Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Lời mở đầu 1

Nội dung

Chương I: Hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam 2

1. Khái quát chung về nghiệp vụ thị trường mở 2

1.1 .Khái niệm 3

1.2 . Nguyên lý thực hiện nghiệp vụ thị trường mở 3

2. Nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều hành chính sách tiền tệ của

 Ngân hàng Nhà nước Việt nam 7

3. Kinh nghiệm của một số nước trên Thế giới khi áp dụng nghiệp vụ thị 10 trường mở

Chương II: Thực trạng hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở và giải pháp 13

1. Thực trạng hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam trong thời gian qua 13

1.1. Đánh giá tình hình hoạt động của NVTTM 13 1.2. Những kết quả đạt được sau 3 năm triển khai áp dụng NVTTM tại

 Việt Nam 15

2. Những tồn tại và hạn chế trong việc thực hiện NVTTM hiện nay tại

Việt Nam. 17

3. Giải pháp và nâng cao hiệu quả hoạt động NVTTM ở nước ta 20

3.1. Làm thế nào để khắc phục tồn tại. 20

3.2. Những giải pháp cụ thể 22 Kết luận 25

Tài liệu tham khảo 26

 

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng chứng khoán cho các ngân hàng hoặc cho công chúng thì cơ số tiền tệ lập tức giảm đi 100 tỷ đồng tương ứng. Ví dụ như NHTW bán cho một cá nhân 100 tỷ đồng chứng khoán thanh toán bằng tiền mặt. Tài khoản chữ T của khách hàng như sau: Khách hàng________ Chứng khoán + 100 Tiền mặt - 100 Tại NHTW giảm đi 100 tỷ đồng chứng khoán đã bán cho khách hàng, đồng thời cũng giảm đi 100 tỷ đồng tài sản do khách hàng rút tiền mặt để thanh toán chứng khoán của NHTW Tài khoản chữ T là: ___ Ngân hàng trung ương__________ Chứng khoán – 100 Tiền mặt lưu hành - 100 Tóm lại việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua hoạt động NHTW mua vào bán ra các loại chứng khoán( tín phiếu, trái phiếu kho bạc) có tác động mạnh tới thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) từ đó gây nên tác động dây chuyền tới một loạt biến số kinh tế như lãi suất, đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp, GNP... Các số liệu về dự trữ tự do trong các ngân hàng có thể là dấu hiệu khá chính xác về tình hình trên thị trường tiền tệ (dự trữ tự do là phần chênh lệch giữa dự trữ vượt mức của các NHTM với các khoản vay chiết khấu mà các NHTM vay từ NHTW). Dự trữ tự do phản ánh tính sẵn có của các khoản vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh mức độ rộng rãi hoặc hạn chế của việc cung cấp vốn cho nền kinh tế của các NHTM. Do vậy dự trữ tự do có thể được sử dụng như là một mục tiêu hoạt động của NHTW. Theo đó, chiến lược thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ bao gồm các bước sau: Hàng tuần thực hiện Nghiệp vụ TTM à Tình hình thị trường tiền tệ à Dự trữ tự do à Hàng tháng Hàng tháng Hàng quý Tổng dự trữ Của các NHTM à Lượng tiền cung ứng à GNP Vậy chính nhờ phát hiện ra nghiệp vụ thị trường mở với tính năng tác dụng của nó mà NHTW chọn cơ số tiền tệ làm chỉ tiêu kiểm soát lượng tiền cung ứng. 2. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đối với việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam: Với vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, NHNN tổ chức các hoạt động của mình nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các Tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm của NHNN trong việc thực hiện chính sách tiền tệ là xây dựng dự án chính sách tiền tệ Quốc gia, xây dựng và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành kế hoạch cung ứng lượng tiền cho lưu thông theo tín hiệu thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng được phê duyệt. Khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHNN thường phải đứng trước các mục tiêu tổng thể chung là: mức công ăn việc làm cao (thường tương ứng với một mức tăng trưởng kinh tế), ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống tài chính, ổn định thị trường ngoại hối... Một số giải pháp được được sáng tạo, hoàn thiện dần trong quá trình phát triển của hệ thống NHTW và được thừa nhận như những công cụ điều hành sắc bén hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên khối lượng tiền tệ, phạm vi tín dụng và mặt bằng lãi suất. Xuất phát điểm để tiếp cận khi áp dụng các giải pháp này là: làm thế nào để đạt được một khối lượng tiền tệ nhất định cho phép thay đổi cầu tiền tệ hiệu ứng dẫn tới thay đổi lãi suất; hoặc đạt được một mức lãi suất bằng cách cung tiền tệ hiệu ứng dẫn tới thay đổi cầu tiền tệ: Cầu tiền tệ Lãi suất Khối lượng tiền tệ Cung tiền tệ Lãi suất Cầu tiền tệ Với cách tiếp cận trên, đòi hỏi nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc giải pháp thích hợp khi áp dụng. Mặc dù vậy, hầu hết các NHTW đều lần lượt trải qua nhiều giải pháp, rồi quy tựu về một vài giải pháp chủ yếu như NVTTM; chính sách chiết khấu; mức dự trữ bắt buộc...Trong quá trình áp dụng các công cụ nói trên (trừ NVTTM ), NHNN đã từng bước xây dựng và hoàn thiện chúng. Sau một quá trình chuẩn bị, ngày 12 tháng 7 năm 2000 NHNN đã chính thức khai trương NVTTM. Đây là một bược tiến trong quá trình đổi mới điều hành chính sách tiền tệ theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ điều hành gián tiếp. Cho đến nay, NVTTM đã được thực hiện an toàn, đúng qui định theo định kỳ một tuần một lần vào một ngày cố định trong tuần. Tuy tác động của NVTTM đến những điều kiện của thị trường tiền tệ chưa đáng kể nhưng việc điều hành NVTTM của NHNN đã phù họp với mục tiêu chính sách tiền tệ, bám sát diễn biến của nền kinh tế thị trường và phần nào điều chỉnh vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng, thu hút khi thừa vốn và bơm thêm khi thiếu vốn. Cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thời gian qua công cụ NVTTM đã được sử dụng tương đối linh hoạt, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của công cụ NVTTM đối với việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Việc mua bán giấy tờ có giá giữa NHNN với các chủ thể có liên quan tại NVTTM nhằm tác động trực tiếp tới lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới lãi suất thị trường vốn ngắn hạn. Để thực sự phát huy hiệu quả của NVTTM thì thị trường tiền tệ cần phải có những yếu tố kỹ thuật cần thiết như : số lượng và chất lượng giấy tờ có giá, các thành viên tham gia thị trường phải có đủ điều kiện và cơ sở vật chất kỹ thuật lẫn trình độ quản lý vốn khả dụng, am hiểu kỹ thuật thị trường mở; cơ chế và kỹ thuật giao dịch; sự phối hợp giữa công cụ của chính sách tiền tệ, giữa các thị trường và tổ chức có liên quan. Trong thời gian qua đã có sự phối kết hợp giữa các công cụ, các thị trường đã tạo điều kiện tốt cho việc triển khai và thực hiện NVTTM. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc phát hành qua NHNN là nơi tạo ra hơn 80% khối lượng giấy tờ có giá được giao dịch tại NHNN. Thị trường này đã được NHNN triển khai từ năm 1995 nên cho đến nay hoạt động đã thường xuyên đều đặn. Thị trường nội tệ liên Ngân hàng được NHNN tổ chức từ năm 1994 đến nay đã qua nhiều giai đoạn điều chỉnh từ giao dịch trực tiếp tại NHNN và đến nay là hoạt động tự do của các ngân hàng. Tuy nhiên, thông qua các công cụ khác, NHNN đã giám sát và khích lệ hoạt động của NVTTM. Và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng được triển khai từ năm 1996 và duy trì hoạt động cho đến nay với hình thức giao dịch trực tiếp với NHNN. Tuy nhiên, phương thức giao dịch đã được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, điều kiện Việt nam. Ngoài ra, NHNN tiếp cận NVTTM bằng một trong hai hướng: Thứ nhất là: Dự báo cho thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHNN ngay lập tức mua hoặc