Đề tài Đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về nâng cao năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên môi trường và thúc đẩy quyền trẻ em và phụ nữ

Tình hình kinh tế: Thôn định cư được thành lập vào năm 1985, nằm giữa địa bàn thôn Lương Viện và Viễn Trình. Thôn có 150 hộ, trong đó có 48 hộ nghèo và hiện tại vẫn còn 07 hộ đang sống trên đò. Trên thực tế, khu định cư đã có khung cấp hành chính nhưng chưa được công nhận là thôn. Trong 150 hộ thì có 20 hộ là tham gia nuôi trồng, còn lại là đánh bắt thuỷ sản. Tính chất của công việc khiến cho người dân thôn định cư có nhiều thay đổi khác xa so với cuộc sống trên cạn của các vùng ngư nghiệp khác. Hầu hết các hộ đều làm nghề đánh bắt, và nuôi trồng. Nhiều hộ gia đình còn làm thêm các nghề phụ như thợ nề, làm công nhân và nhiều người đi làm ăn xa trên các vùng của cả nước. Nguồn vốn tự nhiên của các hộ dân, ngoài đầm phá ra còn có một ít diện tích đất canh tác nhỏ trong vườn không đáng kể để sản xuất một số cây rau màu. Thu nhập từ trên đầm phá vẫn là chính và quanh năm suốt tháng người dân chuyển đổi ngư cụ trên đầm để đánh bắt phù hợp sinh vật và con nước.

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về nâng cao năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên môi trường và thúc đẩy quyền trẻ em và phụ nữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản trở, dòng chảy không thông thoáng. Lượng rác này tù động lâu ngày, khi phân huỷ cũng góp phần làm cho nguồn nước bị ô nhiễm, có màu khác thường và có mùi hôi. Một yếu tố quan trọng nữa góp phần làm cản trở dòng chảy đó chính là việc bố trí các ngư cụ cố định trên đầm phá chưa hợp lý. Khoảng cách giữa các trộ nghề như nò sáo, đáy, lồng cá chưa đảm bảo về độ thông thoáng cho dòng chảy. Có những nơi nò sáo đan khít nhau, khiến cho phương tiện giao thông thuỷ đi lại khó khăn. Một số vùng có các lồng nuôi cá cắm sát bờ, tạo điều kiện cho rác tù đọng thêm, giữa các lồng không có khoảng cách khiến cho dòng nước không lưu thông, dễ gây nên bệnh tật cho cá, khi có bệnh lại dễ lây lan. Vấn đề này đã xảy ra trong thời gian dài, được đề cập nhiều nhưng vẫn chưa giải quyết được triệt để do một số địa phương chưa quy hoạch vùng đánh bắt, một số vùng quy hoạch nhưng chưa hợp lý khiến cho người dân chưa tuân theo. Từ phía chính quyền và các cơ quan chức năng cấp tỉnh đã có một số quy chế và chính sách để xử lý tình trạng này nhưng đến nay vẫn chưa thực thi được do chưa có đủ nguồn lực về con người và kinh phí để thực hiện. Mặt khác một số bộ phận dân cư vì sinh kế và điều kiện kinh tế nên chưa chịu di dời theo các quy chế, quy hoạch của chính quyền đưa ra. Ngoài ra nguồn nước đầm phá còn chịu thêm một số tác động khác. Đó là nguồn nước thải từ các sinh hoạt cư dân, các khu chợ ven sông, đầm, các cơ sở sản xuất chế biến. Quan trọng hơn là một số cơ sở chế biến thuỷ sản gần đó đổ trực tiếp nước thải ra sông, đầm phá không qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn do chi phí cao, làm giảm lợi nhuận. Mặt khác các cơ quan chức năng chưa đủ nhân lực và trách nhiệm để giám sát việc thực thi các quy định về môi trường. Vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan chặc chẽ với việc tài nguyên đầm phá bị cạn kiệt, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Tuy nhiên, việc quản lý tài nguyên nhằm tạo ra sinh kế bền vững cho người dân hiện nay chưa