Đề tài Dân số và tài nguyên sinh vật

MỤC LỤC

 

I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH DÂN SỐ VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC 1

I.1. Tình hình dân số Thế giới .1

I.1. Tổng quan về tình hình dân số Việt Nam 2

I.3. Đa dạng sinh học ở Việt Nam .5

II. VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN SINH VẬT 9

II.1. Vai Trò của động thực vật hoang dã với con người 9

II.2 Tầm quan trọng của Rừng đối với con người 14

III. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ ĐẾN TÀI NGUYÊN SINH VẬT 18

III.1. Tác động của dân số đến tài nguyên thực vật 18

III.2. Tác động của dân số tới tài nguyên động vật. 22

IV. SUY THOÁI TÀI NGUYÊN SINH VẬT DO TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ 26

IV.1. Suy thoái tài nguyên động thực vật. 26

IV.1. Suy thoái tài nguyên rừng 28

V. GIẢI PHÁP VỀ DÂN SỐ VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT 30

V.1. Giải pháp về dân số. 30

V.2. Giải pháp bảo vệ tài nguyên sinh vật 30

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 3919 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dân số và tài nguyên sinh vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lượng thu hoạch trong sản xuất nông -lâm -ngư nghiệp. Nguyên liệu di truyền nằm trong các loài gây nuôi (bao gồm tất cả những thứ cây trồng, các nòi vật nuôi, các thủy hải sản) đều có quan hệ mật thiết với nguồn nguyên liệu di truyền của các loài sinh vật hoang dã, nguồn nguyên liệu nầy đã đóng vai trò chủ yếu trong việc cải tạo giống cây trồng và vật nuôi như nâng cao năng suất, chất lượng dinh dưỡng, mùi vị, tuổi thọ, sức đề kháng, sức chịu đựng và khả năng thích nghi với các điều kiện khí hậu, đất đai khác nhau. Nguồn nguyên liệu di truyền trong các loài hoang dã rất hiếm và gần như không bao giờ là vĩnh cữu. Những giống cổ truyền quí thường chỉ phân bố ở từng điạ phương, chính những đặc điểm hữu ích của nó như sản lượng cao hoặc sức đề kháng dịch bệnh của nó làm nền tảng tạo nên những giống mới tiến bộ hơn. Việc thay thế những giống cổ truyền bằng những giống mới trong sản suất là một việc làm cần thiết và tích cực bởi vì chúng ta cần nhiều lương thực - thực phẩm hơn nữa; nhưng điều đó sẽ trở thành nguy hại nếu như các giống cổ truyền có liên quan lại không được bảo vệ vì những loài dịch hại có khả năng tiến hoá nên có khả năng xâm nhiễm trở lại và chỉ có nguồn các giống cổ truyền mới có nguồn nguyên liệu di truyền có khả năng chống lại những loài gây hại và dịch bệnh. Cho nên việc bảo vệ tính đa dạng di truyền ở các loài hoang dã là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cho cả tương lai. d. Về sinh thái Ðộng vật và thực vật hoang dã là thành phần chủ yếu của hệ sinh thái và có vai trò rất quan trọng trong sự điều hòa các chu trình vật chất và năng lượng trong hệ sinh thái của quả đất. Trong hệ sinh thái, các thực vật hoang dã là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho các sinh vật trên đất liền và đại dương là mắt xích đầu tiên của chuổi - lưới thức ăn, cung cấp và duy trì sự cân bằng oxygen và các chất khí khác trong khí quyển, là màng lọc khói bụi và những độc chất làm cho không khí trong lành hơn, điều hòa khí hậu, dự trử và điều phối nước ngọt, duy trì và gia tăng độ phì nhiêu của đất, tái tạo nguồn chất dinh dưỡng trong