Đề tài Đầu tư phát triển nguồn nhân lực và thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay

- Giáo dục đại học và sau đại học (trong Luật gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ. Ngoài ra, bên cạnh hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam thì còn có các cơ sở giáo dục khác đóng góp vào phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Các cơ sở giáo dục khác bao gồm: (i) nhóm trẻ, nhà trẻ; (ii) các lớp độc lập: lớp mẫu giáo, lớp xoá mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho trẻ em vì hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật, khuyết tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; (iii) trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng; (iv) viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ.

Hệ thống giáo dục Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong mấy thập kỷ vừa qua. Việt Nam là nước có thành tựu đáng kể về giáo dục so với nhiều nước có thu nhập tính theo đầu người tương đương và có cùng trình độ phát triển. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày một tăng. Năm học 2005 - 2006, đã có hơn 22,5 triệu học sinh, sinh viên theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo. Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ năm học 2005, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi trên 15 tuổi là 90.3. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh. Phổ cập giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các vùng miền trong cả nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần lớn các nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục những sự chênh lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi. Nếu đem phân tích các chỉ số hợp thành trong chỉ số phát triển con người (HDI) chung, các chỉ số liên quan tới giáo dục phổ thông của Việt Nam so với các nước khác thường đạt ở mức cao thứ tự 105 là chỉ số HDI.

 

doc44 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1790 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển nguồn nhân lực và thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3/2009/NĐ-CP ngày 06/4/2009 của Chính phủ, mức lương tối thiểu đã tăng 20%, từ 540 nghìn đồng/tháng lên 650 nghìn đồng/tháng; trợ cấp hàng tháng của những đối tượng hưởng lương hưu tăng thêm 5%. Ngoài ra, trong 4 tháng đầu năm, cán bộ, công chức, viên chức có hệ số lương dưới 3,0 được phụ thêm 90 nghìn đồng mỗi tháng. Thu nhập bình quân tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 bình quân đạt 3084,8 nghìn đồng, tăng 14,2% so với năm 2008, trong đó thu nhập của lao động trung ương đạt 3979,1 nghìn đồng, tăng 16,1%; địa phương đạt 2532,9 nghìn đồng, tăng 13%. Nhờ các chính sách nêu trên và đặc biệt là sản xuất nông nghiệp năm nay đạt kết quả khá; giá lương thực, thực phẩm tăng có lợi cho nông dân; các doanh nghiệp duy trì và phát triển được sản xuất kinh doanh nên đời sống của nhân dân, đặc biệt là những người thu nhập thấp, người làm công ăn lương cũng đỡ khó khăn hơn. Do vậy, tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2009 ước tính 12,3%, thấp hơn mức 14,8% của năm 2007 và mức 13,4% của năm 2008. 2.2 Đầu tư cho y tế : Tình hình dịch bệnh năm 2009 diễn biến tương đối phức tạp. Bên cạnh một số dịch bệnh nguy hiểm như sốt xuất huyết, sốt rét, cúm A (H5N1), còn xuất hiện thêm dịch cúm A (H1N1) với mức độ lây lan nhanh chóng trong cộng đồng. Tính từ đầu năm, cả nước đã có 93,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (81 trường hợp tử vong); 48,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét (19 trường hợp tử vong); 7,4 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; gần 900 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (17 trường hợp tử vong); 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh thương hàn và 7 trường hợp tử vong do virút cúm A (H5N1). Tính đến ngày 28/12/2009 cả nước đã có 11,1 nghìn trường hợp nhiễm cúm A (H1N1), trong đó 53 trường hợp tử vong. Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS tại các địa phương vẫn gia tăng. Tính từ ca phát hiện đầu tiên cho đến ngày 21/12/2009, trên địa bàn cả nước đã có 203,6 nghìn trường hợp nhiễm HIV, trong đó 80 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 44,5 nghìn người đã tử vong do AIDS. 