bán chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn( mua bán hẳn). Thứ hai là: nếu dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ, hoặc các yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng lên dự trữ dự báo cần thiết phải rút bớt, hay bù đắp trạng thái dự trữ, hoặc tổng quan về dự trữ trong thời gian tới là thiếu ổn định, thì NHNN trực tiếp thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các hợp đồng mua lại đối với các trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời, và bằng các giao dịch bán- mua đảo ngược- muốn giảm dự trữ tạm thời. Có thể khẳng định rằng, hầu hết các NHTW các nước nói chung, NHNN Việt nam nói riêng đều đề cao NVTTM như một công cụ đầu bảng trong hệ thống các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. 3. Kinh nghiêm của một số nước trên Thế giới khi áp dụng công cụ NVTTM: ở Hàn Quốc: Việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ của Hàn Quốc: Vào những năm 1980, nghiệp vụ thị trường mở ở nước này chưa được coi là công cụ của chính sách tiền tệ. Sự kém phát triển đó là do NHTW thiếu các công cụ tài chính để giao dịch trên thị trường. Lúc đầu, thị trường chỉ giao dịch với 3 công cụ gồm: chứng khoán chính phủ, chứng khoán được chính phủ bảo đảm và chứng khoán có thể chuyển nhượng do NHTW phát hành gọi là trái phiếu ổn định tiền tệ (MSBs). Càng về sau, trong điều kiện Chính phủ phụ thuộc vào các khoản vay của NHTW để trang trải cho thâm hụt ngân sách hơn là phát hành chứng khoán Chính phủ, NHTW không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc mua bán trên thị trường mở trái phiếu ổn định tiền tệ do chính mình phát hành để bù đắp thâm hụt ngân sách. Đây là giao dịch bất đắc dĩ, cuối cùng các tín hiệu thị trường mở bị bóp méo trở thành “ thị trường đóng”. Gần đây NHTW và Chính phủ Hàn Quốc đã cố gắng tạo ra một môi trường thuận lợi cho thị trường mở hoạt động theo đúng nghĩa thông thường của nó. Thâm hụt ngân sách được bù đắp thông qua phát hành công trái Chính phủ thay vì sự vay NHTW trước đây. Việc thay đổi này đã làm tăng khối lượng phương tiện thanh toán, góp phần đưa thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả. ở Mỹ: Một số nước khác có thị trường tài chính phát triển, thị trường đối với chứng khoán Chính phủ thoả mãn các điều kiện đòi hỏi của NVTTM. NHTW các nước này thực hiện phần lớn các NVTTM thông qua thị trường này. Chẳng hạn như ở Mỹ, thị trường chứng khoán Chính phủ có doanh số giao dịch bình quân tới 100 tỷ đô la/ ngày, đây là khả năng giao dịch ở mức độ rộng và mạnh nhất thị trường tài chính nước Mỹ, có thể đảm đương một khối lượng đăng ký giao dịch rất lớn với tất cả các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng, các doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi giới ... bằng điện thoại và các dịch vụ mạng cáp kết nối giữa các giao dịch viên và các khách hàng trên toàn nước Mỹ. Dưới đây, số liệu của Cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ cho ta thấy chứng khoán loại nào được mua bán trên thị trường mở ? Đó là tín phiếu kho bạc có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, thời hạn bình quân theo danh mục của liên bang là 3 năm đối với các trái phiếu kho bạc và 5 năm đối với tất cả các chứng khoán kho bạc khác đang được sử dụng để buôn bán. Các chứng khoán kho bạc trên 10 năm cũng được sử dụng để giao dịch vì các chứng khoán này có tính thanh khoản cao trên thị trường vốn, được lưu giữ ở dự trữ liên bang, ở các ngân hàng, trong các hộ gia đình và ở nước ngoài, nói cách khác chúng đáp ứng được các điều kiện đòi hỏi của thị trường mở. Số dư tài khoản chứng khoán trên thị trường mở (Đơn vị: tỷ USD) Thời hạn Chứng khoán kho bạc CK các cơ quan liên bang Tổng số Dưới 1 năm` 209,5 1,8 211,3 Từ 1- 5 năm 83,7 1,8 85,5 Từ 5- 10 năm 25,3 0,6 25,9 Hơn 