đạt hiệu quả. Vấn đề ở chổ phương pháp và cơ chế quản lý tài nguyên chưa hợp lý. Quản lý tài nguyên liên quan đến vai trò chính quyền các cấp lẫn cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài các chính sách quản lý tài nguyên đầm phá đều có những điểm không hợp lý cả trong quá trình xây dựng lẫn thực thi. Quá trình đề ra chính sách thiếu sự tham gia của cộng đồng, quá trình thực thi chính sách chưa hiệu quả và triệt để. Nguồn lực thực hiện quản lý tài nguyên, bao gồm con người, kinh phí lẫn trang thiết bị còn hạn hẹp. Các quy hoạch, chiến lược phục vụ quản lý tài nguyên về lâu dài thiếu tầm nhìn. Có nhiều yếu tố dẫn đến việc người dân không được tham gia trong quá trình hình thành chính sách. Một mặt chính quyền chưa coi trọng vai trò của người dân mặt khác người dân chưa có thói quen và biết được vai trò của mình. Ngoài ra, tổ chức đoàn hội đại diện cho người dân, cụ thể là các hội nghề cá, chưa phát huy được vai trò của mình do chưa tổ chức chặt chẽ, năng lực còn kém, chưa được chính quyền quan tâm đúng mức, hoạt động chưa hiệu quả. Các hội nghề cá vốn là tập hợp các thành viên/các hộ có các hoạt động đánh bắt, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản tại các địa phương, trong đó vùng đầm phá được chú trọng hơn cả. Do đặc thù như vậy nên các hội có những khó khăn nhất định. Một khó khăn chung nhất là trước đây cư dân đánh bắt không có nơi ở ổn định nên ít được học hành, dẫn đến trình độ học vấn thấp, từ đó khó có thể tìm ra được người điều hành tốt. Bên cạnh đó, người dân đầm phá vốn quen lênh đênh sông nước nên nếp sống tự do, ít có thói quen sinh hoạt đoàn hội, khiến họ ít có cơ hội được tiếp cận thông tin nói chung và các chính sách quản lý tài nguyên đầm phá nói riêng cũng như ít có cơ hội trình bày những nguyện vọng về nghề nghiệp đến chính quyền địa phương, vậy nên chi hội chưa có tiếng nói đủ mạnh và khó tổ chức các hoạt động tập thể khác. 2.2. Dự án có hợp phần thúc đẩy quyền và tăng năng lực cho phụ nữ và trẻ em Ngoài việc chịu ảnh hưởng chung của môi trường đầm phá ô nhiễm và nguồn tài nguyên cạn kiệt, phụ nữ và trẻ em ở khu vực đầm phá còn phải đối mặt với sự bất bình đẳng. Vị thế của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội thấp hơn so với nam giới. Mặc dù tỷ lệ hai giới trong lực lượng lao động ngang nhau, nhưng nghề nghiệp khác nhau. Theo Cục thống kê lao động thì phụ nữ có phạm vi công việc tương đối nhỏ chẳng hạn như bủa lưới, làm thuê, buôn bán hoặc ở nhà chăm sóc con cái. Trong khi đó nam giới có thể tham gia vào nhiều công việc khác nhau, những công việc mà nam giới thường làm cho thu nhập cao hơn so với nữ giới. Chính vì thế nam giới thường có khuynh hướng làm những nghề nghiệp có khả năng nâng cao vị thế của họ trong gia đình, đồng thời nghề nghiệp và thu nhập cho phép họ có quyền lực hơn trong gia đinh. Trong khi đó phụ nữ chủ yếu làm những công việc mang lại thu nhập thấp nên chưa có vị thế xứng đáng trong gia đình. Do vậy, công việc ngoài xã hội xưa nay do nam giới đảm nhận, vì thế công việc nội trợ - chăm sóc nhà cửa, con cái được xác định là công việc của phái nữ. Sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động sản xuất vẫn chưa mang lại thay đổi tích cực về vai trò, trách nhiệm của họ trong gia đình. Ngoài ra, trình độ học vấn của phụ nữ thường thấp hơn nam giới. Tỷ lệ phụ nữ ở nơi đây biết đọc và viết rất thấp. Chính