Lò gò-Xa mát. Lớp (class) Đơn vị(unit) Đặc điểm 1. Đất ngập nước thuộc sông Địa mạo Thuỷ chế Thảm thực vật Sử dụng 1.1. Lòng sông Dòng chảy sông(river channel) Nước chảy, có nước quanh năm. Thực vật thuỷ sinh trôi nổi, thuỷ thực vật mọc ven bờ. Đất ngập nước tự nhiên. 1.2. Ven sông Thềm ven sông (river corridor), bao gồm một số dạng địa mạo như thềm sông, đê sông, trũng sau đê. Chảy trong mùa lũ, thời gian khác trong năm nước tĩnh. Nguồn cấp do sông là chủ yếu ngoài ra còn do mưa và nước ngầm. Cạn trong mùa khô. Rừng ven sông, thực vật dạng đầm lầy ở những nơi trũng. Đất ngập nước tự nhiên 2. Đất ngập nước thuộc suối. 2.1. Lòng suối Dòng chảy suối (stream channel) Nnước chảy, có nước quanh năm, một số nhánh suối cạn có thẻ bị khô một thời gian trong mùa khô Thực vật thuỷ sinh trôi nổi và thuỷ thực vật ven bờ. Đất ngập nước tự nhiên 2.2. Ven suối Thềm ven suối (stream corridor) Chảy trong mùa lũ, thời gian khác trong năm nước tĩnh. Nguồn cấp do nước từ suối là chủ yếu, ngoài ra còn do nước mưa và nước ngầm. Rừng ven suối, đầm lầy ven suối. Đất ngập nước tự nhiên. 3. Đất ngập nước thuộc trảng. 3.1. Trảng cỏ Phẳng (flat) Nước tĩnh. Nguồn do mưa là chủ yếu. Ngập một thời gian trong mùa mưa, không ngập trong mùa khô. Đồng cỏ Đất ngập nước tự nhiên. 3.2. Trảng cây gỗ Phẳng (flat) Nước tĩnh. Nguồn do mưa là chủ yếu. Ngập một thời gian trong mùa mưa, không ngập trong mùa khô. Rừng thưa, bụi rậm. Đất ngập nước tự nhiên. 4. Đất ngập nước thuộc bàu 4.Bàu Bồn trũng (basin) Nước tĩnh. Nguồn do mưa và nước ngầm. Ngập quanh năm, có thể có một thời gian khô ngắn. Thảm thực vật đầm lầy với những loài thuỷ sinh, chịu ngập. Đất ngập nước tự nhiên. 5. Kênh đào 5.Kênh đào Dòng chảy kênh đào (canal) Nước chảy. Dòng nước nhân tạo. Có nước gần như quanh năm. Có thể cạn một thời gian trong mùa khô trong những năm khô hạn, ít mưa. Thuỷ thực vật trôi nổi và mọc ven bờ. Đất ngập nước nhân tạo. Tưới tiêu, giao thông thuỷ. 6. Ruộng lúa 6. Ruộng lúa Phẳng(flat) Nước tĩnh. Ngập theo mùa. Lúa và một số hoa màu. Đất ngập nước nhân tạo. Canh tác nông nghiệp. 7. Đất ngập nước bồn trũng nhân tạo 7. Ao, hố bơm. Bồn trũng (basin) Nước tĩnh. Nguồn do mưa. Thuỷ thực vật nổi và ven bờ. Đất ngập nước nhân tạo. Chứa nước hoặc nuôi cá. 3.6. Tính chất của đất trong đất ngập nước Tính chất chẩn đoán Hydric Soil - Đất hữu cơ (vật liệu thực vật bị phân hủy - than bùn hoặc bả hữu cơ) - Lớp vật liệu hữu cơ trên mặt khá dày. - Có đặc tính gley (xuất hiện màu xám hoặc xám xanh), hoặc màu nên tối, có thể chứa các vết rĩ nâu đỏ... - Hiện diện của sulfide hoặc không. - Thoát nước kém hoặc úng nước thường xuyên. 3.7. Đặc điểm, tính chất và chức năng của hữu cơ trong đất ngập nước. 3.7.1. Đặc điểm, tính chất của hữu cơ. Đất chứa chất hữu cơ với số lượng và loại khác nhau, keo đất hữu cơ có ảnh hưởng lớn đến tính chất hoá học đất và có thể phân biệt đất không vật chất humic và đất humic. Chất humic là một loại acid có màu vàng đến đen và thường có trọng lượng phân tử lớn. Chúng được hình thành từ phản ứng tổng hợp thứ sinh liên quan đến vi sinh vật và có đặc tính không giống với bất kỳ trong cơ thể sống nào. Chúng có dãi thay đổi rộng về nhóm