Đề tài Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân hàng nhà nước Việt nam thời gian qua và những kiến nghị

MỤC LỤC

 

LờI Mở ĐầU 1

I. Một số vấn đề cơ bản về nhiệm vụ quản lý ngoại hối của NHNN. 2

1. Muc đích quản lý ngoại hối của NHNN 2

1.1. Khái niệm về quản lý ngoại hối. 2

1.2. Mục đích quản lý ngoại hối của NHNN 2

II. Cơ chế quản lý ngoại hối 6

1. Cơ chế tự do ngoại hối 6

1.1.Cơ chế quản lý. 6

1.2. Cơ chế Nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn. 6

1.4. Cơ chế quản lý có điều tiết. 7

III. nội dung hoạt động ngoại hối của nhtư 7

1. Hoạt động mua bán ngoại hối. 7

1.1.Mua bán trên thị trường trong nước 8

1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế 8

2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHTƯ. 9

IV. Thực trạng quản lý và hoạt động ngoại hối của NHNN Việt Nam hiên nay. 9

1. Hệ thống văn bản chính sách. 9

2. Về tỷ giá: 11

3. Về lãi suất. 13

4. Về giao dịch vãng lai. 14

Những kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của nhtư trong thị trường tiền tệ. 16

1. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản chính sách về quản lý ngoại hối theo một số yêu cầu cụ thể sau: 16

2. Nâng cao tính chuyển đổi cho VND 17

1.1.Hoàn thiện thị trường hối đoái, một trong những điều kiện thiết lập tính chuyển đổi cho VND. 18