sản phẩm nông nghiệp, kiểm soát dịch hại làm ảnh hưởng đến năng suất vật nuôi và cây trồng, là kho dự trử nguồn nguyên liệu di truyền khổng lồ có khả năng đáp ứng khi các điều kiện môi trường biến động, là nguồn dự trử năng lượng mặt trời dưới dạng hóa năng trong lương thực thực phẩm, trong gổ và năng lượng trong các nhiên liệu hóa thạch. Bởi vì hiện nay chúng ta biết rất ít về vai trò của các sinh vật hoang dã cũng như mối liên hệ phức tạp giữa chúng với các thành phần khác trong hệ sinh thái nên những việc làm của con người hiện nay sẽ gây những thiệt hại không lường hết được trong tương lai. Các vi sinh vật cố định nitơ thực hiện việc biến khí nitơ (N2) trong không khí thành hợp chất nitơ (NH3, ) cung cấp cho cây cối e. Về giải trí và du lịch Cuối cùng, động vật và thực vật hoang dã còn có ý nghiã quan trọng đối với việc giải trí và du lịch của con người sau thời gian làm việc mệt mỏi. Nhìn những chiếc lá vàng rơi, những con chim bay lượn trên bầu trời, những con cá heo lướt trên mặt nước, phảng phất đâu đây hương thơm của một loài hoa dại... con người sẽ có được những cảm giác tươi vui và thích thú, những cảm giác đó không thể mua được bằng tiền. Ở một số quốc gia thì tài nguyên sinh vật hoang dã đã đem lại một khoản lợi tức đáng kể từ du lịch; chẳng hạn như ở Kenya, du lịch chủ yếu dựa trên các loài động vật hoang dã là 1 trong 3 nguồn thu ngoại tệ chính của quốc gia nầy. Ở một số quốc gia phát triển, thì động vật hoang dã được sử dụng trong săn bắn thể thao là môn rất được ưa chuộng và được kiểm soát bởi luật pháp một cách chặt chẻ như ở Canada chỉ có 11% dân số mới có giấy phép đi săn và 13% có giấy phép đi câu; còn ở Thụy Ðiển con số nầy là 12% và 18%. Tuy nhiên cũng có một số đông người họ chỉ thích ngắm các sinh vật hoang dã mà thôi, theo thống kê thì ở Hoa Kỳ có 7 triệu người chuyên quan sát chim, 4,5 triệu người chuyên chụp ảnh các động vật hoang dã và 27 triệu người thích ngắm cảnh vật hoang dã của tự nhiên (Miller, 1988). II.2. Tầm quan trọng của Rừng đối với con người TOP Rừng là một hệ thống phức tạp bao gồm các yếu tố lý học, hóa học và sinh học tác động qua lại với nhau, là một tổng thể của khí hậu, đất đai, động vật, thực vật và vi sinh vật; đó là một siêu cơ thể tiến hóa tương đối chậm chạp, tham gia vào các chu trình C, O2, N2, H2O và của nhiều loại chất khoáng khác. Ngoài ra rừng còn có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, giữ nước chống xói mòn đất, chống lũ lụt, chống sa mạc hóa, chắn gió và bảo vệ mùa màng... a. Rừng với khí quyển Khí quyển và sự sống trên hành tinh là 1 thể thống nhất do những điều kiện cơ bản trong thành phần cấu tạo của nó. Thành phần khí trong khí quyển trên trái đất hầu như không thay đổi mặc dù chúng liên tục bị hấp thụ hoặc gắn vào các kết hợp hóa học trong các chu trình Sinh Ðịa Hóa của tự nhiên, đều có vai trò đóng góp của rừng. Vai trò quan trọng nhất của rừng đối với khí quyển là sự cung cấp oxy, oxy là nhân tố đặc biệt quan trọng cho sự tồn tại của sinh vật. Thành phần oxy trong không khí không đổi mặc dù oxy liên tục đi vào các phản ứng oxy hóa dưới nhiều dạng khác nhau như đảm bảo cho quá trình hô hấp của động vật và thực vật, sự biến đổi các hợp chất hữu cơ và tham gia hàng loạt các phản ứng hóa học trong tự nhiên.... Lượng oxy của khí quyển bị mất đi sẽ được hoàn