chức bao gồm: Carboxyl, phenolic hydroxyl, carbonyl, ester và có thể là nhóm quinone và methoxyl. Thành phần nguyên tố chủ yếu của Humus (trong tro) C: 44-53%, H: 3.6 - 5.4, N:1.8 - 3.6%, và O:40.2 - 47 %. Humus trong phòng thí nghiệm có thể chia làm 3 thành phần chính: Humin là chất mùn không hoà tan trong kiềm, Acid Humic có thể hoà tan trong kiềm nhưng không hòa tan trong acid và acid fulvic hòa tan cả trong kiềm và trong acid. Khả năng hấp phụ ion có thể sắp xếp như sau: Humin> Acid Humic > Acid Fulvic. 3.7.2. Cơ chế vận chuyển chất ô nhiễm. Những chất bị mất đi từ nước thải thông qua nhiều cơ chế: Quá trình trầm lắng, suy thoái sinh học, bị kết tủa và thực vật hấp thu Trong hệ thống đất ngập nước, kim loại nặng (KLN) có thể bị hấp phụ trong đất hoặc trầm tích, hoặc bị tạo phức với chất hữu cơ. Một sốù kim loại bị kết tủa khi hình thành các hợp chất sulfic hay carbonat hoặc bị lấy đi bởi thực vật. Những hợp chất trong trầm tích như Oxide sắt thể hiện tính ưu kim loại. Hành vi này có thể ảnh hưởng đủ để một kim loại bị hấp phụ trong đất ngập nước. Sau khi khả năng hấp phụ của hệ thống tiến đến bão hoà thì sự hình thành sulfide kim loại là phương thức chính lấy đi kim loại trong nước thải. Vi khuẩn khử sulfate oxy hoá chất hữu cơ và khử sulfate thành hydro sulfide. Hydro sulfide phản ứng với kim loại để hình thành sulfide kim loại kết tủa. So với trầm tích, thực vật không hấp thu nhiều kim loại nhưng chúng liên quan với quá trình oxy hoá và hoạt động sinh học, đây chính là động lực góp phần làm di chuyển KLN từ nước thải vào trong đất ngập nước. Những hợp chất hữu cơ có thể bị phân huỹ bởi vi sinh vật trong hệ thống đất ngập nước. Sự phân huỷ sinh học nầy làm phân rã các hợp chất hữu cơ. Chất hữu cơ cũng có thể bị phân huỹ trong quá trình thực vật hấp thu dinh dưỡng. Trong đất ngập nước Đạm hữu cơ bị biến đổi thành NH4+. NH4+ có thể bay hơi, trao đổi với những cation khác trong trầm tích hoặc nitrate hoá nếu trong môi trường có hiện diện của Oxy. Nitrate là dạng đạm mà thực vật dễ dàng hấp thu, vì thế thực vật nổi sử dụng chúng suốt trong mùa sinh trưởng. Nitrate thừa trong hệ thống kỵ khí bị khử thành khí N2 và N2O như là kết quả của quá trình khử N, đây là cơ chế chính của sự mất nitrate trong nước thải. Một số nước thải chứa Phosphore từ các sản phẩm tẩy rữa, từ nguồn nước thải nông nghiệp. Phosphore có thể hấp phụ trên bề mặt của vụn hữu cơ và bề mặt các keo hydroxide trong trầm tích. Chúng có thể kết tủa khi liên kết với kim loại để tách khỏi dung dịch trong điều kiện môi trường có pH hơi kiềm. Những Phosphate vô cơ hoà tan, được hấp thu bởi thực vật và được chuyển hoá thông qua chu trình sống và phân huỹ của thực vật. Phosphate bị mất đi từ nước thải thông qua sự cố kết với trầm tích, chúng hấp phụ vào bề mặt các keo mang điện tích dương. Những nghiên cứu cho thấy hầu hết thuốc trừ sâu có ái lựïc mạnh đối với bề mặt chất hữu cơ hơn là bề mặt chất khoáng, vì vậy chất hữu cơ và đặc biệt là trong phân tử mùn thể hiện vai trò chính trong nhiệm vụ thanh lọc (hấp phụ) thuốc trừ sâu trong đất. (Stevenson, 1982). 