1.2. Gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. 18

3. Tiếp tục đẩy mạnh công nghệ ngân hàng. 19

TàI liệu tham khảo 22

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2402 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân hàng nhà nước Việt nam thời gian qua và những kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiết tỉ giá để thực hiện mục tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTƯ muốn xác lập một tỉ giá ổn định nghĩa là giữ cho tỉ giá không tăng, không giảm thì NHTƯ hoặc là mua vào một số ngoại tệ chuyển từ nước ngoài vào trong nước làm cho quỹ dự trữ ngoại hối tăng sẽ tương ứng hoặc NHTƯ sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, quĩ dự trữ ngoại hối giảm xuống tương ứng. II. Cơ chế quản lý ngoại hối 1. Cơ chế tự do ngoại hối Cơ chế tự do ngoại hối nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường, cân bằng ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước do vậy tỉ giá, giá cả ngoại hối sẽ phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường. Vào năm 1973 đến năm 1980, tỉ giá được thả nổi hoàn toàn va được hầu hết các nước áp dụng, nó được hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường mà không chịu bất cứ một sự can thiệp nào của Chính phủ. Trong giai đoạn này các tỉ giá thả nổi dường như hoạt động trôi chảy, cán cân thanh toán quốc tế dao động trở lại cân bằng một cách tự nhiên theo quan hệ cung cầu. Phải thừa nhận rằng sự thả nổi tỉ giá đã tạo cho các NHTƯ khả năng kiểm soát các mức cung tiền của họ và lựa chọn tỉ lệ lạm phát mà mình mong muốn. Tuy nhiên trên thực tế tỷ giá thả nổi không có khả năng cách ly hoàn toàn các nước khỏi những cú sốc do chính sách của nước ngoài dội vào và đồng tiền các nước dường như biến động thất thường theo sự lên xuống của đồng tiền trụ cột USD. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi bị hoài nghi. NHTƯ các nước không thể thờ ơ trước giá trị đồng tiền của nước mình trên thị trường ngoại hối và họ đã liên tiếp can thiệp vào thị trường ngoại hối để thay đổi gía trị đồng tiền của mình. 1.1.Cơ chế quản lý. Hiện nay hầu hết các nước đều áp dụng cơ chế có sự quản lý của Nhà nước song tuỳ từng nước có mức độ quản lý và can thiệp khác nhau. 1.2. Cơ chế Nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn. Trong giai đoạn 1995 đến 1998, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi và thả nổi có quản lý nhưng các nước trong hệ thống XHCN, với cơ chế kế hoặch hoá tập trung, Nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt của hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại và phát huy tác dụng, thay vào đó là cơ chế tỷ giá cố định. Việt nam cũng không nằm ngoài khuôn khổ ấy. Tỷ giá chính thức của Việt nam được công bốvào ngày 25 tháng 11 năm 1995, là tỷ giá giữa đồng Việt nam và nhân dân tệ Trung quốc: 1VNĐ =1470 nhân dân tệ. Bên cạnh các tỷ giá chính thức( tỷ giá mậu dịch), Nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là: tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy chế độ tỷ giá của Việt nam lúc này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thống tỷ giá đã gây không ít khó khăncho việc quản lý đIều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng và đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chungtở thành vấn đề cấp bách. 1.4. Cơ chế quản lý có điều tiết. Để khắc phục sai lầm của các cơ chế tỉ giá không phù hợp vơi điều kiện nền kinh tế thị trường, chế độ tỉ giá có sự điều tiết của Nhà nước ra đời- được hình thành theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nhưng có sự can thiệp và điều tiết của NHTƯ. Loại hình tỷ giá này hiện nay đang được áp dụng hầu hết ở các nước, tuy nhiên mức độ đIều tiết của mỗi nước không