10 năm 33,1 0,0 33,1 Tổng cộng 351,6 4,2 355,8 Giá trị giao dịch trên thị trường mở Cục dự trữ liên bang Mỹ (Đơn vị: tỷ USD) Hình thức giao dịch 1990 1991 1992 1993 Mua hẳn 25,2 31,4 34,1 36,9 Bán hẳn 7,6 1 1,6 0 Hợp đồng mua lại 189,9 508,7 533,3 627,6 Bán- mua đảo ngược 48,3 75,3 28,6 10,9 Chương II. Thực trạng hoạt động của thị trường mở và những giải pháp 1.Thực trạng hoạt động của NVTTM tại Việt nam trong thời gian qua: Đánh giá tình hình hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở : Sau một thời gian nghiên cứu kinh nghiệm Quốc tế, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, cách đây hơn ba năm, ngày 12/7/2000, Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Việc thực hiện nghiệp vụ này đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong việc điều hành chính tiền tệ của NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ Quốc tế. Trong năm 2000, NHNN chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất, chỉ duy nhất có 4 phiên giao dịch đầu tiên là áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng. Trong thời gian này, lãi suất đăng ký giao động thấp nhất ở mức 4,00%/ năm đến mức cao nhất 5,58%/ năm. Nhìn chung lãi suất này đã phản ánh được diễn biến tình hình lãi suất của thị trường trong thời gian đó. NHNN đã tiến hành bán tín phiếu NHNN để hút vốn khả dụng dư thừa, đồng thời từ đó có thể tạo thêm hàng hoá cho hoạt động của NVTTM và cũng giúp các Ngân hàng có điều kiện để tập dượt tham gia đầy đủ các hình thức giao dịch của NVTTM ( cụ thể tháng 8/2000 trong 3 phiên giao dịch, NHNN đã bán được hẳn 550 tỷ đồng, đạt kết quả 100% cuối tháng 2 và đầu tháng 3 năm 2001 tiến hành liên tục 4 phiên giao dịch với hình thức bán hẳn với tổng khối lượng là 470 tỷ đồng). Từ tháng 7/2000 đến tháng 12/2001, NHNN đã tổ chức được 64 phiên đấu thầu NVTTM, với tổng doanh số giao dịch là 5.636 tỷ đồng; trong đó có 24 phiên trực hiện đấu thầu lãi suất, 40 phiên thực hiện đấu thầu khối lượng. Nếu tính riêng năm 2001, NHNN đã tổ chức được 48 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng vốn chính thức giao dịch mua bán là 3.833,81 tỷ đồng, bán hẳn 470,0 tỷ đồng, bán có kỳ hạn 150 tỷ đồng và mua hẳn 60 tỷ đồng. Trong năm 2002, bàng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường mở, với tổng khối lương giao dịch 9.145,53 tỷ đồng, bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế, hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo điều kiện cho các NHTM tham gia có hiệu quả thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể thông qua 57 phiên giao dịch theo phương thức mua có kỳ hạn, NHNN đã cung ứng 7.245,53 tỷ đồng vốn cho NHTM. Thông qua 28 phiên giao dịch theo phương htức bán hẳn, NHNN đã thu hút về 1.900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân khi mua vào là 4,9%/năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7%/ năm. Tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay của các NHTM đối với các doanh nghiệp và khách hàng. Trong năm 2003, bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, tính đến ngày 16-12-2003, NHNN đã tổ chức được 102 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng, trong đó khối lượng giấy tờ có giá NHNN mua hẳn ước tính là 9.500 tỷ đồng, bán hẳn là 7.240 tỷ đồng. Tức là thông qua thị trường này trong năm 2003, NHNN đã cung ứng gần 8.000 tỷ đồng cho các NHTM; tăng đáng kể so với năm 2002 và năm 2001,... Xu hướng đó một mặt NVTTM thực sự có hiệu quả trong việc tác động vào vốn khả dụng của NHNN, chủ động thu hút tiền về hoặc bơm tiền ra lưu thông trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường; mặt khác cũng chứng tỏ thị trường mở hấp dẫn đối với các NHTM. Tác động tích cực làm giảm nhiệt trên thị trường tiền tệ. Lãi suất trên thị trường mở trong thời gian qua giảm