điều này đã làm cho tiếng nói và vị thế của họ trong gia đình cũng như trong cộng đồng chưa cao. Hầu như không ai lắng nghe tiếng nói của họ và ý kiến của họ thường được xem là thứ yếu. Chính vì vậy, phụ nữ ít được quyền kiểm soát và ra quyết định các vấn đề trong gia đình và xã hội, đặc biệt những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và sức khỏe của họ. Có nhiều nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng giới. Nguyên nhân thứ nhất trực tiếp là trình độ học vấn của phụ nữ thấp hơn nam giới. Điều này cũng xuất phát từ những định kiến xã hội dành cho phụ nữ. Những định kiến này thường do phong tục tập quán. Xã hội đã quy định giáo dục, trường lớp là nơi dành riêng cho nam giới, còn bếp núc là nơi dành riêng cho phụ nữ. Ngoài những định kiến xã hội thì nơi ở trước đây của họ cũng đã có những ảnh hưởng nhất định. Trước đây, họ sống trên thuyền, cuộc sống nay đây mai đó. Chính yếu tố này dẫn đến họ không có điều kiện để đến trường. Theo khảo sát gần đây của chúng tôi thì phụ nữ trong độ tuổi từ 40 đến 50 đều không biết đọc và viết (chiếm 86,67%) số người học ở bậc tiểu học (chiếm 20%) và một số ít là cấp II (2,67%). Nguyên nhân thứ hai là phạm vi giao tiếp hẹp của phụ nữ đối với xã hội bên ngoài. Điều này đã khiến phụ nữ thiếu thông tin và thường e ngại trước mặt người khác. Hầu hết những cuộc họp ở cộng đồng hay buổi tập huấn đều do nam giới đảm đương. Phụ nữ chỉ ở nhà và có được thông tin thông qua người chồng. Chính yếu tố này dẫn đến, nam giới nghĩ rằng mình luôn vượt trội hơn nữ giới. Qua phân tích nguyên nhân dẫn đến phụ nữ có phạm vi giao tiếp không rộng là: Họ không nhận được sự giúp đỡ, động viên từ gia đình đặc biệt là người chồng. Hầu như những buổi tập huấn, họp thôn người chồng luôn là người tham gia Thiếu tự tin vào bản thân là một cản trở lớn, trình độ học vấn không cao, thiếu cơ hội tham gia vào các hoạt động ở cộng đồng. Gánh nặng công việc gia đình chiếm một khoảng thời gian lớn của phụ nữ. Cam chịu gần như là một trong những bản tính của phụ nữ khiến họ không mạnh mẽ, không giám nói lên suy nghĩ. Nó xuất phát từ quan sát về mẹ và bà nội ngoại. Họ chưa hề có ý nghĩ cãi lại chồng hay không theo ý chồng dù họ hài lòng hay không. Trẻ em thất học và bỏ học sớm cũng đang là vấn đề bức xúc của nhân dân vùng đầm phá. Thực trạng trên ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội của huyện nói riêng và toàn tỉnh nói chung. Một số em sau khi bỏ học đi lang thang, trộm cắp gây mất trật tự trị an thậm chí bị lạm dụng và bóc lột sức lao động. Có nhiều nguyên nhân nhưng đáng kể nhất là do gia đình đông con, thiếu môi trường học tập và bản thân các em thiếu ý thức về việc học. Trên thực tế, gia đình đông con dẫn tới việc cha mẹ chỉ chú tâm lo đến vấn đề kinh tế, kiếm đủ cái ăn cái mặc mà không quan tâm nhiều đến việc học hành của con cái. Một bộ phận trẻ em đầm phá thường tranh thủ thời gian nghỉ hè, nghỉ tết đến các thành phố lớn để bán vé số, bán hoa hay làm phụ thợ may cho các xưởng tư nhân kiếm tiền giúp đỡ bố mẹ. Một số khác, thường giúp đỡ bố mẹ các công việc gỡ lưới tầm 3 - 6 giờ sáng; nên khi đến trường học rất mệt mỏi, khó tiếp thu bài vở hay hoàn thành tốt bài tập. Chính vì vậy, khiến tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi từ 11-15 nghỉ học càng nhiều. Bố mẹ thiếu sự quan tâm, động viên con cái học hành, thậm chí còn chấp nhận để các em lao