hoàn toàn giống nhau. Đối với Việt nam sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI bắt đầu đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển dần sang cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là thời kỳ có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng quản lý và đIều hành kinh tế của đất nươcs,nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách được đảm bảo quan tâm. Tháng 3 năm 1989 Nhà nước chính thức công bố bỏ kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức được NHNN công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất, cơ chế thanh toán, và tham khảo diễn biến tỷ giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các NHTM xây dựng một tỷ giá riêng cho mình trong giao dịch hàng ngày với biên độ dao động cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên đã góp phần cải tạo phần nào tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. III. nội dung hoạt động ngoại hối của nhtw 1. Hoạt động mua bán ngoại hối. Tại mục 1, đIều 13, chương IV về quản lý quỹ bình ổn giá vàng ghi rõ: NHNN thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối trong nước thông qua các ngiệp vụ: Mua ngoại hối bằng đồng Việt nam. Bán ngoại hối thu đồng Việt nam. Như vậy, một trong những hoạt động chính của NHNN là mua bán ngoại hối trên thị trường trong nước và quốc tế. NHTƯ tham gia vào hoạt động mua bán ngoại hối với tư cách là người can thiệp, giám sát, điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua bán cuối cùng. Nội dung của phương án can thiệp mua bán ngoịa hối bao gồm: thời điểm can thiệp, loại ngoại tệ can thiệp, tỷ giá hoặc giá vàng can thiệp, số lượng ngoại tệ hoặc vàng can thiệp, hình thức can thiệp ( spot, swap, forward và các hình thức giao dịch ngoại hối khác ) và đối tác thực hiện can thiệp. Thông qua việc mua bán ngoại tệ, NHTƯ thực hiện giám sát và đIều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời theo dõi diễn biến tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp với NHTƯ các nước khác củng cố sức mua đồng tiền này hay đồng tiền khác để đảm bảo trật tự trong quan hệ quốc tế có lợi cho mình. 1.1.Mua bán trên thị trường trong nước NHTƯ là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , tác động trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ của các NHTM. Một đặc đIểm nổi bật của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là sự mất cân đối trong giao dịch. Tuỳ theo từng giai đoạn của nền kinh tế, lúc thừa ngoại tệ mọi NHTM đều đặt lệnh bán (1994 –1995), lúc căng ngoại tệ mọi NHTM đều đặt lệnh mua (1997 – 1998). Lẽ ra để cân đối ngoại tệ trên thị trường, NHNN phải can thiệp thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, nhưng đIều này không được thực hiện như mong đợi. Khi cầu ngoại tệ hợp lý không được thoả mãn, niềm tin của các thành viên vào thị trường giảm dần, các NHTM trực tiếp kinh doanh tiền tệ với nhau không thông qua thị trường. Điều này không chỉ làm giảm tồn quỹ ngoại hối mà còn làm giảm vai tro điều tiết của NHTƯ. Vì vậy để thực hiện tốt chức năng điều tiết thị trường, NHTƯ sẵn sàng thoả mãn các nhu cầu ngoại tệ hợp lý trên thị trường nội tệ liên ngân hàng. Đây là thị trường chỉ có các NHTM, các chi nhánh lớn hoạt động ỏ các thành phố trung tâm được giao dịch. NHTƯ chỉ tiến hành mua bán với các NHTM tại hội sở trung ương của các NHTM mà không mua bán với các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Kể từ khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động đến nay, NHNN đã thực hiện mua vào được khoảng 817 triệu USD (bán ra 5 triệu USD) để lấy nguồn dự trữ. 1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế Với nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối, NHTƯ thực hiện mua bán trên thị trường quốc tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối. Với nguyên tắc an toàn, tạo vốn khả dụng và tạo thu nhập, NHTƯ cần lựa chọn kỹ xem nên chọn đồng tiền nào để đưa vào quỹ dự trữ ngoại hối, đồng thời gửi ngoại tệ vào các ngân hàng khác nhau nhằm phân tán rủi ro và hưởng lãi suất. Để đạt được mục tiêu trên, NHTƯ cần thiết lập mối quan hệ đại lý rộng rãi, nhất là với các NHTƯ và cơ quan quản lý tiền tệ của những nước mà họ đầu tư dự trữ ngoại hối của mình, đồng thời qua đó để tránh được các tình trạng xáo trộn của các thị trường nước ngoài. Việc mua bán ngoại hối của NHTƯ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền trung ương (MB) từ đó đIều chỉnh được tỷ giá như mong muốn, giúp cho việc quản lý các NHTM dễ dàng hơn. 2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHTƯ. Ngoài việc can thiệp bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị trường,NHTƯ còn thực hiện các hoạt động về ngoại hối như: - Điều hành thị trường ngoại hối thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng các quy chế hoạt động, quy định giới hạn tỷ giá mua bán ngoại tệ trên thị trường v.v Tham gia xây dựng các dự án pháp luật, và ban hành văn bản hướng dẫn luật vê quản lý ngoại hối. Khi Chính phủ ban hành quy chế về quản lý ngoại hối, NHTƯ được giao nhiệm vụ ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể để phục vụ cho việc quản lý của mình được thông nhất. - Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối. Dụa vào luật pháp và điều kiện cụ thể trong từng thời gian, NHTƯ đưa ra các quy định cần thiết để cấp giấy phép cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân có hoạt động ngoại hối. - Kiểm tra, giám sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối, kiểm soát các hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng. - Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác về quản lý ngoại hối. - Biên lập cán cân thanh toán. IV. Thực trạng quản lý và hoạt động ngoại hối của NHNN Việt Nam hiên nay. 1. Hệ thống văn bản chính sách. Năm 2003 có thể được coi là năm “bản lề” của kế hoạch phát triển kinh tê - xã hội năm năm 2001 – 2005, đây cũng là năm có nhiều biến động về kinh tế chính trị ở cả trong nước và quốc tế, đã làm ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của thị trường tài chinh quốc tế và đặt ra nhiều thử thách mới trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong lộ trinh hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý ngoại hối được đánh giá là lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều biến động. Trong lĩnh vực này thu hút không chỉ các tổ chức kinh tế trong nước mà còn là sự quan tâm của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các Chính phủ nước ngoài có quan hệ kinh tế với Việt Nam. Do đó sự ổn định của thị trường ngoại hối sẽ quyết định đến vay nợ nước ngoài, đầu tư trực tiếp ( FDI ), đầu tư gián tiếp ( FPI ) của nước ngoài; kiều hối, chuyển ngoại tệ của cá nhân ra nước ngoài… Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được Đảng xác định trong giai đoạn hiện nay là thiết lập đồng bộ hệ thống các thị trường, giảm sự can thiệp bằng các công cụ hành chính của Nhà nước, tự do kinh doanh theo pháp luật. Luật NHNN Việt Nam ban hành tháng 12/1997, đIều 37 quy định: Nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN Việt Nam về quản lý ngoại hối: Xây dựng các dự án pháp luật, pháp lệnh và các dự án khác về quản lý ngoại hối; ban hành các văn bản pháp luật về quản lý ngoại hối theo thẩm quyền. Thông thường các quy chế về quản lý ngoại hối thường bao gồm các nội dung cơ bản như sau: + Những quy định chung gồm: - Đối tượng và phạm vi quản lý, tổ chức cá nhân có hoạt động ngoại