trả lại bằng con đường quang hợp của cây xanh. Người ta tính rằng, hằng năm bằng con đường quang hợp, cây xanh đã tạo ra khoảng 1011 tấn chất hữu cơ và để thoát ra ngoài khí quyển một lượng oxy tự do tương đương như thế; trong số nầy cây rừng đảm đương phần lớn. Như vậy rừng là nhân tố chủ yếu tham gia vào việc giử cán cân oxy trong thành phần của khí quyển. Ngoài vai trò cung cấp oxy cho khí quyển, rừng còn là màng lọc không khí trong lành như cản khói bụi, hạn chế nhiều loại vi khuẩn và siêu vi khuẩn gây hại cho con người và các động vật. Ngoài ra rừng còn có vai trò quan trọng trong sự điều hòa khí hậu của quả đất. Vì vậy, rừng được xem là lá phổi xanh của quả đất b. Rừng đối với đất Rừng và đất có mối quan hệ mật thiết với nhau thể hiện bởi rừng tham gia vào quá trình hình thành và phát triển đất; ngược lại đất là cơ sở duy trì sự tồn tại và phát triển của rừng. Hệ thống đất-rừng đảm nhiệm chức năng quan trọng là yếu tố tối cần thiết cho sự sống của con người và các động vật khác. Rừng lấy chất dinh dưỡng từ đất để phát triển; các cành, lá rụng xuống sẽ được các vi sinh vật phân hủy thành mùn và mùn tiếp tục được khoáng hoá cho ra những chất dinh dưỡng mới cung cấp lại cho cây. Theo sự ước tính, dưới tán lá rừng thuần loại 5-6 tuổi, thì lượng cành, lá rụng hằng năm trung bình từ 5-10 tấn/ha tương đương với khoảng 80-90 kg N2, 8 kg P2O5 và 8 kg K2O (Nguyễn Văn Trương, 1989). Quá trình sinh học giữa đất và rừng là liên tục, đảm bảo cho độ phì nhiêu của đất và cho cả năng suất sinh học của rừng. Tuần hoàn sinh học trong hệ sinh thái rừng sẽ ở trạng thái cân bằng bền vững nếu như không có sự can thiệp của con người. Rừng phản ánh tính chất của đất: Tùy theo từng loại đất và điều kiện địa hình khác nhau sẽ hình thành nên những loại rừng khác nhau. Rừng ngập mặn ở vùng duyên hải có những loài cây khác hẳn với rừng đồi núi, mặc dù ở trong cùng một đai khí hậu nhiệt đới. Thí dụ: ở rừng ngập mặn chúng ta gặp các loài thực vật đặc trưng cho đất ngập mặn mà những thực vật nầy ta không gặp chúng ở vùng đồi núi... Từ bờ biển vào nội điạ, đất cao dần và độ mặn thấp dần nên các loài thực vật sinh trưởng trên những vùng đất đó cũng khác nhau: trên đất lầy ven biển là Mắm, những cây tiếp đến là Ðước, Vẹt vào sâu nữa là Cốc, Dà và trên đất khô là Chà là.... Những loài thực vật xác định tính chất của đất có thể xem là các thực vật chỉ thị. Rừng bảo vệ cho đất chống lại sự xói mòn: ở những nơi đất có độ dốc cao và lượng mưa lớn thì tốc độ xói mòn của mưa và của các dòng chảy trên mặt đất sẽ càng lớn. Vì vậy rừng có vai trò quan trọng trong sự bảo vệ lớp đất mặt chống lại sự xói mòn do nước và do gió, vì lớp cành và lá mục có thể giữ được nước; thân và rể cây có khả năng ngăn cản được phần nào tốc độ của dòng chảy, các tàng lá có khả năng chắn gió và phân tán các hạt nước mưa bảo vệ được lớp đất mặt tránh được sự tác động xói mòn khi hạt mưa rơi xuống..., như vậy rừng là cơ cấu hữu hiệu nhất giữ lại được lớp đất mặt vốn dể bị cuốn trôi. Do đó các hoạt động của con người như phá rừng để lấy gỗ, để lấy đất canh tác... là nguyên nhân làm cho đất bị xói mòn trở thành bạc màu và hoang hóa. c. Rừng đối với mùa màng Ðối với mùa màng, rừng có vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp đến năng suất của cây trồng và vật nuôi thể hiện ở các mặt sau: - Rừng có tác động che chắn gió, cường độ mưa rơi, cường độ dòng chảy... nên hạn chế xói mòn đất, bảo toàn được chất dinh dưỡng trong đất cung cấp cho cây trồng. - Rừng cung cấp chất dinh dưỡng cho đất làm tăng độ phì của đất giúp cho cây trồng phát triển. - Rừng giữ nhiệt độ cho tầng đất mặt và lớp khí quyển sát với tầng đất mặt, điều hòa tiểu khí hậu giúp cho cây trồng phát triển thuận lợi. - Rừng điều hòa nhiệt độ nên làm giảm sự thoát hơi nước của cây, sự bốc hơi nước của đất và giữ lại nước trong đất giúp cho sự hòa tan chất dinh dưỡng, nhờ đó mà rể cây hấp thụ được dể dàng. - Rừng ngăn chận được các luồng gió mạnh, chắn rét cho đàn gia súc, giúp cho cây trồng tránh được sự gãy đổ. - Rừng còn cung cấp chất đốt cho việc sấy hoa màu, lương thực, chế biến thực phẩm... d. Rừng cung cấp nguồn gen quý Trong thập kỷ 80, các nghiên cứu quốc tế về tài nguyên rừng cho thấy các tài nguyên động vật và thực vật quí của nhân loại phần lớn tập trung ở trong các rừng nhiệt đới (FAO, 1984), trong đó rừng nhiệt đới Châu Á có nhiều loại cây và con có giá trị quí giá nhất hay nói khác đi là rừng nhiệt đới là một ngân hàng tài nguyên gen to lớn và đa dạng. Từ các nghiên cứu đó, để nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông- lâm nghiệp, các nhà di truyền học đang tập trung nghiên cứu nguồn tài nguyên gen thực - động vật nhằm để phát hiện các gen quý, để bảo tồn và phát huy những đặc tính di truyền quí giá của chúng hướng chúng vào việc phục vụ lợi ích của con người. Hiện nay do nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia mà rừng càng ngày càng bị tàn phá nặng nề, nhất là các khu rừng nhiệt đới, nay đã đến mức báo động. Vì vậy để bảo tồn được nguồn gen quý hiếm nầy, trước tiên là phải kêu gọi các quốc gia có nguồn tài nguyên quí giá đó hãy vì lợi ích chung của cả nhân loại mà ra sức bảo vệ để nguồn gen quý giá đó sẽ trở thành vô giá. e. Các lợi ích khác của rừng Trong các phần trình bày ở trên cho ta thấy được vai trò chung của rừng trong một số mặt chủ yếu. Ngoài ra rừng còn có nhiều vai trò khác nữa trong cuộc sống của con người: - Rừng là nguồn cung cấp gỗ và các sản phẩm của gỗ: rừng cung cấp gổ được sử dụng làm vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí, là nguồn cung cấp các sản phẩm hóa học, cung cấp sợi dệt, làm bột giấy, lấy tinh dầu, nhựa cây, thuốc nhuộm...Theo số liệu của nhiều tài liệu cho thấy bình quân trên toàn thế giới có 45% lượng gổ khai thác được con người sử dụng làm chất đốt, 35%dùng cho xây dựng và trang trí, 12% sử dụng làm bột giấy và số còn lại được sử dụng cho nhiều nhu cầu khác của con người. - Rừng là nguồn cung cấp và điều hòa nguồn nước ngọt: ở những vùng có lượng mưa nhiều; vào mùa mưa, nước mưa được giử lại trong thảm lá mục và trong lớp đất tơi xốp rồi trực di xuống các tầng đất sâu hơn hình thành nên những mạch nước ngầm, nên ta có thể xem rừng là kho dự trử nước và điều phối nguồn nước ngọt cho nhu cầu sinh hoạt và các hoạt động nông nghiệp của con người vào mùa khô hạn. - Rừng là kho thực phẩm: Rừng là nơi cung cấp những loài thực vật và động vật có thể sử dụng làm nguồn lương thực và thực phẩm cho người. Theo số liệu thống kê cho biết có 62 quốc gia sử dụng 25% lượng prôtein từ các động vật trong rừng, 19 quốc gia sử dụng 50% lượng protein, Thái Lan: 51%, Philippin: 