động kiếm tiền sớm đã dẫn đến ý thức về việc học của các em dần dần bị mai một. Cụ thể là, ở gia đình, các em không có sự hướng dẫn và định hướng đúng đắn của cha mẹ khiến các em có những suy nghĩ lệch lạc, cho rằng việc kiếm tiền trước mắt quan trọng hơn việc “dùi mài kinh sử”. Từ đó, các em lơ là việc học, không theo kịp bài vở ở lớp, chán nản rồi bỏ học. Rõ ràng, gia đình chưa thật sự tạo ra một môi trường học tập tốt cho trẻ em. Bố mẹ một mặt do trình độ thấp, mặt khác lại thiếu trách nhiệm giáo dục ý thức về việc học tập cho con cái, mọi thứ ‘khoán trắng’ cho nhà trường, kết quả là các em hầu như không có ý chí phấn đấu, xem việc học như nghĩa vụ chứ không phải là mục tiêu phấn đấu cho tương lai bản thân. Thêm vào đó, nhiều em bỏ học do thiếu ý thức học tập. Trẻ em trong độ tuổi từ 12-15 thường bắt đầu có những chuyển biến khá rõ về mặt tâm lý, bắt đầu biết làm dáng và quan tâm nhiều đến giới tính, bạn bè. Hơn nữa, việc tiếp xúc nhiều với thế giới/phương tịên giải trí ngày càng phong phú bên ngoài khiến các em cảm thấy việc học trở nên nặng nề và không còn ý nghĩa. Internet và những trò chơi điện tử mới mẻ, những người bạn có tiền để chưng diện cộng với tâm sinh lý dậy thì cũng là nguyên nhân khiến các em đua đòi, muốn kiếm tiền để được như bạn bè mình, và bỏ học như là hệ quả tất yếu. 2.3. Mảng hoạt động dành cho phụ nữ TT HOẠT ĐỘNG KẾT QUẢ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI 1 Tập huấn về giới và vai trò giới - Tổ chức ở thôn Cự Lại Bắc xã Phú Hải và thôn Định Cư Lương Viện xã Phú Đa với 3 lần tập huấn, mỗi xã gần 30 người tham gia trong đó có 15 nam và 15 nữ ở Định Cư Lương Viện 1 lần, riêng ở phú Hải tổ chức 2 lần tập huấn trên cùng một nội dung, sỡ dĩ như vậy do ở đây thời gian của người dân phải đi làm cả ngày nhưng trên hết là do trình độ văn hóa thấp (Đa phần người tham gia tập huấn không biết chữ, chiếm 60%). - Đến cuối đợt tập huấn, người dân cả 2 thôn có được kiến thức cơ bản về giới và vai trò giới. Tuy nhiên trình độ văn hóa ở thôn Định Cư Lương Viện cao hơn, thành phần tham gia đều là người trong hội viên của mảng nghề cá, mảng trẻ em, phụ nữ và một số người dân nên tiếp nhận thông tin tốt hơn. Còn ở thôn Cự lại Bắc do thời gian cũng như trình độ còn hạn chế nên phải se nhỏ nội dung với nhiều thời gian hơn. - Nhìn chung hiệu quả từ tập huấn đốí với bà con là rất tốt, họ đã hiểu được công việc của nhau từ đó thấy được vai trò, trách nhiệm của mỗi giới. Thông qua hoạt động tập huấn, mỗi giới hiệu, thông cảm, chia sẻ và tôn trọng nhau hơn. - Hoạt động tập huấn có ý nghĩa, tác động rất lớn tới nhận thức, hành vi và ứng xử của cộng động, của mỗi giới.Lâu nay đàn ông cứ nghĩ phụ nữ chẳng làm được việc gì, họ cho rằng việc nhà, nuôi con, chăm sóc gia đình là thiên chức của người vợ nên họ xem nhẹ vai trò của phụ nữ. - Nhưng từ ngày được tham gia lớp tập huấn họ dần dần hiểu rõ hơn về công viêc, vai trò của người vợ trong gia đình. Từ đó người chồng giảm tính gia trưởng, tôn trọng ,yêu thương vợ và tạo điều kiện cho chị em tham gia các hoạt động xã hội - Đối với chị em phụ nữ, hoạt động tập huấn không chỉ là nâng cao nhận thức mà là nơi để chị em được giải tỏa tinh thần, mệt mỏi sau những ngày lao động vất vả (hoạt động tập huấn lồng ghép với tổ chức trò chơi, văn hóa, văn nghệ) nhưng ý nghĩa hơn cả chị em hiểu được giá trị của bản thân, thấy được vai trò, vị trí của mình