dần phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ và lãi suất ngắn hạn trong nền kinh tế. Lãi suất trên thị trường mở cũng giảm dần phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ trong suốt cả năm 2003, phản ánh sát lãi suất trong nền kinh tế. Thông qua phương thức xét thầu riêng lẻ, trong phiên giao dịch tháng 1/ 2003 lãi suất trúng thầu xoay quanh mức 4,8%- 5%/ năm, tháng 2/2003 xoay quanh mức 4,6%- 4,8%/ năm thì các phiên giao dịch trong tháng 11/2003 lãi suất trúng thầu của thị trường mở giảm xuống chỉ còn 2,3%- 2,7%/ năm. Trong nửa đầu tháng 12/2003 thì tăng lên, đạt mức 3,5%-3,8%/ năm trong phiên giao dịch thứ 102 ngày 16/12/2003. Điều đó chứng tỏ các NHTM đang linh hoạt sử dụng vốn khả dụng của mình. Đây cũng là cơ sở để cho lãi suất huy động vốn có kỳ hạn ngắn giảm xuống mức thấp. Đồng thời thực tế vận hành nghiêp vụ thị trường mở trong năm 2003 tiếp tục khẳng định, từ tháng 6/2002 khi chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt nam, thì cùng với lãi suất đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ Swap giữa NHNN và TCTD, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất NVTTM đã có tác động tích cực vào lãi suất của các TCTD giao dịch với khách hàng. Các loại giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường mở trong năm 2003 đều có thời hạn ngắn. Giao dịch trong quý I thời hạn còn lại của giấy tờ có giá là từ 15 ngày đến 60 ngày, quý II là từ 15 ngày đến 91 ngày, từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 7 phần lớn là 91 ngày, từ cuối tháng 7 đến tháng 12/2003 là 30 ngày đến 60 ngày. Luật NHNN Việt nam sửa đổi được kỳ họp Quốc hội thông qua ngày 16-6-2003 vừa qua, đã cho phép các loại giấy tờ có giá dài hạn còn thời hạn ngắn được giao dịch trên thị trường tiền tệ. Theo quy định của nội dung sửa đổi, bổ sung Luật NHNN vừa được công bố thì thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu Kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia. Ngoài ra việc mua bán ngắn hạn là việc mua bán có kỳ hạn không quá một năm các giấy tờ có giá; trong đó bao gồm cả các loại giấy tờ có giá có thời hạn trên một năm nhưng còn thời hạn thanh toán dưới một năm được phép giao dịch mua bán trên thị trường mở với NHNN. Đây là một dạng của thị trường tiền tệ mà thông qua đó NHNN tác động vào tình hình vốn khả dụng của các NHTM, tác động vào lãi suất trong nền kinh tế, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Trong năm 2003, các NHTM đầu tư khối lượng vốn khá lớn, ước tính khoảng gần 7.000 tỷ đồng vào các loại giấy tờ có giá có thời hạn trên một năm, đó là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu dầu khí, công trái giáo dục và khoảng trên 15.000 tỷ đồng tín phiếu Kho bạc có thời hạn dưới một năm. Do đó tới đây, khối lượng và tổng giá trị giấy tờ có giá ngắn hạn và còn thời hạn ngắn có điều kiện giao dịch tren thị trường mở là rất lớn. Tóm lại là trong thời gian qua NVTTM đã thể hiện bằng hoạt động tích cực của mình đối với công việc thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia của Nhà nước. 1.2. Những kết quả đạt được sau 3 năm triển khai NVTTM tại Việt nam: Qua hơn ba năm triển khai thực hiện, NVTTM đã hoạt động ổn định có thể khẳng địnhNHNN đã thu được thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằm tác động tới vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng. Đến nay đã có 22 Tổ chức tín dụng được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở, tăng thêm 4 thành viên so với khi mới thành lập; trong đó có 4 Ngân hàng Thương mại Nhà nước, 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 1 Ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụng Trung ương. Quy mô doanh số hoạt động của thị trường mở ngày càng tăng thể hiện sự sự phát triển triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này, được thể hiện cụ thể ở bảng số liệu sau: Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 6 tháng cuối năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 102 phiên 2003 (đến16.12.03) Tổng cộng 1. Doanh số hoạt động 1.903,5 3.933,8 9.145,53 16.740* 31.722,83 - NHNN mua 1.353,5 3.313,8 7.245,53 9.500* 21.412,83 - NHNN bán 550 620 1.900 7.240 10.310 2. Số phiên giao dịch 17 48 85 102 252 (* Số liệu ước tính) Ngân hàng Nhà nước đã đưa vào sử dụng thành công một công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ và đã dần củng cố thêm vị trí quản lý của mình trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay và trong quan hệ quốc tế, đã đạt được những kết quả bước đầu khá khích lệ như: - Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần tác động vào vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng từ đó góp phần thực hiện các nghiệp vụ mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra, ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động của hệ thống Ngân hàng. - Bằng cách “ bơm tiền” ra lưu thông qua nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần thúc đẩy sản suất, nâng cao sức mua của xã hội và thực hiện đúng mục tiêu kích cầu của Chính phủ trong điều kiện nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát trong thời gian qua. - Các văn bản pháp lý cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với thực tiễn của Việt nam. Việc lắp đạt các trang thiết bị, thiết kế chương trình phần mềm phục vụ cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện khẩn trương, có hiệu quả và đạt được kết quả tốt, từ đó tạo điều kiện cho các giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở diễn ra trôi chảy, đảm bảo đúng quy chế, quy trình và an toàn. - Công tác điều hành, tổ chức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở luôn thực hiện đúng quy định, và đã dần bám sát được tình hình diễn biến thị trường về vốn khả dụng và lãi suất. Mặc dù là một công cụ điều hành chính sách hoàn toàn mới ở Việt nam nhưng NVTTM đã thu hút được khá đông đảo các thành viên tham gia. Thông qua việc tham gia NVTTM các thành viên đã sử dụng nguồn vốn của mình một cách có hiệu quả và linh hoạt hơn trong điều kiện thực tiễn của nền kinh tế. Doanh số hoạt động của NVTTM không ngừng tăng lên, thể hiện tính ưu việt của thị trường này trong việc sử dung nguồn vốn của các Tổ chức tín dụng. Như vậy qua một thời gian hoạt động, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN luôn tỏ ra là một công cụ có hiệu quả cao trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. 2. Những tồn tại và hạn chế trong việc thực hiện NVTTM hiện nay tại Việt nam: Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp nghiệp vụ thị trường mở tương đối linh hoạt, đã đáp ứng được phần nào đó nhu cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết được một phần lượng vốn khả dụng dư thừa trong một số thời kỳ. Các công cụ và hình thức thực hiện cũng đã được áp dụng, tương đối thành công như: đấu thầu lãi suất, đấu thầu khối lượng, xét khối lượng đấu thầu theo phương pháp tính lãi suất riêng lẻ v.v... Tuy nhiên, do còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trình độ cán bộ, sự đơn sơ của thị trường tài chính cũng như khối lượng giấy tờ có giá do các thành viên nắm giữ... nên tác động can thiệp của Ngân hàng Nhà nước thông qua NVTTM vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể, có những vấn đề khó khăn và còn tồn tại như sau: Hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động. Thể hiện là số lượng thành viên tham ra thị trường còn quá ít, cụ thể trong mỗi phiên giao dịch NVTTM chỉ có từ 1 đến 4 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ tương đối thấp(15%) so với tổng số các thành viên tham gia NVTTM và chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số Tổ chức tín dụng. Các thành viên tham gia chủ yếu là các Ngân hàng Thương mại Nhà nước (do lượng hàng hoá chủ yếu đều tập trung vào các Ngân hàng này, họ nắm giữ tới hơn 70% Tín phiếu kho bạc và Tín phiếu Nhà nước). Còn các Tổ chức tín dụng khác nhìn chung không đủ điều kiện cạnh tranh tại các phiên đấu thầu trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Do vậy trong các phiên giao dịch của thị trường mở gần đây hầu như không có một Ngân hàng Thương mại cổ phần nào tham gia. Về hàng hoá trên thị trường mở còn nghèo nàn, cũng chỉ mới có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán trên thị trường, song cho đến nay chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước được mua bán. Tín phiếu NHNN được mua bán nhiều nhất với số lượng 1.070 tỷ/1448,500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc Nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Vì những giấy tờ có giá này chỉ tập trung vào Tổ chức tín dụng có quy mô lớn nên đã hạn chế tác dụng của công cụ này. Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc Nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi.Thêm nữa thời gian giao dịch mỗi tuần một phiên và thời gian thanh toán hiện tại vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của các Tổ chức tín dụng trong việc điều hoà vốn của mình. Có thể lấy dẫn chứng cụ thể như sau: tính đến cuối tháng 8 năm 2001 NHNN đã thực hiện 41 phiên đấu thầu NVTTM với doanh số 4.313,3 tỷ đồng. Lượng vốn giao dịch thông qua thị trường như vậy còn nhỏ bé và chưa có tác động tích cực tới lượng tiền cung ứng. Là do chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (vì nghiệp vụ này mới chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000) mà điển hình là sự thiếu hụt tiền mặt VNĐ trong hệ thống Ngân hàng Thương mại trong thời gian trước đây. Đó là tháng 7 năm 2000, một loạt các Ngân hàng Thương mại đã lâm vào tình trạng thiếu hụt VNĐ dẫn đến tâm lý lo ngại VNĐ mất giá khiến cho người gửi tiền vào Ngân hàng không muốn gửi bằng VNĐ, các Ngân hàng cũng lúng túng do không thể huy động đủ vốn VNĐ để phục vụ nhu cầu cho vay bằng VNĐ. Trong khi đó thì Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có biện pháp tích cực gì để giải quyết mà chỉ dùng biện pháp cung ứng tiền ra lưu thông qua các kênh mua ngoại tệ, thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu nhưng số tiền cung ứng thêm này không nhiều hơn số tiền thu về nên tổng lượng tiền đưa vào lưu thông không tăng. Để giải quyết sự khan hiếm tiền mặt VNĐ, NHNN đã cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP). Thực chất của nghiệp vụ này này là việc NHNN cho các NHTM vay bằng VNĐ mà đảm bảo tiền vay là các lượng ngoại tệ (USD) có giá trị tương ứng. Nhưng lãi suất từ việc vay vốn này lại khá cao, lãi suất đối với hợp đồng vay SWAP là 1 tháng( 30 ngày) là khoảng 1% cao hơn lãi suất huy động từ những nguồn khác. Cộng với tình hình tỷ giá hối đoái biến động trong thời gian qua thì việc sử dụng nghiệp vụ này chưa thực sự là biện pháp có hiệu quả. Thêm vào đó, nhu cầu giữ tiền mặt để đầu tư vào kinh doanh bất động sản cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự rút vốn bằng VNĐ ra khỏi hệ thống Ngân hàng và số tiền này nằm thụ động trong lưu thông. Hoạt động NVTTM là một hoạt động hoàn toàn mới nên một số Tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều bỡ ngỡ và chưa có nhiều kinh nghiệm khi tham gia giao dịch. NVTTM ra đời trong điều kiện nền kinh tế còn đang ở trình độ phát triển thấp và chưa ổn định, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ chưa phát triển, môi trường hoạt động của các Tổ chức tín dụng còn chứa đựng nhiều rủi ro. Bê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0841.doc
Tài liệu liên quan