52%, Indonesia: 68%... và đặc biệt các nước như Ghana, Congo (Zaire) và nhiều nước ở Tây và Trung Phi sử dụng đến 75% lượng protein được lấy từ các động vật rừng. - Rừng có tác dụng chống sự bồi lấp : rừng giúp cho đất chống lại sự xói mòn, gián tiếp chống sự bồi lấp lòng sông, hồ, các công trình thủy điện và các công trình thủy lợi. - Rừng còn là kho thuốc vô giá: rừng có rất nhiều loài thực vật và động vật có dược tính được sử dụng làm thuốc phục vụ sức khỏe của con người. Hiện nay, rừng trên toàn thế giới bị con người tàn phá đã thu hẹp diện tích với một tốc độ rất nhanh nhất là các khu rừng nhiệt đới. Theo các chuyên gia và các nhà bảo vệ rừng cho biết hằng năm trên thế giới có khoảng 4,6 triệu ha rừng nhiệt đới bị phá hủy. Vì các lợi ích nêu trên và vì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người nên vấn đề đặt ra là mỗi người trong chúng ta phải có nhiệm vụ bảo vệ, duy trì và phát triển nguồn tài nguyên nầy. III. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ ĐẾN TÀI NGUYÊN SINH VẬT III.1. Tác động của dân số đến tài nguyên thực vật Thực vật nói chung và rừng nói riêng là 1 nguần tài nguyên quý giá. Nhưng ngày nay nguần tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, do nạn phá rừng nên hiện tượng mất rừng mất thảm thực vật ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn diện tích ha rừng đang bị thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái tài nguyên thực vật gây nên hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo đất đai tại nhiều địa phương. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách thức cho sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây ra lũ lụt, hạn hán gây khó khăn cho việc cung ứng nước cho nông lâm nghiệp, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực, đặc biệt làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng... Vậy bắt nguần từ những nguyên nhân nào mà nguần tài nguyên thực vật đang càng ngày bị suy thoái, và có 7 nguyên nhân tiêu biểu đóng vai trò chính làm giảm suy thoái tài nguyên thực vật và các nguyên nhân nêu trên đều bắt nguần trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự gia tăng dân số. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất Khai thác nguần lâm sản quá mức cho phép Cháy rừng Sức ép dân sô Ngèo đói Hậu quả của cuộc chiến tranh để lại Tập quán du canh du cư III.1.1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất Do sự gia tăng dân số dẫn đến nhu cầu sử dụng đất tăng lên. Việc mở rộng đất đai để xây dựng nhà ở và cho các hoạt động kinh tế, cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị đã làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Từ đó đòi hỏi phải mở rộng diện tích đất nông nghiệp bằng cách xâm lấn vào đất rừng Ngoài ra thì việc chăn thả gia súc với số lượng lớn cũng đòi hỏi phải có bãi chăn thả với diện tích đất lớn Phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ hải sản và hậu quả làm suy thoái rừng. Rừng ngập mặn đóng 1 vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Do vị trí chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền lên hệ sinh thái của rừng ngập mặn có tính đa dạng sinh học rất cao. Lượng mùn bã phong phú của rừng ngập mặn là nguần thức ăn cho nhiều loài. Đây là nơi nuôi dưỡng của nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm biển, cua, cá Bớp, Sò, Ngán, Ốc Hương, đặc biệt rừng ngập mặn là nơi làm tổ, kiếm ăn, nơi chú đông của nhiều loài chim nước, chim di cư trong đó có 1 số loài đang bị đe doạ tuyệt chủng. Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoạc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi suất khẩu nên rừng ngập măn Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng. III.1.2.Khai thác lâm sản quá mức cho phép Do dân số tăng nhanh lên nhu cầu về việc sử dụng các sản phẩm từ thực vật như: Gỗ, củi, thuốc... Ngày càng cao. Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên rừng. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến tài nguyên thực vật bị suy thoái 1 cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Với các mục đích khác nhau cho nên hoạt động khai thác nguần lâm sản ở đây được chia thành 3 hoạt động: Khai thác gỗ, khai thác củi, khai thác lâm sản ngoài gỗ. III.1.3. Cháy rừng Việc khai thác và sử dụng quá mức các sản phẩm từ tài nguyên thực vật như các hoạt động khai thác của con người: Đốt nương làm rẫy của người dân tộc miền núi, đốt lửa tìm mật ong, mật gấu hay dốt hương tìm mộ liệt sĩ trong chiến tranh...Những nguyên nhân này đều có thể khiến cho rừng bị cháy, làm suy giảm chất lượng số lượng tài nguyen thực vật 1 cách nhanh chóng, ngoài ra còn gây các hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán III.1.4 Sức ép dân số Tăng dân số nhanh là 1 trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa dạng sinh học, suy thoái môi trường, nguồn tài nguyên thực vật. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân số đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái nghiêm trọng về các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Khi chưa có sự xuất hiện của con người, rừng che phủ hầu hết đất đai của các lục địa trong lịch sử phát triển của loài người vào thời kì đồ đá cũ, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào rừng bằng các hoạt động săn bắn và hái lượm, các hoạt động này k gây thiệt hại gì cho rừng. Đến khi con người bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt thì con người có những hoạt động tác hại đến rừng, mặc dù các tác động này có phần nào hạn chế sự phát triển của rừng nhưng cũng chưa đáng kể lắm. Từ thế kỉ thứ 3 trước công nguyên trở về sau thì rừng mới thực sự bị con người tấn công khai phá. Sự tấn công khai phá rừng ngày càng được thấy rõ nét hơn, khi dân số đông dần lên, nông ngiệp ngày càng mở rộng đồng thời nghè luyện kim xuất hiện. Con người đốt rừng đề trồng tỉa, lấy gỗ để làm nhiên liệu, gỗ làm thuyền bè,....Cứ như thế rừng bị thu hẹp dần III.1.5. Nghèo đói Suy thoái môi trường nói chung và suy thoái tài nguyên thự vật có nhiều nguyên nhân trong đó 1 phần là do sự đói nghèo tác động nên. Đói nghèo luân đi đôi với sự khan hiếm tài nguyên sản xuất đã dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức làm tăng sự khan hiếm và suy thoái. Đói nghèo là 1 trong những hậu quả của việc gia tăng dân số quá nhanh, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Khi rừng ngày càng giảm về số lượng cây trồng và vật nuôi hay diên tích rừng bị thu hẹp đã dẫn đến hiện tượng hán hán lũ lụt, khả năng ngăn chặn xói mòn đất là rất kém. Cho nên mỗi lần có thiên tai chính những người nghèo tiếp tực gánh chịu tổn thất nặng nề hơn do phải