hôi. - quan quản lý: Chính phủ giao cho ai? (thông thường là các NHTƯ hoặc thành lập một cơ quan riêng để giao nhiệm vụ. - Quy định về nội dung quản lý ngoại hối, nguời cư trú, người không cư trú, các hoạt động ngoại hối. + Quy định về: Mở tài khoản, sử dụng ngoại tệ của nguời cư trú và người không cư trú. + Quy định về các giao dịch vãng lai, các giao dịch vốn. + Các điều khoản khác v.v… Tất cả các quy định trên đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động ngoại hối được thực hiện tốt. Từ năm 1999 đến nay, hầu hết các chính sách về quản lý ngoại hối đã được đổi mới với 5 nghị định của Chính phủ, nhiều quyết định của Thủ tướng Chính phủ và văn bản hướng dẫn của NHNN. Sự thay đổi này đã bước đầu phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình cải cách theo chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và được dư luận đánh giá cao. Hiện nay Chímh phủ đã đưa ra một số văn bản đIều chỉnh lĩnh vực quản lý ngoại hối rất cơ bản như: Nghị định số 63/1998/NĐ- CP ngày 17/8/1998; quyết định số 173/1998/ QĐ-TTg ngày 12/9/1998. Nhìn chung nội dung hai văn bản này đều thể hiện một cách nhìn thông thoáng hơn. Giai đoạn từ cuối 1998 trở về trước, trước khi luật NHNN Việt nam và luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành( ngày 1/10/1998), Chính phủ, NHNN quy định trạng thái ngoại hối đối với các NHTM, quy định giới hạn tối đa số dư tiền gửi ngoại tệ của doanh nghiệp trên tài khoản tiền gửi của ngân hàng, quy định mức cá nhân được phép mang ngoại tệ qua cửa khẩu khi xuất nhập cảnh từ dưới 1000 USD, sau đó được điều chỉnh lên 3000 USD, rồi 5000 USD và 7000 USD không phải khai báo…Từ đầu 1999 các quy định mới đã được thực hiện. Các doanh nghiệp phải thực hiện kết hối, thay vì chỉ được để số dư tối thiểu tỷ giá ngoại tệ trên tài khoản đó là phải bán ngay cho ngân hàng số ngoại tệ có được trong một khoảng thời gian xác định. Tỷ lệ kết hối lúc đàu quy định là 100%, sau đó giảm xuống còn 80% rồi xuống còn 50%( theo quyết định 180/ 1999/QĐ-TTg), rồi xuống 40%( theo quyệt định 61/2001/ QĐ-TTg) và hiện ở mức 30%( theo quyết định 61/2002/QĐ-TTg). Để thực hiệnvới thực tiễn các quy định khác về quản lý ngân hàng như: cấp giấy phép mang ngoại tệ ra nước ngoài, quản lý bàn đại lý thu đổi ngoại tệ, việc bán hàng và dịch vụ trong nước thu bằng ngoại tệ, doanh nghiệp mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài…cũng đước chỉnh sửa, bổ sung cho rõ ràng, phù hợp hơn, thông thoáng hay chặt chẽ hơn. Từ đầu năm 1999, NHNN đã chính thức bỏ cơ chế điều hành tỷ giá theo kiểu bao cấp giông như trước đây, tức là chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thay vì công bố tỷ giá chính thức như trước các NHTM chủ động quy định tỷ giá theo biên độ quy định trên cơ sở tỷ giá do NHNN công bố. Nhìn chung, cho đến thời gian hiện nay, luật về việc quản lý ngân hàng đã được chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp với sự tiến bộ và phát triển của nền kinh tế tuy nhiên vẫn còn nhiều các tồn đọng ví dụ như việc găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp, rồi việc chuyển ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. 2. Về tỷ giá: Một trong những thành công quan trọng trong thực thi chính sách tiền tệ và thực hiện chức năng của NHNN trong năm qua là đổi mới công tác quản lý ngoại hối và ổn định thị trường ngoại tê. Kết quả công bố mới nhất của IFC – Công ty tài chính quốc tế thuộc WB, phát ra ngày 8 tháng 12 năm 2002 về môi trường kinh doanh ở Việt Nam cũng đánh giá hai trong những thành công của Việt Nam là kiểm soát lạm phát và quản lý tỷ giá. Trái với sự biến động mạnh trên thị trường tiền tệ quốc tế, đặc biệt là sự xuống giá nghiêm trọng của đồng USD, thị trường ngoại tệ ở Việt Nam trong thời gian vừa qua tương đối ổn định, tỷ giá VNĐ so với USD chỉ khoảng 1,26%, đây là mức tăng tương đối thấp so với cùng kỳ năm ngoái. Trên thị trường ngoại hối thế giới, trong năm 2001 và ba tháng đầu năm 2003, đồng USD đã mất giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác, đặc biệt so với đông Euro. Sau ba tháng đầu năm 2001 tăng giá mạnh, bắt đầu từ 4/2002 đồng USD liên tục chịu sức ép giảm giá trên thị trường ngoại hối (mất giá tới 10.83% so với đồng Euro, 9,28% so với Yên Nhật, 8,38% so với đồng Bảng Anh). Nguyên nhân là do niềm tin vào nền kinh tế của các nước đối với Mỹ đang ngày một giảm xuống, người ta nghi ngờ về tốc độ phục hồi của nền kinh tế Mỹ. Đặc biệt trong các vụ xì căng đan tài chính của các tập đoàn kinh tế lớn như Worldcom và XEROX, tình hình bạo lực leo thang chưa có dấu hiệu chấm dứt tại Trung Đông và thái độ thiên vị của Mỹ đối với Isarel cũng là yếu tố khiến sự tin tưởng của các nhà đầu tư vào kinh tế Mỹ suy giảm. Gần đây nhất là việc Mỹ tập trung cao độ tiềm lực kinh tế cho khả năng quân sự nhằm xâm lược Irăc đã khiến ngân sách nhà nước Mỹ thâm hụt nặng nề, buộc Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) liên tục phải cắt giảm lãi suất (6/11/2002 từ 1.75% xuống còn 1,25%/năm) nhằm đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng suy yếu. Việc “xuống giá” của USD được xét trên ba khía cạnh: lãi suất thấp, chỉ bằng 1/4 lãi suất tiền gửi VNĐ cùng kỳ hạn, tốc độ tăng giá thấp nhất trong nhiều năm qua; và tăng thấp hơn giá vàng, thấp hơn chỉ số giá tín dụng. Trong hai tháng cuối năm 2002 nếu lãi suất tiền gửi VNĐ kỳ hạn trên một năm tới 8.64%/năm, thì lãi suất tiền gửi USD chỉ còn 2,0%/năm; cao hơn lãi suất của FED,LIBOR và SIBOR, do các NHTM đang mở rộng và cho vay USD các dự án lớn trong nước với lãI suất thấp, không phảI gửi ra nước ngoài. Trong 5 năm qua, kể từ năm 1997- 2001 tiền gửi VNĐ/ USD liên tục tăng cao hơn tốc độ tăng của chỉ số giá chung và tăng cao hơn giá vàng, thì năm 2002 lại tăng thấp hơn. Cụ thể: Năm Chỉ số giá chung Giá vàng Giá USD 1997 3,6% -6,6% 14,2% 1998 9,2% 9,7% 9,6% 1999 0,1% -0,2% 1,1% 2000 -0,6% -1,7% 3,4% 2001 0,8% 5% 2,8% 2002 4,0% 2,0% 2,1% Tỷ giá năm nay tăng thấp nằm ngoài dự đoán của nhiều người bởi từ đầu năm 2003 mức dự đoán năm nay tỷ giá tăng thấp nhất cũng bằng năm 20002, tức tăng khoảng 4% lên trên 15.550 VNĐ/USD,cho đến thời gian hiên nay (4/2003) tỷ giá VNĐ/USD chỉ xoay quanh 15.000- 15.400. Nguyên nhân khách quan là do nguồn ngoại tệ tiền mặt chuyển vào Việt nam tăng cao. Với trên 2,5 triệu Việt kiều, 310.000 người Việt nam đI xuất khẩu lao động chuyển về nưởc trong cả năm ước tính dạt 2,2 tỷ USD. Gần 2,6 triệu khách quốc tế đến Việt nam trong 2002 chi tiêu tại nước ta một khoản ngoại tệ rất lớn. Do đó, mặc dù năm nay nhập siêu lớn (2,53 tỷ USD) nhưng do nguồn ngoại tệ tiền mặt tăng cao cộng với những diễn biến trái chiều về lãi suất lạm hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ. Về chủ quan, NHNN tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công cụ diều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối do đó tỷ giá trong cả năm 2002 chỉ tăng khoảng 2,0% tốc độ tăng giá chung và thấp nhất trong nhiều năm qua. Trong thời gian qua, BHNN tiếp tục điều hành tỷ giá theo hướng hình thành mức tỷ giá phản ánh thực hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khuyến khích xuất khẩu để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, theo dõi sát diễn biến tỷ giá hàng ngày để có biện pháp can thiệp kịp thời, giữ cho tỷ giá vận động theo tín hiệu thị trường nằm trong tầm kiểm soát của NHNN. 3. Về lãi suất. Như chúng ta đã biết, lãi suất ngoại tệ ở nước ta đã được tự do hoá từ tháng 6/2001, nên mọi diễn