3.7.3. Vai trò chất hữu cơ trong đất-đất ngập nước: Chất hữu cơ của đất có ý nghĩa rất quan trọng đối với độ phì nhiêu của đất. Nó là nhuồn cung cấp: Dinh dưỡng cacbon, các nguyên tố dinh dưỡng khoáng, nhất là nitơ. Tạo nên keo đấùt góp phần tích luỹ và điều hoà chất dinh dưỡng trong đất. Tạo nên kết cấu cho đất để giải quyết mâu thuẫn giữa nước và không khí trong đất. Chế độ nước và nhiệt trong đất thích hợp cũng nhờ sự có mặt của chất hữu cơ. Ngoài ra các axit mùn còn là những chất kích thích sinh trưởng thực vật. Chất hữu cơ trong đất ngập nước đảm nhận vai trò là một chất nền, chất vật liệu sống cho môi trường đó: chất hữu cơ cung cấp nguồn năng lượng cho các loài thực vật, vi sinh vật, côn trùng nước, sinh vật nổi, động vật...Từ đó, hình thành nên chuỗi năng lượng trong môi trường sinh thái thông qua mạng lưới thức ăn. Và cũng chính hành vi này đã sản xuất ra sinh khối của hệ sinh thái. Vậy số lượng, hàm lượng, sự phân bố chất hữu cơ mang tính quyết định vùng đất ngập nước có giữ được các vai trò-chức năng của nó không. 3.8. Khí hậu, chế độ gió, thuỷ văn Theo số liệu của Đài khí tượng thuỷ văn Tây Ninh năm 1996. 3.7.1. Khí hậu - Nhiệt độ trung bình năm: 27,70C (130C – 39,30C). - Lượng mưa trung bình năm: 1.800mm (1.387 – 2.346mm). - Số ngày mưa bình quân năm: 116 ngày. - Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10: 85-90%. - Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng tư năm sau: 10-15%. - Lượng mưa bốc hơi bình quân năm: 1.489mm. - Aåm độ bình quân năm: 78,4%. 3.7.2. Chế độ gió - Gió Tây Nam trùng với mùa mưa với tốc độ bình quân: 1,8m/s. - Gió Đông Bắc trùng với mùa khô với tốc độ bình quân: 2,3m/s. 3.7.3. Thuỷ văn Sông suối: Hệ thống sông suối chảy qua VQG. - Sông Vàm Cỏ Đông: xuất phát nguồn từ Campuchia chảy qua phía Tây khu rừng và là ranh giới quốc gia Việt Nam-Campuchia. Đoạn chảy qua khu rừng dài khoảng 20km, lòng sông rộng 10-20m. sông có nước ngọt quanh năm nhưng không thuận tiện cho giao thông. - Suối Đa Ha: cũng xuất phát nguồn từ Campuchia chảy qua phía Đông Bắc theo hướng Tây Nam chảy vào khu trung tâm rồi hợp với các suối Mẹt Nu, Sa Nghe, Tà Nốt thành suối Xa Mát chảy ra sông Vàm Cỏ Đông. Suối có nước quanh năm, lòng suối nhỏ, chảy ngoằn nghoèo nên các phương tiện giao thông đường thuỷ không đi lại được. -Ngoài ra, còn có một số suối nhỏ nằm trong khu rừng như: suối Mẹt Nu (xuất phát từ trảng Tân Thanh, trảng Min Thui chảy vào suối Đa Ha, suối chỉ có nước vào mùa mưa), suối Sa Nghe (xuất phát từ bàu Quang, chảy về suối Đa Ha), suối Tà Nốt, suối Thị Hằng (các suối đều khô nước vào mùa khô). Mật độ sông suối trong vườn là 0,19km/km2, tương đối cao so với khu vực ngoài vườn. -Nước ngầm: Nước ngầm trong vườn khá phong phú và gần mặt đất, ở độ sâu 4-5m có thể cung nước sinh hoạt, và ở độ sâu > 20m cho nước phục vụ sản xuất (140-240m3/ngày. Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tây Ninh, nguồn nước ngầm có chất lượng nước tốt, phục vụ được cho sinh hoạt và sản xuất. -Đặc điểm mưa Nước do mưa, hay gọi chung là nước rơi (precipitation), là một trong những nguồn cấp quan trọng cho hầu hết các loại đất ngập nước. VQG LGXM nằm trong một khu vực có lượng mưa khá cao. Số liệu trung bình nhiều năm ghi nhận tại Trạm Dầu Tiếng (tọa độ 11o20’N, 106o20’E) cho thấy lượng mưa trung bình năm là 2177mm với 142 ngày có mưa (Phạm Ngọc Toàn & Phan Tất Đắc 1993). Lượng mưa này gần tương đương với những lượng mưa cao ở đồng bằng sông Cửu Long như ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng V đến tháng XI, tập trung nhiều nhất vào các tháng VIII, IX và X. 3.9. Các đơn vị địa mạo chủ yếu [1] 3.9.1. Thung lũng sông Vàm Cỏ Đông - Lòng sông Vách đứng, lòng sông sâu 2–5 mét cắt sâu vào trầm tích Pleistocene (phù sa cổ). Dòng chảy có độ uốn khúc cao. Trầm tích đáy là tảng lăn laterite (đá ong). - Thềm sông Phát triển không liên tục, địa hình bằng phẳng, ngập nước ngắn hạn theo mùa (các đợt lũ), thành phần trầm tích là bột cát. Phần rìa thềm cổ là nơi tích tụ cát trung–mịn, rửa trôi từ thểm cổ đưa tới. Nước ngầm trong mùa khô nằm khá sâu. - Trũng lòng sông cổ Đây là dấu vết sót lại khi dòng sông Vàm Cỏ Đông thay đổi dòng chảy, trên thực tế là các lung bàu hình dạng trăng khuyết. Địa hình trũng cục bộ (khoảng 0,5–1 mét so với bờ sông), phát triển không liên tục dọc hai bờ và cách ly với sông Vàm Cỏ, có thời gian ngập lâu. Nguồn nước là nước lũ và nước gom tụ từ các thềm cổ đưa tới. Thành phần trầm tích là sét bột, sét than bị gley, dưới sâu có thể gặp cuội sỏi thạch anh mài tròn tốt. Nước ngầm trong mùa khô nằm khá nông. 3.9.2. Suối Đa Ha – Xa Mát - Lòng suối Lòng suối hẹp, độ dốc lớn, nhấp nhô bởi tảng lăn (khối laterite), vách bờ dốc đứng, sâu khoảng 3–5m. Lòng suối dạng V hoặc U, độ uốn khúc cao. -Thềm suối thấp Bãi cạn phát triển không liên tục, địa hình lồi lõm, cao hơn lòng suối khoảng 1–2 mét, rộng 4-5 mét. Nơi hợp lưu với các suối nhánh thì bề rộng tăng lên 10–50 mét, ngập nước ngắn hạn theo mùa (các đợt lũ), thành phần trầm tích là cát, cát bột. Nước ngầm dao động theo mực nước suối. Vị trí cồn bãi thường không ổn định. - Thềm suối cao Bề mặt tương đối phẳng, rộng có thể tới vài chục mét, ngập hàng năm; sườn có độ dốc lớn và bị cắt xẻ bởi mương xói. Thành phần vật liệu là bột sét lẫn ít cát tạo thành lớp mỏng. Thường gặp tầng kết von laterit (đá ong) ở sâu hơn 1 mét ở các vị trí thoát nước trên thân sườn. 3.9.3. Trảng trên thềm cổ -Trảng : Địa hình dốc nghiêng nhẹ, thời gian ngập ngắn (theo đợt mưa), là nơi trung gian chuyển nước (nước mặt và nước lỗ rỗng) từ vùng địa hình gò cao về vùng bàu trũng hoặc thoát ra sông, suối. Quá trình tích tụ đang dần chiếm ưu thế với biểu hiện tích đọng mùn trên bề mặt. Thành phần trầm tích là cát bột chuyển sang bột sét giàu mùn ở phần trên mặt. -Trũng cạn trong trảng: Địa hình bằng phẳng là nơi trũng thấp tương đối, có thời gian ngập khá dài ngày, tích tụ vật liệu tại chỗ là chủ yếu, thành phần trầm tích là sét, sét bột giàu hữu cơ. - Bàu: Diện tích nhỏ dạng tròn, có khi hơi kéo dài, địa hình thấp trũng, 0,5–0,7 mét so với phần trảng ở xung quanh, có vách bờ dốc. Thời gian ngập hầu như liên tục suốt năm. Quá trình tích tụ vật liệu tại chỗ (hữu cơ) là chủ yếu. Thành phần trầm tích là sét bột, sét than. Quá trình gley

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan (CUOI CUNG).doc
  • docphuluc.doc
  • doctrangdau.doc
  • docBIA.DOC
Tài liệu liên quan