trong gia đình. Để từ đó tự tin tham gia vào các hoạt động của gia đình, cộng đồng và xã hội 2 Phân biệt đối xử giới - Tổ chức tập huấn ở thôn Định Cư Lương Viên tại xã Phú Đa với 30 người tham gia trong đó có 15 nam và 15 nữ. - Thông qua hoạt động tập huấn bà con nhận thức được những suy nghĩ, quan niệm, lời nói hay hành vi lâu nay rất đỗi vô tư của bản thân mình đã gây nên tình trạng phân biệt đối xử giới (chủ yếu là nam giới phân biệt với phụ nữ, cha mẹ phân biệt đối xử giữa con trai và con gái) Từ đó họ hiểu rằng mọi sự phân biệt đối xử đều làm phương hại, gây cản trợ đến những người thân yêu. - Có thể nói quan niệm phân biệt đối xử giới có tính chất truyền thống của người việt nam (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô) nên để thay đổi nó cần có thời gian và liên tục. - Nội dung phân biệt đối xử giới được tập huấn ở một cộng đồng thiệt thòi - cộng đồng vạn đò tái định cư mà dễ tổn thương nhất là phụ nữ và trẻ em gái nên ý nghĩa của nó vô cùng to lớn. - Thông qua tập huấn giúp bà con nhất là nam giới biết chia sẻ, quan tâm, chăm sóc và tôn trọng phụ nữ hơn - Đặc biệt ý nghĩa là cộng đồng nhận thức được phải tạo điều kiện và cơ hội như nhau để mọi người trong cộng đồng, nhất là phụ nữ và em gái để cùng nhau phát triển. 3. Họat động TKTD Kết thúc dự án SFIC- Dự án đã chuyển giao cho BQL quỹ tiết kiệm 3 xã Vinh Phú, Vinh Hà, Phú Diên chịu trách nhiệm quản lý - BQL quỹ TKTD tại 3 xã đã hòan tòan chủ động trong việc xét quay vòng vốn, nâng vốn vay từ 1.000.000/ người lên 1.500.000, 2.000.000 thậm chí là 3.000.000/ người thông qua sự tham gia đóng góp ý kiến của cộng đồng dân cư đối với các thành viên tham gia trả lãi và góp tiết kiệm tốt. - BQL quỹ đã rất linh hoạt trong việc giải ngân tiết kiệm kịp thời và đúng thời điểm cho bà con. Điều này đã thu hút nhiều bà con tự nguyện tham gia đóng tiết kiệm, và nâng số tiền đóng tiết kiệm từ 1000 đ/ người lên 2000 đ/ người. - Khi đánh giá về sự quản lý của BQL quỹ tại cộng đồng, Ban lãnh đạo các xã đều đánh giá rất cao năng lực của các thành viên trong BQL quỹ; - Trong thời gian qua số lượt thành viên được quay vòng vốn vay là 360 lượt thành viên. - Cụ thể trong năm 2009, quỹ TKTD Vinh Hà giải ngân thêm cho 68 lượt thành viên, Vinh Phú giải ngân thêm cho 25 lượt thành viên và Phú Diên là 10 luợt thành viên vay vốn. Tổng quan địa bàn nghiên cứu Xã Phú Đa có diện tích tự nhiên là 29,90km2, và dân số là 10.744 người. Nền kinh tế dựa vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Trong đó, nông nghiệp chủ yếu là sản xuất lúa với diện tích canh tác lúa đông xuân: 1251,7 ha, diện tích canh tác lúa hè thu: 456 ha, còn diện tích đất gieo trồng cây hoa màu là: 101,8 ha. Một số diện tích gieo trồng chưa chủ động được nước tưới. Hoạt động ngư nghiệp chủ yếu là nuôi trồng thuỷ sản và khai thác thuỷ sản trên đầm phá, không có hộ nào đi đánh bắt biển. Toàn xã có 8 thôn, trong đó có 03 thôn ngư nghiệp với 01 thôn là dân cư thuỷ diện định cư. Đây là bộ phận dân cư chính đang có hoạt động khai thác thuỷ sản trên đầm phá. Sản lượng thuỷ sản của toàn xã trong 6 tháng đầu năm 2008 ước tính là 55 tấn, đạt 45,8% kế hoạch cả năm, giảm 10 tấn so với cùng kỳ năm trước. Với diện tích đầm phá gần 2900km2, hiện tại ngư dân ở đây chủ yếu chỉ đánh bắt bằng các ngư cụ di động như: nghề đáy lừ và lưới, còn ngư cụ cố định thì rất ít, chỉ có 02 trộ sáo. Trên địa bàn