sống gần rừng. Vốn dĩ họ đã ghèo nay lại càng nghèo hơn, sự nghèo đói luôn vây quanh cuộc sống của họ, dường như họ khó có thể thoát ra được cuộc sống tiếp tục phá rừng lấy gỗ, củi, đặc sản rừng bán để có thu nhập. III.1.6.Hậu quả của cuộc chiến tranh để lại Trong cuộc chiến tranh hoá học quân đội Hoa Kỳ đã rải khoảng hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống 1 diện tích khoảng 24,67% tổng diện tích lãnh thổ Việt Nam. Trong đó phần lớn là chất độc da cam. Với số lượng rất lớn chất độc hoá học đã rải lập đi lập lại nhiều lần trong 1 quãng thời gian dài với nồng độ cao chúng ngấm và dần phân huỷ trong đất, không những đã làm chết cây cối mà còn gây ô nhiễm môi trường trong 1 thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên. Những hậu quả tức thời và lâu dài của chất độc hoá học đối với tài nguyên và môi trường rừng là rất rõ ràng. Trong quá trình bị tác động, hàng trăm loài cây đã bị trút lá. Tán rừng bị phá vỡ, môi trường rừng bị thay đổi nhanh chóng, những loài cây của rừng thứ sinh như tre, nứa, các lại cây gỗ ưa ánh sáng mọc nhanh, kém giá trị kinh tế thì chúng xuất hiện và lấn áp cây gỗ bản địa. Nhiều khu rừng đã bị phá huỷ nặng nề do quy mô phá hoại rộng lớn và lập đi lập lại nhièu lần, kéo dài trong nhiều năm, kèm theo các tác động khác của bom đạn... hậu quả là cây rừng bị chết đi, các loài cây cỏ dại, lau lách xâm lấn và đến nay rừng vẫ chưa được phục hồi. III.1.7 Tập quán du canh du cư Du canh du cư là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời của nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam mà thường xuất hiện tại các vùng đồi núi và cao nguyên Vào mùa khô và thường là cuối mùa đông người dân thường vào sâu trong rừng tìm 1 khoảnh đất rừng phù hợp, đốt cháy mảnh diện tích đủ rộng theo ý muốn. và đến đầu mùa mưa người ta đi tra hạt hoặc ươm sắn. Thông thường chỉ sau 3 đến 4 mùa rẫy, do nước mưa rửa trôi và xói mòn mặt khác lại không được bổ sung các chất dinh dưỡng nên đất rẫy sẽ nghèo dinh dưỡng, cây trồng phát triẻn kém. Lúc này người dân sẽ bỏ rẫy cũ, tìm đến 1 khoảnh rừng mới và lại đốt rừng thành rẫy. Và đây chính là tập quán du canh du cư, là 1 tập tục cũ, lạc hậu, năng suất cây trồng thấp, cuộc sống người dân bấp bênh gây thoái hoá đất, mất rừng. Cùng với sự gia tăng dân số, kèm theo sự hiểu biết ít của mình thì tập quán du canh du cư cũng là 1 nguyeen nhân trực tiếp gây nên hiện tượng suy thoái rừng là giảm sự đâ dạng của tài nguyên thực vật. III.2. Tác động của dân số tới tài nguyên động vật. Hoạt động đầu tiên của con người gây nên sự tuyệt chủng là việc tiêu diệt các loài thú lớn tại Châu Úc, Bắc và Nam Mỹ cách đây hàng ngàn năm khi bắt đầu chế độ thực dân tại những châu lục này. Trong 1 thời gian rất ngắn, sau khi con người khai phá những vùng đất này đã có từ 74% đến 86% các loài động vật lớn ( có trọng lượng cơ thể trên 44kg) ở đây bị tuyệt chủng mà 1 trong những nguyên nhân trực tiếp là do việc săn bắt và gián tiếp do việc đốt phá rừng. Theo thống kê khoảng 85 loài thú và 113 loài chim đã bị tuyệt chủng từ năm 1600, tương ứng 2,1% các loài thú và 1,3% các loài chim. Tốc độ tuyệt chủng đối với các loài thú và chim là khoảng 1 loài trong 10 năm tại thời điểm từ 1600 – 1700, nhưng tốc độ này tăng dần lên đến 1 loài/năm vào thời gian từ 1850 – 1950. Rất nhiều loài về