biến về lãi suất trên thị trường tiền tệ quốc tế đều có tác động trực tiếp đến thị trường ngoại hối ở nước ta. Hơn nữa cung ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ở nước ta luôn lớn hơn cầu, vốn huy động USD được nhiều nhưng cho vay bằng USD ở mức thấp, thừa phải đem gửi ở nước ngoài, đầu tư trên thị trường thế giới, hưởng lãi suất từ thị trường này. Song thời gian gần đây, nhu cầu vay ngoại tệ của các doanh nghiệp và các dự án ở trong nước tăng lên. Nguyên nhân do tỷ giá ổn định, trong cả năm 2002 chỉ tăng khoảng 2%, bằng 1/2 tốc độ tăng chung và thấp nhất trong nhiều năm qua. NHNN điều hành lãi suất cho vay bằng USD dựa trên cơ sở lãi suất SIBOR kỳ hạn 3 tháng, cộng với biên độ không quá 1%/ năm với loại cho vay ngắn hạn; còn lãi suất cho vay trung hạn là lãi suất là SIBOR kỳ hạn 6 tháng, cộng với biên độ không quá 2,5% /năm. Từ 1/06/2001,NHNN bỏ cơ chế quy định khống chế biên độ, cho phép các NHTM, tổ chức tín dụng dựa trên lãi suất thhị trường quốc tế và cung cầu nguồn vốn ngoại tệ trong nước, thoả thuận với khách hàng mức lãi suất cho vay phù hợp. Đây được coi là cơ chế tự do hoá, lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh đã tác động trực tiếp đến lãi suất cho vay USD ở nước ta là tất yếu. Trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố hàng tháng chủ động quy định cụ thể mức lãi suất cho vay của mình; đồng thời quy định mức lãi suất điều chuyển vốn trong hệ thống, như NHNo& PTNT Việt nam, hay lãi suất tiền gửi như NHNT Việt nam; hoặc tính toán trả đủ phí huy động vốn đối với chi nhánh NHTM thừa nguồn vốn phải điều đi…Nhìn chung các NHTM quốc doanh có cơ chế quy định lãi suất điều chuyển vốn trong hệ thống của mình không hoàn toàn giống nhau nhưng mục tiêu chung là đảm bảo tính chất hạch toán trong hệ thống, đảm bảo hiệu quả cơ chế giao dịch chỉ tiêu kinh doanh, cũng như các cơ chế quản trị điều hành khác. Chi nhánh các NHTM cũng chủ động thức hiện các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình đối với từng khách hàng. Còn lãi suất huy động vốn thì về cơ bản không chênh lệch giữa các chi nhánh trong mỗi NHTm cũng như giữa các NHTM khác nhau. ở nước ta, để hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng suy giảm nền kinh tế phù hợp với xu thế cắt giảm lãi xuất trên thị trường quốc tế, từ 2001 đến nay, NHNN đã cắt giảm lã suất cơ bản đối với VNĐ tới 4 lần, từ 0,725% đồng thời 2 lần cắt giảm lãi suất tái cấp vốn từ mức 0,75%/tháng, lần lượt xuống còn 0,725%, 0,65% và 0,60%/tháng. NHNN không có biện pháp can thiệp gián tiếp hỗ trợ lãi suất USD do đó các NHTM đã giảm thấp lãi suất tiền gửi USD, người dân sẽ có thể găm giữ USD không gửi vào ngân hàng, làm tăng lên tình trạng đô la hoá trong xã hội mà ngân hàng không kiểm soát được cũng như không thu hút được nguồn vốn này trong dân cư. Đồng thời làm cho khoảng cách chênh lệch với lãi suất tiền gửi VND càng cao hơn, trong điều kiện tỷ giá ổn định, sẽ tạo dòng chuyển dịch chuuyển từ USD sang VND, gây sức ép lên nội tệ, càng gây lên tình trạng căng thẳng hơn về vốn tiền VND trong các NHTM. Cụ thể tình hình lãi suất như sau: Kỳ hạn VND%/năm USD%/năm Không kỳ hạn 2,4 1,0 1 tháng 4,8 1,3 3 tháng 6,98 1,4 9 tháng 7,56 1,6 12 tháng 7,8 1,8 Tuy chính sách lãi suất có nhiều dấu hiệu khả quan nhưng vẫn còn không ít những tồn dọng cần giải quyết như có quá nhiều lãi suất cho vay ưu đãi, cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng biện pháp lãi suất của các tổ chức tín dụng như giảm lãi suất cho vay bất hợp lý ảnh hưởng đến tình hình tài chính chung và cơ chế điều hành chung về lãi suất v.v…do đó NHNN cần phải có biện pháp phù hợp nhằm can thiệp kịp thời mang lại sự ổn định cho thị trường ngoại tệ Việt nam. 4. Về giao dịch vãng lai. Trong những năm qua mặc dù gặp phải nhiều khó khăn nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam vẫn tăng với tỷ lệ khá cao, thâm hụt thương mại tuy vẫn ở mức cao nhưng do chính sách thu hút nguồn tiền kiều hối thực hiện tốt nên về cơ bản đã bù đắp được tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. Cụ thể lượng kiều hối chuyển về Việt nam đều tăng qua các năm. Năm 2002 là 1.757 triệu USD, năm 2001 là 1.754 triệu USD, năm 2002 là 2.061 triệu USD. Ngày 16/4/1999 NHNN có thông tư số 01/1999/NHNN7 hướng dẫn thi hành Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối theo đó người cư trú là tổ chức Việt nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng được Chính phủ Việt nam đảm bảo hỗ trợ cân đối ngoại tệ, chi nhánh, công ty,…phảI bán số ngoại tệ thu được từ các nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng được phép theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể. Các doanh nghiệp và cá nhân không được phép kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá với nhau bằng ngoại tệ mà chỉ được phép dùng ngoại tệ để thanh toán tiền nhập vật tư, hàng hoá dịch vụ theo đúng chế độ quản lý về xuất nhập khẩu, qua đó các doanh nghiệp phải bán 30% ngoại tệ thu được cho NHNN. Qua 4 năm thực hiện quy định về kết hối đã góp phần quan trọng vào việc hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, giảm căng thẳng cung cầu ngoại tệ, ổn dịnh tỷ giá và thu hút nguồn vốn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cần thiết của nền kinh tế. Tuy nhiên chính sách kết hối chỉ là biện pháp quản lý hành chính, nó hạn chế quyền chủ động trong sử dụng ngoại tệ của doanh nghiệp. Đây là biện pháp mang tính tình thế cần phải xoá bỏ khi điều kiện cho phép. Ngoài khối lượng ngoại tệ mà các tổ chức kinh tế chuyển vào trong nước cũng cần phải kể đến nguồn ngoại tệ do các cá nhân chuyển về từ nước ngoài.Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong năm 2003, bình quân mỗi tháng số ngoại tệ tiền mặt của cá nhân mang vào nước ta qua cửa khẩu kiểm soát được đạt bình quân 57,7 triệu USD, tăng so với bình quân hàng tháng của năm 2002 là 56,4 triệu USD. Số ngoại tệ mang ra khỏi nước ta bình quân qua cửa khẩu bình quân mỗi tháng là 51 triệu USD, cũng cao hơn so với mức bình quân hàng tháng của năm trước là 46 triệu USD. Qua đó cho thấy nguồn ngoại tệ tiền mặt đưa vào nước ta vẫn lớn hơn đưa ra, Nhà nước kiểm soát được. Nhiều vụ xuất lậu ngoại tệ của Việt kiều và người nước ngoài tại các cửa khẩu đã được phát hiện, xử lý kịp thời đúng pháp luật, hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. Ngoài việc quản lý ngoại tệ, Nhà nước ta còn khuyến khích, thu hút vốn đầu tư của các tổ chức kinh tê, các cá nhân Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển tiền về giúp đỡ người thân và đầu tư với những ưu đãi miễn thuế thu nhập cho người được hưởng, có thể lĩnh bằng VNĐ hoặc bằng ngoại tệ tiền mặt. Chính từ chủ trương khuyến khích nguồn thu này, hàng năm có nguồn ngoại tệ chuyển vào Việt Nam ước tính trên dưới 2 tỷ USD. Với Quyết đinh 170/1999/QĐ - TTg ngày 19/08/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về Việt Nam không giới hạn số lượng bằng ngoại tệ hay bằng đồng nội tệ, đây là một quyết định thông thoáng nhằm thu hút ngoại tệ từ kiều bào ta ở nước ngoài, tiến đến thu hút đầu tư nước ngoài thực hiện chính sách phát triển kinh tế đất nước. Những kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của nhtư trong thị trường tiền tệ. 1. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản chính sách về quản lý ngoại hối theo một số yêu cầu cụ thể sau: - Tỷ giá phải được điều hành l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72236.DOC
Tài liệu liên quan