xã có 01 thôn định cư được thành lập vào năm 1985, nằm giữa địa bàn thôn Lương Viện và Viễn Trình. Thôn có 150 hộ, trong đó có 48 hộ nghèo và hiện tại vẫn còn 07 hộ đang sống trên đò. Trên thực tế, khu định cư đã có khung cấp hành chính nhưng chưa được công nhận là thôn. Trong 150 hộ thì có 20 hộ là tham gia nuôi trồng, còn lại là đánh bắt thuỷ sản. Chi hội phụ nữ thôn đã được thành lập và có nhiều hoạt động bổ ích. Trong thời gian qua, chi hội đã tham gia những hoạt động phong trào như: đóng góp hội phí, quỹ hội, tự nguyện giúp đỡ những chị em gặp khó khăn, ngoài ra chi hội cũng còn là nơi để triển khai chủ trương từ xã như: quỹ tiết kiệm, bình đẳng giới, kế hoạch hoá gia đình, các phong trào thi đua, vay vốn xoá đói giảm nghèo... CHƯƠNG II KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Thực trạng đời sống của các hộ dân thôn định cư Lương Viện Tình hình kinh tế: Thôn định cư được thành lập vào năm 1985, nằm giữa địa bàn thôn Lương Viện và Viễn Trình. Thôn có 150 hộ, trong đó có 48 hộ nghèo và hiện tại vẫn còn 07 hộ đang sống trên đò. Trên thực tế, khu định cư đã có khung cấp hành chính nhưng chưa được công nhận là thôn. Trong 150 hộ thì có 20 hộ là tham gia nuôi trồng, còn lại là đánh bắt thuỷ sản. Tính chất của công việc khiến cho người dân thôn định cư có nhiều thay đổi khác xa so với cuộc sống trên cạn của các vùng ngư nghiệp khác. Hầu hết các hộ đều làm nghề đánh bắt, và nuôi trồng. Nhiều hộ gia đình còn làm thêm các nghề phụ như thợ nề, làm công nhân và nhiều người đi làm ăn xa trên các vùng của cả nước. Nguồn vốn tự nhiên của các hộ dân, ngoài đầm phá ra còn có một ít diện tích đất canh tác nhỏ trong vườn không đáng kể để sản xuất một số cây rau màu. Thu nhập từ trên đầm phá vẫn là chính và quanh năm suốt tháng người dân chuyển đổi ngư cụ trên đầm để đánh bắt phù hợp sinh vật và con nước. Về cơ sở hạ tầng: Sau khi được chuyển lên bờ từ năm 1985, các hộ dân nằm trong chương trình hổ trợ của chính quyền huyện Phú Vang và dự án đã tạo điều kiện về cấp đất, hỗ trợ và cho vay một phần vốn để xây dựng nhà cửa. Các con đường dẫn vào thôn được bê tông hóa, xây dựng được nhà cộng đồng, nhà sinh hoạt thôn. Nhà ở được xây dựng kiên cố, phương tiện sinh hoạt trong các hộ ngày càng được cải thiện. . Trong thời gian trước khi mới lên tái định cư, người dân gặp phải rất nhiều khó khăn. Trước hết về môi trường sống thay đổi, về văn hóa và các mối quan hệ chưa dễ dàng thích nghi. Trong khi đó, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục người dân chưa được và chưa dễ dàng tiếp cận. Và đồng thời, cùng với các đặc điểm về nhân khẩu như đông con, mù chữ, đau yếu dịch bệnh, ô nhiễm môi trường là những vấn đề người dân đang đối mặt và nguy cơ tái hiện và trở về cuộc sống cũ lênh đênh trên đầm phá là có thể xảy ra. Mặc dù bước đầu các hộ dân gặp rất nhiều khó khăn, song dần dần nhờ vào sự quan tâm của chính quyền các cấp và sự can thiệp của các dự án nên các hộ dân ở đây đã từng bước ổn định cuộc sống. Riêng đối với phụ nữ của thôn: Chi hội phụ nữ thôn đã được thành lập và có nhiều hoạt động bổ ích. Trong thời gian qua, chi hội đã tham gia những hoạt động phong trào như: đóng góp hội phí, quỹ hội, tự nguyện giúp đỡ những chị em gặp khó khăn, ngoài ra chi hội cũng còn là nơi để triển khai chủ trương từ xã như: quỹ tiết kiệm, bình đẳng giới, kế hoạch hoá gia đình, các phong trào thi đua, vay vốn xoá