nguyên tắc vẫ chưa bị tuyệt chủng nhưng đang tiếp tục là đối tượng săn bắt của con người và chỉ còn tồn tại với 1 số lượng rất ít như tê giác, hổ... Ở Việt Nam. Nguy cơ đối với các loài cá nước ngọt và động vật thân mềm cũng đáng lo ngại. Sự tuyệt chủng của chúng đáng ra chỉ là 1 quá trình tự nhiên, nhưng 99% số loài bị tuyệt chủng chủ yếu do con người gây ra. Loài có thể bị tiêu diệt do 1 loạt các ảnh hưởng và tác động của con người. Có thể chia thành 2 loại chính: Trực tiếp( săn bắn, hái lượm, thuần hoá) và gián tiếp (phá huỷ và biến đổi nơi cư chú ). III.2.1. Tác động trực tiếp của tăng dân số tới động vật hoang dã Dân số tăng nhanh cộng với sự phát triển của xã hội đã làm cho nhu cầu của con người về thực phẩm và dược liệu càng tăng cao, dẫn đến tình trạng săn bắt động, thực vật hoang dã ngày càng diễn ra với quy mô lớn. Săn bắn quá mức là 1 trong những nguyên nhân trực tiếp rõ ràng nhất gây nên sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật, và ảnh hưởng đến 1 số loài thú lớn. Tiêu dùng động thực vật hoang dã là không bền vững và là mối đe doạ trực tiếp, tạo nguy cơ tuyệt chủng cấp địa phương và toàn cầu đối với nhiều loài. Động vật hoang dã bị buân bán làm thức ăn, làm thuốc chữa bệnh truyền thống, vật kỉ niệm trang trí trong nhà, vật nuôi vật thờ cúng... Với sự tăng trưởng của dân số thì nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên tăng lên cao hơn bao giờ hết. Năm 2002 buôn bán động vật hoang dã nội địa và qua Việt Nam tăng lên 3050 tấn, giá trị khoảng 66 triệu USD. Thế nhưng cũng tại Việt Nam đã có 356 loài động vật và 356 loài thực vật trong danh sách đỏ thì có nguy cơ bị tiệt chủng do săn bắn và phá rừng huỷ hoại sinh cảnh. Tuy nhiên trong toàn bộ sự suy giảm đa dạng sinh học, chắc chắn nguyên nhân này không quan trọng bằng các nguyên nhân gián tiếp như phá huỷ và biến đổi nơi cư trú. Săn bắn chỉ ảnh hưởng chọn lọc với các loài đang là nguồn tài nguyên có thể thu hoạch được, điều này rất quan trọng đối với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. III.2.2 Tác động gián tiếp của gia tăng dân số đến động vật hoang dã a. Mất nơi cư chú Nguy cơ lớn nhất của gia tăng dân số đến động vật hoang dã là việc làm mất các nới cư trú. Các nới cư trú đặc biệt đang bị đe doạ huỷ hoại là các khu rừng mưa, rừng khô nhiệt đới, các vùng đất ngập nước ở tất cả các vùng khí hậu, các vùng đồng cỏ ôn đới, rừng ngập mặn, và các giải san hô. Diện tích trái đất giữ nguyên nhưng số dân thì tăng gấp nhiều lần. Dân số tăng nhanh làm cho các chính phủ và môi trường không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của con người cụ thể từ năm 1950 – 1993, diện tích canh tác theo đầu người đã giảm từ 0,23 ha xuống 0,13 ha. Muốn tồn tại, con người buộc phải phá rừng để mở rộng diện tích canh tác và chăn nuôi gia súc. Ở Việt Nam diện tích đất nông nghiệp đã tăng từ 6,7 triệu ha năm 1990 tới 9,4 triệu ha vào năm 2002. Việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp đã tác động tới sự đa dạng sinh học. Các khu vực đất ngập nước và các vùng đồng cỏ mọc theo mùa cũng bị đe doạ bởi tình trạng chuyển đồi lấy đất trồng lúa. Bên cạnh đó thì các hoạt động của c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình dân số và tài nguyên sinh vật trên thế giới và ở Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan