Đề tài Đánh giá việc thực hiện mục tiêu sản lượng và việc làm của Việt Nam thời kỳ 2005 - 2008

MỤC LỤC

PHẦN I LỜI MỞ ĐẦU 2

PHẦN II NỘI DUNG 3

CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ CHỦ YẾU 3

1.1. Giới thiệu môn học, vị trí của môn học trong chương trình Đại học. 3

1.1.1 Giới thiệu môn học. 3

1.1.2. Vị trí của môn học trong chương trình học đại học. 3

1.2. Phân tích các chức năng của chính phủ và các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu. 4

1.2.1. Phân tích các chức năng của chính phủ được thể hiện bằng 3 chức năng. 4

1.2.2. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu. 5

1.3. Trình bày một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng và vai trò của việc xác định các chỉ tiêu đó trong phân tích kinh tế vĩ mô. 6

1.3.1. Một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng. 6

1.3.2. Vai trò của GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô. 8

1.4. Trình bày các vấn đề liên quan đến thất nghiệp phân tích các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. 8

1.4.1. Các vấn đề liên quan đến thất nghiệp 8

1.4.2. Các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. 10

1.5. Phân tích mối quan hệ giữa mục tiêu sản lượng và mục tiêu việc làm. 11

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU SẢN LƯỢNG VÀ VIỆC LÀM CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2005 - 2008 12

2.1. Nhận xét chung về tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam để đưa ra lý do phải thực hiện mục tiêu sản lượng và việc làm trong thời kỳ 2005 - 2008. 12

2.2 Trình bày các chính sách mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để thực hiện hai mục tiêu trên. 13

2.3. Thu thập số liệu về GNP (GDP), tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam thời kỳ 2005 - 2008. 15

2.4. Phân tích số liệu thu thập được và trình bày quan điểm của mình về cách sử dụng chính sách nhằm vào mục tiêu sản lượng và việc làm. 17

2.4.1. Phân tích số liệu thu thập được. 17

2.4.2. Quan điểm về cách sử dụng chính sách về mục tiêu sản lượng và việc làm. 19

PHẦN III KẾT LUẬN 21

Kết luận 21

Kiến nghị: 22

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá việc thực hiện mục tiêu sản lượng và việc làm của Việt Nam thời kỳ 2005 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cần được trả của những tác động này. Để hạn chế tác động bên ngoài chính phủ đề ra luật lệ điều tiết nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực như ô nhiễm nước không khí, chất thải gây nguy hiểm, các chất phóng xạ.... Ví dụ một nhà máy điện chạy bằng than nhả khói làm ô nhiễm môi trường xung quanh mà không phải trả lệ phí cho những người sống xung quanh đó. * Chức năng công bằng. Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá được phân phối cho những người có nhiều tiền mua nhất. Như vậy ngay cả khi một cơ chế thị trường đang hoạt động có hiệu quả thì nó cũng có thể dẫn tới sự bất bình đẳng lớn. DO vậy biện pháp thu thuế và chi tiêu của chính phủ sẽ ảnh hưởng tới việc phân phối trong nền kinh tế. Biện pháp thu thuế sẽ lấy đi một số hàng hoá dịch vụ của một nhóm người thu hẹp khả năng mua sắm của họ, việc chi tiêu các khoản thuế sẽ tăng thêm việc tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ của nhóm dân cư khác. * Chức năng ổn định. Ngoài chức năng hiệu quả và công bằng chính phủ còn có chức năng kinh tế vĩ mô là duy trì còn có chức năng kinh tế vĩ mô là duy trì sự ổn định kinh tế. Chính phủ có thể sử dụng các chính sách tài khoá và tiền tệ và điều chỉnh sản lượng việc làm và giá cả. 1.2.2. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu. Mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản là đạt được sự ổn định trong ngắn hạn, tăng trưởng nhanh trong dài hạn và phân phối của cải một cách công bằng. - Sự ổn định kinh tế: Là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách như lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn. - Tăng trưởng kinh tế: Đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn có liên quan đến việc tăng trưởng kinh tế. - Công bằng trong phân phối: vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế. Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng, các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể như sau: * Mục tiêu sản lượng. - Đạt được sản lượng thực tế cao tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. - Tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc. * Mục tiêu việc làm: - Tạo được nhiều việc làm tốt. - Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp và duy trì ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. * Mục tiêu ổn định giá cả. - Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do. * Mục tiêu kinh tế đối ngoại. - Ổn định tỷ giá hối đoái. - Cân bằng cán cân thanh toán. * Phân phối công bằng. Trong nền kinh tế thị trường tất yếu có sự phân hoá giàu nghèo. Để đảm bảo công bằng thì phải thực hiện phân phối lại, khi phân phối lại làm giảm động lực cạnh tranh -> phải làm thế nào để đạt được công bằng mà vẫn kích thích phát triển sản xuất. Chú ý: Khi nghiên cứu những mục tiêu trên chúng ta cần chú ý. - Những mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản lượng đạt ở mức toàn dụng nhân công, lạm phát thấp, cán cân thanh toán cân bằng và tỷ giá hối đoái là không đổi. Trong thực tế, các chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản chỉ có thể tối thiểu hoá các sai lệch thực tế so với trạng thái lý tưởng. - Trong một thời điểm, không thể đạt được tất cả các mục tiêu kinh tế vĩ mô vì giữa các cặp mục tiêu kinh tế vĩ mô, có những cặp mục tiêu bổ sung cho nhau, nhưng cũng có những cặp mục tiêu mâu thuẫn nhau như sản lượng và phân phối công bằng, việc làm và giá cả, sản lượng và giá cả, tức là đạt được mục tiêu này thì không đạt được mục tiêu kia, nên các nhà hoạch định chính sách cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi phải chấp nhận một sự hy sinh nào đó trong một thời kỳ ngắn. - Về mặt dài hạn: Thứ tự ưu tiên của các mục tiêu trên cũng khác nhau. Ở các nước đang phát triển mục tiêu ưu tiên là sản lượng và việc làm nên. 1.3. Trình bày một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng và vai trò của việc xác định các chỉ tiêu đó trong phân tích kinh tế vĩ mô. 1.3.1. Một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng. Ở đây ta chỉ xem xét về tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vì nó là thước đo của một nền kinh tế. * Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) GNP là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong 1 thời kỳ (1 năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. GNP đánh giá kết quả của hàng triệu giao dịch và hoạt động kinh tế do công dân của một nước tiến hành trong một thời kỳ nhất định đó chính là con số đạt được khi dùng thước đo tiền tệ để tính toán giá trị của các hàng hoá khác nhau mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh. Chính phủ mua sắm và sử dụng trong một thời gian đã cho. Những hàng hoá và dịch vụ đó là: + Các hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng của các hộ gia đình. + Các thiết bị nhà xưởng mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh. + Nhà mới xây dựng. + Hàng hoá và dịch vụ mà các cơ quan quản lý Nhà nước mua sắm. + Sự chênh lệch giữa hàng xuất khẩu và nhập khẩu. GNP có cặp khái niệm GNP thực tế và GNP danh nghĩa. GNP danh nghĩa (GNPn): Đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả ở một thời kỳ lấy làm gốc. Cầu nối giữa GNPn và GNPr là chỉ số lạm phát (D). Hay GNPr: Phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế. GNPn: Phân tích mối quan hệ tài chính, ngân hàng. * Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). - GDP là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, trong một thời kỳ nhất định (một năm). GDP là kết quả của hàng triệu giao dịch và hoạt động kinh tế xảy ra bên trong lãnh thổ đất nước. Những hoạt động này có thể do Công ty doanh nghiệp của công dân nước đó hay nước ngoài. Nhưng DGP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài. Ta có mối liên hệ giữa GDP và GNP như sau: GNP = GDP + Thu nhập Nhưng DGP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài. Ta có mối liên hệ giữa GDP và GNP như sau: GNP = GDP + Thu nhập ròng tài sản từ nước ngoài. Thu nhập ròng tài sản từ nước ngoài = (Khoản thu - khoản chi) từ nước ngoài. * Khoản thu từ nước ngoài: Do đầu tư ra nước ngoài bao gồm: - Thu tiền công lao động (do xuất khẩu lao động). - Thu từ lãi cổ phần (do xuất khẩu vốn). - Từ lợi nhuận (do đặt cơ sở sản xuất ở nước ngoài). * Khoản chi trả cho nước ngoài do nước ngoài đầu tư vào bao gồm: - Chi trả tiền công lao động. - Trả lãi cổ phần. - Trả lợi nhuận cho những Công ty ở nước ngoài đặt cơ sở sản xuất ở trong nước. 1.3.2. Vai trò của GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô. GNP hay GDP là những thước đo tốt nhất về thành tựu kinh tế của một đất nước. GNP hay GDP thường được sử dụng để phân tích những biến động về sản lượng của một đất nước trong thời gian khác nhau. Trường hợp này ta tính tốc độ tăng trưởng của GNP hay GDP thực tế nhằm loại trừ sự biến động của giá cả. GNP và GDP còn được sử dụng để phân tích sự thay đổi về mức sống của dân cư. Lúc này ta tính chỉ tiêu GNP và GDP bình quân đầu người. GDP bình quân đầu người = GDP Dân số GNP bình quân đầu người = GNP Dân số Mức sống của dân cư một nước phụ thuồc vào số lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà họ sản xuất ra và quy mô dân số của nước đó sự thay đổi về GNP hay GDP bình quân đầu người phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số và năng suất lao động. Nói cách khác, mức sống dân cư của một nước phụ thuộc vào đất nước đó giải quyết vấn đề dân số trong mối quan hệ với năng suất lao động như thế nào. Sự khác nhau giữa GNP bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người. - GNP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra và tính bình quân cho một đầu người. 1.4. Trình bày các vấn đề liên quan đến thất nghiệp phân tích các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. 1.4.1. Các vấn đề liên quan đến thất nghiệp . Để có cơ sở xác định được thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp cần biết được một vài khái niệm sau: - Những người trong độ tuổi lao động là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định đã ghi trong hiến pháp. - Người có việc làm là những người đang làm cho cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội... - Người thất nghiệp là những người đang chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm. * Tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động . Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của một quốc gia. * Các loại thất nghiệp. - Theo loại hình thất nghiệp. + Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ) + Thất nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi - nghề) + Thất nghiệp chia theo vùng, lãnh thổ (thành thị, nông thôn). + Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc + Thất nghiệp chia theo ngành nghề (ngành kinh tế, ngành hàng, nghề nghiệp). - Theo lý do thất nghiệp. + Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khó khăn trong kinh doanh. + Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác). + Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. - Theo nguồn gốc thất nghiệp. + Thất nghiệp tạm thời. + Thất nghiệp cơ cấu + Thất nghiệp do thiếu cầu + Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường. * Một số nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên. - Khoảng thời gian thất nghiệp: Nếu mỗi người phải chờ đợi quá nhiều thời gian mới tìm được việc thì trong mỗi thời kỳ nào đó số lượng người thất nghiệp trung bình tăng lên. Thời gian chờ đợi nói trên gọi là "Khoảng thời gian thất nghiệp", và nó phụ thuộc vào: + Cách thức tổ chức thị trường, lao động. + Cấu tạo nhân khẩu của người thất nghiệp (Tuổi đời, tuổi nghề, ngành nghề). + Cơ cấu các loại việc làm và khả năng có sẵn việc. - Tần số thất nghiệp: Là tần số trung bình 1 người lao động bị thất nghiệp trong một thời kỳ nhất định (ví dụ: trong 1 năm bị thất nghiệp 2 lần). Tần số thất nghiệp phụ thuộc vào. + Sự thay đổi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp. + Sự gia tăng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động. Học thấp tỷ lệ tăng dân số và ổn định kinh tế là hướng đi quan trọng giữ cho tần số thất nghiệp ở mức thấp. 1.4.2. Các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. Muốn giảm bớt thất nghiệp thì xã hội cần phải có thêm nhiều việc làm đa dạng hơn có mức tiền công tốt hơn, đồng thời phải đổi mới thị trường lao động để đáp ứng kịp thời nhanh chóng yêu cầu của cả doanh nghiệp và người lao động. Ở những nước đang phát triển lực lượng lao động luôn dồi dào tuy nhiên thiếu vốn thiếu đầu tư. Vì vậy việc hỗ trợ của Nhà nước hoặc các tổ chức kinh tế qua các dự án việc làm là rất cần thiết. Bên cạnh việc đầu tư vào cơ sở vật chất còn phải tăng cường các chương trình dạy nghề và tổ chức lại thị trường lao động. Thất nghiệp đồng nghĩa với tình trạng giảm mức sống và tăng sức ép về mặt tâm lý. Các chính sách mở rộng tài chính và tiền tệ sẽ làm giảm thất nghiệp, phục hồi kinh tế. 1.5. Phân tích mối quan hệ giữa mục tiêu sản lượng và mục tiêu việc làm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp theo quy luật OKUN như sau: Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, khi sản lượng thực tế của một năm cao hơn sản lượng tiềm năng của năm đó 2,5% thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1% so với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Các nghiên cứu cho thấy giữa tăng trưởng, tổng sản phẩm và thất nghiệp có mối quan hệ cố hữu với nhau. Tăng trưởng nhanh, thất nghiệp giảm và ngược lại. Đó là về lao động được sử dụng vào quá trình sản xuất càng nhiều sản lượng càng tăng nhanh. Theo OKUN ta gọi: DU: là tỷ lệ thất nghiệp giảm đi. a*: là tốc độ tăng thêm của sản lượng tiềm năng. a: là tốc độ tăng thêm của sản lượng thực tế. Thì ta có: - Khi a > a* một lượng 2,5% thì DU = -1%. Vậy khi a>a* một lượng (a-a*) % thì thất nghiệp thực tế giảm đi một lượng là: DU = (a-a*)/2,5. Vì vậy việc đề ra mục tiêu và thực hiện mục tiêu về sản lượng sẽ liên quan đến mục tiêu việc làm. Khi đạt mục tiêu sản lượng ta xem đến việc đội ngũ lao động ở đó là như thế nào, có nghĩa là: có bao nhiêu người, trình độ lao động lành nghề ra sao, hay điều kiện làm việc họ có thể làm tăng ca, thêm giờ hay không. Hoặc khi ta có một lực lượng lao động là cho trước thì ta sẽ có thể đặt ra được mục tiêu sản lượng là bao nhiêu để không gây ra tình trạng công nhân lao động không có việc để làm. CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU SẢN LƯỢNG VÀ VIỆC LÀM CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2005 - 2008 2.1. Nhận xét chung về tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam để đưa ra lý do phải thực hiện mục tiêu sản lượng và việc làm trong thời kỳ 2005 - 2008. Đất nước ta xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa từ nghèo nàn, vì phải gánh chịu hậu quả của 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ để lại. Nền kinh tế của Việt Nam sau hoà bình (1975) bị tụt hậu so với thế giới hàng chục năm. Sau hơn 30 năm khắc phục hậu quả chiến tranh kinh tế Việt Nam đã từng bước phát triển, đã có những bước tiến vượt bậc. Việc mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là việc làm đúng đắn của chính phủ. Sự phát triển rộng khắp của các vùng kinh tế trọng điểm ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam đã phần nào giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động với sự chuyên môn hoá và hiện đại hoá cao. Sau bao nỗ lực, cố gắng Việt Nam đã được trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới voà tháng 1 năm 2007 là: điều kiện thuận lợi cho kinh tế Việt Nam phát triển theo nền kinh tế thị trường. Tốc độ tăng GDP của Việt Nam từ 2001 - 2004 tăng từ 6,79% - 7,69% được đánh giá là ở mức tăng trưởng cao. Nhờ vậy đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam còn kém nhưng nó đang dần được cải thiện. Kinh tế giữa các vùng miền phần nào giảm bớt được sự chênh lệch. Nhà nước đã có sự quan tâm và đầu tư đến cùng sâu, miền núi, hải đảo. Trong công nghiệp xuất hiện nhiều khu công nghiệp, còn trong nông nghiệp xuất hiện nhiều cùng chuyên canh nuôi trồng và đã cho hiệu quả và năng suất cao. Các ngành du lịch và dịch vụ đã có sự đầu tư để phát huy tiềm năng. Đất nước ta tuy đã được hoà bình nhưng bên cạnh đó vẫn còn những thế lực thù địch luôn nhòm ngó. Tuy nhiên Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã cố gắng và đang xây dựng nước Việt Nam với kinh tế hội nhập và phát triển và chính trị ổn định, là điều kiện lý tưởng cho các nhà đầu tư vào Việt Nam. Với nền kinh tế đang từng ngày phát triển mạnh mẽ và quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu, việc tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 2005 - 2008 tăng là có thể được và thực sự Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc giải quyết khâu việc làm cho người lao động. Đất nước Việt Nam với cơ cấu dân số trẻ là điều kiện có được lực lượng lao động dồi dào, cần cù lao động. Tuy nhiên họ lại chưa có tay nghề do vậy mà cần phải có biện pháp đào tạo nghề cho người lao động. Bên cạnh đó trật tự về an toàn giao thông có sự tiến bộ, ý thức tham gia giao thông của người dân được nâng cao. An ninh quốc phòng được giữ vững trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác kiểm soát tốc độ tăng dân số và nâng cao chất lượng dân số, giám sát về vệ sinh an toàn thực phẩm, được tăng cường nên đã có những bước phát triển mạnh mẽ. 2.2 Trình bày các chính sách mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để thực hiện hai mục tiêu trên. Để có được tốc độ tăng trưởng cao như vậy và mục tiêu tăng trưởng ở mức P trên 8% một năm trong thời kỳ 2006 - 2008 chính phủ Việt Nam đã có những bước đi đúng đắn, những chính sách kịp thời hợp lý. Tư tưởng chủ đạo của chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 là chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. - Tạo việc làm cho khoảng 15 triệu lao động bình quân mỗi năm khoảng 1,5 triệu. - Giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống dưới 6% vào năm 2005 và dưới 5% vào 2010. - Mở các trường đào tạo nghề để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo là 30%. Nhà nước tạo điều kiện thông thoáng, đơn giản về pháp luật cho nước ngoài đầu tư vào Việt Nam do vậy mà cho đến nay cả nước có khoảng 150 khu công nghiệp, trong đó có hơn 110 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Ngoài ra chính phủ Việt Nam còn khuyến khích phát triển kinh tế vừa và nhỏ nên các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân phát triển mạnh. Đây là cơ sở góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động hạn chế các tệ nạn xã hội xảy ra. Bên cạnh đó, quỹ Quốc gia giải quyết việc làm cũng có vai trò quan trọng thúc đẩy tạo việc làm. Từ 2001 - 2005 quỹ cho vay gần 100.000 dự án lớn nhỏ góp phần hỗ trợ cho công nhân. Chính phủ Việt Nam còn mở rộng ra với thị trường lao động nước ngoài bằng cách ký các hợp đồng xuất khẩu lao động giúp cho người dân có thêm điều kiện lao động. Ngoài ra tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động có đủ điều kiện đi lao động nước ngoài như đào tạo, người lao động, cho người lao động vay vốn... Đến nay lao động Việt Nam đã có mặt ở trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghề các loại. Đồng hành cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người đông thì chính phủ phải hoàn thiện kịp thời hệ thống pháp luật về lao động, bổ sung sửa đổi luật lao động cho phù hợp với tình hình mới còn luật dạy nghề, luật bảo hiểm xã hội. Tạo điều kiện cho việc khôi phục và phát triển các làng nghề có lợi thế. Việc phát triển các làng nghề một phần giải quyết được khâu lao động lúc nông dân ở vùng nông thôn. Cung cấp kịp thời và đầy đủ thông tin về việc đào tạo nghề, tuyển dụng lao động giúp cho người lao động có đầy đủ thông tin tìm kiếm việc làm, có hình thức giáo dục pháp luật giúp người lao động hiểu rõ hơn về quyền hạn và trách nhiệm của mình đồng thời có ý thức hơn trong quá trình lao động. Trong lĩnh vực chính sách chính phủ đã hoạch định một chiến lược cải cách ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển đổi thành ngân hàng trung ương tiên tiến với năng lực quản lý các chính sách tiền tệ và giám sát các tổ chức tài chính. Đã có những động thái nhằm cải thiện các công tác quản lý kinh doanh và điều tiết thị trường. Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán đã được thông qua. Chứng khoán là một ngành mới ở Việt Nam nên chính phủ Việt Nam phải có những bước tiến vượt bậc để có thể phát triển kịp thời vùng với thế giới. Kiểm soát và có biện pháp xử lý kịp thời giữ ổn định hệ thống tài chính, tín dụng bảo đảm được khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng. Công tác tuyên truyền cho người dân sống và làm việc theo pháp luật được mở rộng. Chính phủ đã chỉ đạo cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ đời sống người nghèo, người có thu nhập thấp, đặc biệt là đồng bào ở những vùng bị thiên tai, tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo. Bên cạnh những hướng đi đúng, những chính sách tích cực chính phủ vẫn còn, bộc lộ những yếu kém như công tác thanh tra kiểm tra chưa tốt xử lý chưa nghiêm nên trong xã hội còn có hiện tượng tham nhũng. Đầu tư hỗ trợ của Nhà nước chưa đến người dân hoặc có đến được thì còn chậm. Công tác rà soát, giảm đầu tư công, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước còn chậm trễ và hiệu quả chưa cao. Các thủ tục pháp lý tuy đã được cải cách nhưng vẫn còn rườm rà nhiều khâu. 2.3. Thu thập số liệu về GNP (GDP), tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam thời kỳ 2005 - 2008. Năm Tổng thu nhập quốc gia (tỷ đồng) Chia ra Tỷ lệ tổng thu nhập, quốc gia so với tổng sản phẩm trong nước (%) Tổng sản sản phẩm trong nước (tỷ đồng) Thu nhập thuần tuý từ nước ngoài (tỷ đồng) 2005 822.432 839.211 -16.779 98,0 2006 953.232 974.266 -21.034 97,8 2007 1.112.892 1.144.014 -31.123 97,3 * Tỷ lệ tăng trưởng. Năm 2005 2006 2007 Tỷ lệ 8,4 8,2 8,5 Năm * Tỷ lệ thất nghiệp theo vùng. Các vùng: Năm Các vùng 2005 2006 2007 Cả nước 5,31 4,82 4,64 Đồng bằng sông Hồng 5,61 6,42 5,74 Đông Bắc 5,12 4,32 3,97 Tây Bắc 4,91 3,89 3,42 Bắc Trung Bộ 4,98 5,50 4,92 Duyên hải Nam Trung Bộ 5,52 5,36 4,99 Tây Nguyên 4,23 2,38 2,11 Đông Nam Bộ 5,62 5,47 4,83 Đồng Bằng sông Cửu Long 4,87 4,52 4,03 2.4. Phân tích số liệu thu thập được và trình bày quan điểm của mình về cách sử dụng chính sách nhằm vào mục tiêu sản lượng và việc làm. 2.4.1. Phân tích số liệu thu thập được. * Về thu nhập. Nhìn chung tổng thu nhập của Việt Nam thời kỳ 2005-2007 tăng lên. Đó là kết quả tất yếu của một nền kinh tế đang phát triển. Tổng sản phẩm trong nước tăng là do kinh tế Việt Nam phát triển về mọi mặt công nghiệp nông nghiệp, dịch vụ nên kéo theo thu nhập tăng lên. Chính phủ Việt Nam đã có những bước đi đúng đắn trong việc chuyển dịch cơ cấu của các lĩnh vực nên tổng sản phẩm trong nước ngày càng tăng. Tuy nhiên thu nhập thuần tuý từ nước ngoài mang dấu âm thể hiện Việt Nam vẫn là nước nhập siêu. Kinh tế càng phát triển đòi hỏi về các trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu, điều kiện sản xuất càng cao nhưng hàng hoá của Việt Nam đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu ra nước ngoài còn hạn chế. Hoặc là điều kiện trong nước chưa có đủ để sản xuất những mặt hàng mang tính trí tuệ trong khi đó ta lại phải mua vào với giá thành cao còn sản phẩm bán ra lại giá thành rẻ do vậy chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn cao. * Tỷ lệ tăng trưởng. Tỷ lệ tăng trưởng của nước ta trong những năm qua không chênh nhau là mấy nguyên nhân là do đất nước ta đã qua thời kỳ mới lạ bước vào hội nhập kinh tế thế giới. Trong những năm đó Việt Nam đã có tiền đề từ trước cứ như vậy mà phát triển kinh tế. Đây được coi là tốc độ tăng trưởng vào hàng cao của khu vực cũng như trên thế giới. Mức độ tăng trưởng cao là dấu hiệu đáng mừng về một nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh. Tuy nhiên tăng trưởng của nước ta vào năm 2008 chỉ ở khoảng tiếng 7% (sơ bộ). Có sự giảm sút như vậy là do điều kiện khách quan của cuộc khủng hoảng của kinh tế thế giới mà đứng đầu là nền kinh tế Mỹ. Tuy vậy tình hình lạm phát đã phần nào được phục hồi, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đang dần tăng trưởng trở lại. Chúng ta tin tưởng vào một nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trưởng cao hơn nữa. Qua sự kiện kinh tế Mỹ khủng hoảng làm mức độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng giảm rút ra cho Chính phủ một bài học là nước ta chưa có chủ động trong việc sản xuất, còn phụ thuộc quá nhiều từ bên ngoài, từ đó chính phủ Việt Nam cần có sự chru động hơn nữa trong các chính sách kinh tế. * Tỷ lệ thất nghiệp. Nhìn vào bảng cho ta thấy được rằng tỷ lệ thất nghiệp của các vùng miền cũng như của cả nước giảm 5,31% xuống 4,64% từ 2005 - 2007. Tỷ lệ này giảm là do: nhu cầu lao động trong nước ngày càng tăng. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng do cơ chế thông thoáng của chính phủ Việt Nam -> tạo ra được nhiều khu công nghiệp, đây là nơi thu hút một lượng lớn số lao động. Không có sự chênh lệch nhiều về tỷ lệ thất nghiệp của các vùng miền là do sự phân bố lại dân cư, có sự chuyên môn hoá hợp lý. Ví dụ ở nước ta, Đông Nam Bộ là vùng phát triển công nghiệp mạnh nhất, giá trị công nghiệp chiếm tới 55,6% cả nước (năm 2005). Trong khi đó Đồng Bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm sản xuất lương thực chiếm 40,7% cả nước. Tỷ lệ thất nghiệp giảm còn do mô hình kinh tế sản xuất vừa và nhỏ như sản xuất theo mô hình làng nghề, tư nhân thu hút mộ lượng lớn lao động. Mà các mô hình này không đòi hỏi người lao động phải được đào tạo căn bản, lâu dài điều kiện này phù hợp với trình độ của người lao động Việt Nam. Đời sống của người lao động được nâng cao, họ ngày càng được quan tâm đầy đủ hơn, các chế độ tiền lương, tiền thưởng khuyến khích cho hăng hái lao động không có ý định bỏ nghề vì thấy chán nản hay quyền lợi của họ được nâng cao hơn. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn còn gay gắt. Thu nhập của Việt Nam ngày càng tăng do ở nước ta đã hình thành các vùng động lực kinh tế, vùng chuyên canh và các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất có quy mô lớn. Nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời như viễn thông, tư vấn, đầu tư, chuyển giao công nghệ... đã góp phần không nhỏ vào sản lượng quốc gia. Nền nông nghiệp đã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu mùa vụ có sự thay đổi, các giống cây, giống con đã có sự chuyển đổi cho sản lượng cao. Có sự liên kết giữa công nghiệp và nông nghiệp đặc biệt nông nghiệp với công nghiệp chế biến. 2.4.2. Quan điểm về cách sử dụng chính sách về mục tiêu sản lượng và việc làm. Để đạt mục tiêu sản lượng ngày càng tăng kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ngành công nghiệp cần phát triển theo hướng sau đây: Xây dnựg cơ cấu ngành công nghiệp tương đối linh hoạt, thích nghi với cơ chế thị trường, phù hợp với tình hình phát triển thực tế của đất nước. Đầu tư theo chiều sâu, đổi mới trang thiết bị và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Do vậy chính phủ cần khuyến khích hơn nữa đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam vì họ có vốn, có kỹ thuật tiên tiến để có thể tăng năng suất lao động đi đôi với việc tăng sản lượng. Bên cạnh đó sản xuất nông nghiệp phải có sự thay đổi, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất, phát triển các vùng chuyên canh có quy mô lớn. Đa dạng hoá trong nông nghiệp tức là đa dạng hoá cả về chăn nuôi và trồng trọt để nâng cao số lượng cây trồng và tăng sản lượng v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmuc_tieu_san_luong_v_viec_lam_cua_vn_1685.doc
Tài liệu liên quan