đói giảm nghèo 2.2. Tình hình chung và những hiểu biết về thái độ, nhận thức, quan điểm của phụ nữ thôn đối với quyền và năng lực. 2.2.1. Tình hình chung: Vị thế của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội thấp hơn so với nam giới. Mặc dù tỷ lệ hai giới trong lực lượng lao động ngang nhau, nhưng nghề nghiệp khác nhau. Theo Cục thống kê lao động thì phụ nữ có phạm vi công việc tương đối nhỏ chẳng hạn như bủa lưới, làm thuê, buôn bán hoặc ở nhà chăm sóc con cái. Trong khi đó nam giới có thể tham gia vào nhiều công việc khác nhau, những công việc mà nam giới thường làm cho thu nhập cao hơn so với nữ giới. Chính vì thế nam giới thường có khuynh hướng làm những nghề nghiệp có khả năng nâng cao vị thế của họ trong gia đình, đồng thời nghề nghiệp và thu nhập cho phép họ có quyền lực hơn trong gia đinh. Trong khi đó phụ nữ chủ yếu làm những công việc mang lại thu nhập thấp nên chưa có vị thế xứng đáng trong gia đình. Do vậy, công việc ngoài xã hội xưa nay do nam giới đảm nhận, vì thế công việc nội trợ - chăm sóc nhà cửa, con cái được xác định là công việc của phái nữ. Sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động sản xuất vẫn chưa mang lại thay đổi tích cực về vai trò, trách nhiệm của họ trong gia đình. Ngoài ra, trình độ học vấn của phụ nữ thường thấp hơn nam giới. Tỷ lệ phụ nữ ở nơi đây biết đọc và viết rất thấp. Chính điều này đã làm cho tiếng nói và vị thế của họ trong gia đình cũng như trong cộng đồng chưa cao. Hầu như không ai lắng nghe tiếng nói của họ và ý kiến của họ thường được xem là thứ yếu. Chính vì vậy, phụ nữ ít được quyền kiểm soát và ra quyết định các vấn đề trong gia đình và xã hội, đặc biệt những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và sức khỏe của họ. Đáng báo động là độ tuổi từ 40 đến 50 đều không biết đọc và viết (chiếm 86,67%) số người học ở bậc tiểu học (chiếm 20%) và một số ít là cấp II (2,67%). Trình độ học vấn được thể hiện: Biểu đồ1. Trình độ học vấn của phụ nữ độ tuổi 40-50 2.2.2. Những hiểu biết ban đầu: Khi được hỏi về những vấn đề như bạo lực gia đình, bình đẳng giới, bạo lực gia đình…thì chỉ một số ít người biết được một vài vấn đề, còn đại đa số không biết hoặc chưa bao giờ nghe nói đến dù chỉ một lần. Thời điểm trước khi mới lên bờ tái định cư, những người phụ nữ có lẽ không bao giờ nghĩ đến mình đang ở và có được như thời điểm hiện tại. Và trước đó họ chỉ biết làm sao lo cho miếng cơm manh áo hằng ngày nơi cuộc sống nổi trôi gắn với những cái nghề phụ thuộc vào sự lên xuống của con nước. Nhận thức cửa chị em về các vấn đề bên ngoài xã hội hết sức thấp. Như đã phân tích trên, có rất nhiều yếu tố làm hạn chế đến nhận thức, hiểu biết và những quyền cơ bản của mình. Trước hết phải kể đến điều kiện và hoàn cảnh sống. Cuộc sống nghèo khổ đã cắt đi những hiểu biết, lấy đi của người phụ nữ đầm phá rất nhiều. Trong khi chưa kể đến các yếu tố như văn hóa chi phối. Người phụ nữ cứ nghĩ thân phận của mình là gắn với ở nhà và nuôi con cái, cho nên không chỉ có những người thân trong gia đình, làng xóm mà ngay cả bản thân các chị em vẫn nghĩ vậy. Cho nên, trên 90% chị em không tham gia bất kỳ cuộc hội họp nào trong thôn là điều tất yếu. 2.2.3. Những thay đổi cơ bản trong quá trình triển khai dự án Trước hết phải kể đến tinh thần phấn khởi của hầu hết các hộ dân nói chung và chị em thôn nói riêng khi được lên bờ tái định cư. Điều họ vẫn không nghĩ một ngày lại xảy ra với mình. Với sự quan tâm của các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương, cùng với dự án, họ thấy an tâm và hạnh phúc hơn khi được sống trên đất liền. Để giúp người dân nắm vững và hiểu biết về các vấn đề cơ bản của cuộc sống, dự án “phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên môi trường và thúc đẩy quyền trẻ em và phụ nữ”do tổ chức ICCO Hà Lan tài trợ đã mang lại cho nhận thức của người dân nói chung và người phụ nữ nói riêng rất nhiều thay đổi. Có thể nói đáp ứng nguyện vọng của dân là một yếu tố quan trọng có ý nghĩa về nhiều mặt. Từ khi lên bờ tái định cư đến nay, họ luôn nhận được sự quan tâm từ nhiều mặt của chính quyền nói chung và dự án nói riêng. Với mục tiêu của dự án là hổ trợ sính kế và nâng cao năng lực cho dân thông qua công tác tập huấn, hướng dẫn và đồng hành với người dân trong quá trình tham gia sản xuất, định hướng cho dân khai thác một cách bền vững trên đầm phá và các chiến lược phát triển sinh kế bền vững. Về cơ sở vật chất, dự án phối hợp với chính quyền đại phương xây dựng nhiều công trình có ý nghĩa, như đường sá, nhà cộng đồng, các công trình tập thể, và yếu tố thành công chính là vận động thành lập được các chi hội trong thôn như hội nghề cá, hội phụ nữ và các hoạt động dành cho trẻ em vùng đầm phá. Trong số các hoạt động của dự án phải kể đến hiệu quả và lợi ích từ các buổi tập huấn của dự dành cho người dân, trong đó có phụ nữ. Các nội dung như vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản, chương trình về giới, vấn đề bạo lực gia đình, lập kế hoạch sản xuất và còn rất nhiều nội dung khác được dự án triển khai. Nhiều chị em phụ nữ trước đây không biết gì về các vấn đề trên, tuy nhiên từ khi dự án truển khai đã nắm vững và tích cực tham gia, làm cho đời sống gia đình được phát triển hơn và đi lên với xu thế chung của xã hội. Các tập huấn viên được dự án mời là những người có kinh nghiệm và các chuyên gia đầu ngành nên chất lượng tập huấn rất cao. Mặc dù trình độ của người dân, mà đặc biệt là chị em có hạn, nhưng với kinh nghiệm và nhiệt tình của các chuyên gia thực hiện dự án nên người dân cơ bản nắm vững các nội dung và mục tiêu dự án đề ra. Chị Lê Thị Ký là người tiêu biểu, trước đây sống dưới đầm phá không biết chi đến chuyện và việc bên ngoài xã hội. Thế nhưng bây giờ chị dã trở thành một cộng tác viên dân số, là hội trưởng hội phụ nữ thôn tham gia các phong trào và vận động chị em vào trong chi hội. Từ đó đến nay, chi hội phụ nữ thôn định cư Lương Viện đã đạt được nhiều thành tích được chính quyền huyện và dự án ghi nhận Trong thời gian qua, tính từ khi thành lập cho đến nay, chi hội phụ nữ đã tổ chức và tham gia nhiều hoạt động, nhiều phong trào của thôn cũng như của xã có chất lượng và đạt nhiều thành tựu. Điều đó được thể hiện thông qua những ghi nhận đóng góp của UBND huyện và xã Phú Đa. Thông qua đóng góp và tổ chức các chương trình để gây quỹ, cho nên hàng năm vào các ngày lễ như 8/3 hoặc 20/10, chị em thôn đều tổ chức các buổi liên hoan rất phấn khởi và chất lượng, tổ chức thăm hỏi động viên lẫn nhau. Tham gia các chương trình như hiếm máu nhân đạo, tham gia quyên góp làm từ thiện,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá tính hiệu quả của hoạt động tập huấn về nâng cao năng lực và quyền cho phụ nữ của dự án phát triển mô hình đồng quản lý tài nguyên môi trường.doc
Tài liệu liên quan