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Chi sự nghiệp y tế 3,17 3,24 3,14 2,96 2,81 2,90 3,74 4,11 5,05 Vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất và kinh doanh dịch vụ trong năm 2009 nhìn chung chưa được cải thiện. Tình trạng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn tiếp tục xảy ra tại nhiều địa phương. Đáng chú ý là hầu hết các lĩnh vực liên quan đến sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm khi kiểm tra đều phát hiện những sai phạm nghiêm trọng. Vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe và tính mạng của người dân. Tính đến 21/12/2009, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 84 vụ ngộ độc thực phẩm với 3,9 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 17 người đã tử vong. Do vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe, tăng cường thể chất cho các thế hệ người Việt Nam luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta.  Để thực hiện việc này, nhà nước đã ban hành Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân (1989), Điều lệ khám bệnh, chữa bệnh, phục hổi chức năng (1991), cũng như nhiều văn kiện khác về chăm sóc sức khỏe  cho các tầng lớp nhân dân (như cho phụ nữ, trẻ em). Việc thực thi những chính sách chủ trương, biện pháp được nêu trong các văn kiện đó những năm qua đưa lại những kết quả thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, nâng cao một bước chất lượng dân số nước ta. 2.3 Đầu tư cho hệ thống giáo dục và đào tạo Tính đến hết tháng 8/2009, cả nước có 376 trường đại học, học viện và trường cao đẳng, bao gồm 150 trường đại học, học viện và 226 trường cao đẳng. Cả nước đã có 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trường đại học, cao đẳng (Đắk Nông là tỉnh duy nhất chưa xây dựng trường đại học, cao đẳng). Số sinh viên đại học, cao đẳng năm học 2008-2009 là 1,72 triệu sinh viên, tăng 7% so với năm học trước, đạt chỉ tiêu 200 sinh viên/1 vạn dân, sớm hơn kế hoạch đề ra 1 năm; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 625,8 nghìn học sinh, tăng 1,8%. Ước tính năm học 2009-2010, cả nước có 1,3 triệu sinh viên đại học, tăng 2,2% so với năm học 2008-2009; 530 nghìn sinh viên cao đẳng, tăng 11,1% và 650 nghìn học sinh trung cấp chuyên nghiệp, tăng 3,8%. Công tác đào tạo nghề được tập trung đầu tư nên năm 2009 các cơ sở dạy nghề đã tuyển được 1645 nghìn lượt người, vượt 0,3% kế hoạch đề ra. Ngày 27/11/2009, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; theo đó mỗi năm sẽ đào tạo 1 triệu lao động với tổng kinh phí thực hiện Đề án là 25980 tỷ đồng. Giai đoạn I của Đề án thực hiện năm 2009-2010, đào tạo 800 nghìn lao động; đồng thời thí điểm các mô hình đào tạo nghề cho 18 nghìn lao động khác. Mỗi lao động nông thôn trong diện đào tạo được hỗ trợ phí đào tạo nghề ngắn hạn (dưới 3 tháng) với mức tối đa 3 triệu đồng/người/khoá và được hỗ trợ tiền ăn, chi phí đi lại. Theo luật giáo dục của Việt nam năm 2005 thì hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân (xem sơ đồ hình 2 ở dưới) bao gồm: - Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; - Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; - Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; - Giáo dục đại học và sau đại học (trong Luật gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ. Ngoài ra, bên cạnh hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam thì còn có các cơ sở giáo dục khác đóng góp vào phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Các cơ sở giáo dục khác bao gồm: (i) nhóm trẻ, nhà trẻ; (ii) các lớp độc lập: lớp mẫu giáo, lớp xoá mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho trẻ em vì hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật, khuyết tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; (iii) trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng; (iv) viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ. Hệ thống giáo dục Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong mấy thập kỷ vừa qua. Việt Nam là nước có thành tựu đáng kể về giáo dục so với nhiều nước có thu nhập tính theo đầu người tương đương và có cùng trình độ phát triển. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày một tăng. Năm học 2005 - 2006, đã có hơn 22,5 triệu học sinh, sinh viên theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo. Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ năm học 2005, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi trên 15 tuổi là 90.3. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh. Phổ cập giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các vùng miền trong cả nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần lớn các nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục những sự chênh lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi. Nếu đem phân tích các chỉ số hợp thành trong chỉ số phát triển con người (HDI) chung, các chỉ số liên quan tới giáo dục phổ thông của Việt Nam so với các nước khác thường đạt ở mức cao thứ tự 105 là chỉ số HDI. 2.3.1 Giáo dục bậc mầm non : Đầu tư hơn 2.600 tỷ đồng phát triển giáo dục mầm non : Số tiền trên sẽ dành đầu tư cho các chương trình, dự án và công việc để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2006 - 2010 của “Đề án phát triển giáo dục mầm non 2006 - 2015”. Thông tin này được công bố trong buổi họp báo sáng nay 19/9 tại Hà Nội. Mục tiêu của Đề án là đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non, phấn đấu có 80% giáo viên đạt chuẩn  trình độ vào năm 2010; củng cố mở rộng mạng lưới trường lớp, nâng tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi đến nhà trẻ; nâng tỷ lệ các cơ sở giáo dục mầm non đạt chuẩn quốc gia từ 9% năm 2005 lên 20% năm 2010; củng cố và hoàn thiện các cơ sở giáo dục mầm non ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.  Số tiền 2.614 tỷ đồng này là tiền trong Ngân sách chung (không bao gồm ngân sách chi thường xuyên) sẽ thực hiện trong giai đoạn 2006 - 2010 với 3 mục đích: Cho khu vực công lập; Chi cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; Xây dựng trường học cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế.  Ngoài ra, dự án còn ưu tiên đào tạo thêm 3000 giáo viên vùng dân tộc thiểu số.  Bắt đầu từ năm 2006 - 2008, cơ bản sẽ chuyển các trường mẫu giáo bán công thuộc diện quy định trong Nghị định hướng dẫn thi hành trong luật giáo dục 2005 sang loại hình công lập. Từ năm 2006 - 2010, cơ bản chuyển xong các trường bán công không thuộc diện trên sang loại hình dân lập, tư thục.  2.3.2 Đầu tư cho giáo dục phổ thông : Trong 5 năm qua, số lượng học sinh ở bậc trung học tiếp tục tăng, ở bậc tiểu học giảm dần và đi vào ổn định. Tổng số học sinh phổ thông năm học 2003-2004 là 17,6 triệu. Đáng chú ý là tốc độ tăng số lượng học sinh ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cao hơn các vùng khác, thể hiện những cố gắng khắc phục tình trạng chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Số lượng trường phổ thông tăng mạnh ở tất cả các cấp, bậc học và ở hầu hết các vùng, miền ở các vùng khó khăn đang triển khai tích cực việc xóa phòng học tranh tre và kiên cố hóa trường, lớp. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS chuyển biến còn chậm. Khối lượng kiến thức cơ bản của học sinh phổ thông hiện nay lớn hơn và rộng hơn so với trước đây, nhất là về các môn khoa học tự nhiên, toán, tin học, ngoại ngữ. Chương trình ở một số môn học đã tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực. Học sinh Việt Nam đi du học đều được vào thẳng các cấp học tương đương, phần lớn lưu học sinh đều học tốt. Việc đào tạo học sinh giỏi có nhiều thành tích và được các nước đánh giá cao; nhiều học sinh Việt Nam đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế. Tuy nhiên, kiến thức xã hội, kỹ năng thực hành và vận dụng kiến thức, tính linh hoạt, độc lập và sáng tạo của đa số học sinh còn yếu. Có sự chênh lệch khá rõ về trình độ học sinh giữa các vùng, miền. Học sinh phổ thông, nhất là ở thành phố, phải học tập căng thẳng, ngay từ bậc tiểu học do phải chịu nhiều áp lực của các kỳ thi, đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh vào đại học (ĐH). Đa số học sinh có cố gắng chăm chỉ học tập và rèn luyện, song vẫn còn một bộ phận, nhất là học sinh THPT, còn có thái độ thiếu trung thực trong học tập; một số rơi vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Số lượng giáo viên và tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tăng đáng kể trong 5 năm qua .Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên phổ thông hiện vẫn ở trong tình trạng “vừa thiếu, vừa thừa”; thiếu giáo viên THPT, THCS ở các vùng khó khăn, thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, công nghệ, tin học...và thiếu cán bộ về thiết bị, hướng dẫn thực hành, phụ trách thư viện. Ở một số tỉnh miền núi và miền Tây Nam Bộ còn một tỷ lệ khá cao giáo viên tiểu học lớn tuổi có trình độ thấp so với yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Đa số giáo viên chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Một bộ phận giáo viên còn thiếu gương mẫu, thậm chí sa sút về đạo đức nghề nghiệp. Cơ sở vật chất đã được tăng cường so với trước. Trong vòng 3 năm qua đã có thêm 40.000 phòng học, trong đó tỷ lệ phòng học cấp 4 và kiên cố đã tăng từ 84,3% lên 89,3%. Sách cho thư viện và thiết bị dạy học trong trường phổ thông đã được bổ sung đáng kể. Tuy vậy, phần lớn các trường hiện nay chưa có phòng bảo quản thiết bị, phòng thực hành, phòng thí nghiệm, nhất là ở miền núi và nông thôn. Việc thực hiện học 2 buổi/ngày  ở phổ thông, trước hết ở tiểu học còn chậm do thiếu phòng học, giáo viên và kinh phí trả lương cho giáo viên. Việc xây dựng trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia còn chậm và gặp nhiều khó khăn, thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm và đặc biệt là thiếu diện tích đất. Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội, chương trình tiểu học và THCS đã chính thức được ban hành; SGK mới đã được triển khai đại trà ở 6 khối lớp: lớp 1, 2, 3 và lớp 6, 7, 8 trên toàn quốc đúng mục tiêu và tiến độ đã đề ra. SGK mới đã tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, được đa số giáo viên và học sinh chấp nhận, bước đầu góp phần thay đổi cách dạy, cách học, cách đánh giá trong nhà trường. Tuy nhiên, có những phần trong một số cuốn SGK mới ở tiểu học và THCS còn nặng và khó, có chỗ còn sai sót. Bên cạnh đó, cần rút kinh nghiệm về quy trình tổ chức và cách huy động các nhà giáo, nhà khoa học tham gia vào các khâu biên soạn, thẩm định chương trình, SGK. Việc chuẩn bị điều kiện triển khai đại trà còn thiếu đồng bộ giữa đổi mới chương trình, SGK, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và đặc biệt là bồi dưỡng giáo viên. Ở THPT, việc thí điểm phân ban chỉ mới tiến hành được một năm, song còn có ý kiến đề nghị xem xét lại cách tổ chức phân ban để bảo đảm mục đích và hiệu quả. 2.3.3 Đầu tư cho giáo dục đại học, cao đẳng : Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần dần được đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam mặc dù có nhiều bất cấp và chất lượng còn thấp so với các quốc gia tiên tiến nhưng một mặt đã đáp ứng xu hướng thế giới là tiến tới phổ cập giáo dục đại học và đáp ứng nhu cầu xã hội. Đầu tư cho giáo dục tại Việt Nam tăng hàng năm. Ngân sách dành cho giáo dục chiếm một phần lớn trong tổng đầu tư của quốc gia, tăng hơn 20% mỗi năm, nhanh hơn tốc độc tăng trưởng của GDP 2,5 lần. Điều đáng chú ý là ngân sách nhà nước dành cho phát triển hệ thống trường đào tạo nghề tăng lên rõ rệt. So với tổng ngân sách đầu tư cho giáo dục hướng nghiệp năm 2001 thì năm 2007 tổng ngân sách đầu tư tăng lên gần 8 lần, từ 90 tỷ lên 700 tỷ đồng. Đầu tư từ ngân sách quốc gia cho loại hình đào tạo này tăng khoảng 40% hàng năm, 2 lần nhanh hơn tốc độ tăng của đầu tư cho giáo dục nói chung .Điều này chứng tỏ Việt Nam đã coi đào tạo nghề là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực và lực lượng lao động xã hội. Điều này cũng phản ánh qua chiến lược Công nghiệp hóa Hiện đại hóa là phải đẩy mạnh giáo dục đào tạo, trong đó có đào tạo kỹ thuật và dậy nghề. Các dự án ODA trong giáo dục đào tạo cũng đã dành phần lớn cho giáo dục cơ bản , giáo dục đại học và đang được triển khai với tổng vốn vay hàng trăm triệu USD. Các tổ chức tính dụng quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank) và ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã cho Việt Nam vay hàng trăm triệu đô la để mở rộng và nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam.Điển hình là các dự án tài trợ của ADB cho hệ thống giáo dục cơ bản và dự án nâng cấp chất lượng các 180rường đại học của Việt Nam do ngân hàng Thế giới tài trợ. Việt Nam cũng đang tiến hành một dự án đặc biệt "Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn" với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đi học. Điều đáng chú ý là ngân sách nhà nước dành cho phát triển hệ thống trường đào tạo nghề tăng lên rõ rệt. So với tổng ngân sách đầu tư cho giáo dục hướng nghiệp năm 2001 thì năm 2007 tổng ngân sách đầu tư tăng lên gần 8 lần, từ 90 tỷ lên 700 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ Việt Nam đã coi đào tạo nghề là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực và lực lượng lao động xã hội. Điều này cũng phản ánh qua chiến lược Công nghiệp hóa Hiện đại hóa là phải đẩy mạnh giáo dục đào tạo, trong đó có đào tạo kỹ thuật và dậy nghề. 2.3.4 Đào tạo giáo dục sau đại học: Để đào tạo và bồi dưỡng cán bộ từ trình độ đại học trở lên, đạt chuẩn quốc tế tại cơ sở nước ngoài trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội quan trọng, mỗi năm đề án 332 (Đề án “Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước”) tuyển 400 chỉ tiêu, trong đó 50% chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ, 25% đào tạo thạc sĩ, 15% đào tạo kỹ sư, cử nhân và 10% thực tập khoa học đi đào tạo ở nước ngoài. Đối tượng được cử đi đều là những cán bộ, sinh viên xuất sắc, trải qua các vòng thi tuyển và đáp ứng đủ yêu cầu ngoại ngữ. Theo thống kê năm 2005 của Bộ GD-ĐT, hiện có khoảng 38.000 du học sinh Việt Nam đang theo học tại hơn 20 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó gần 20% du học bằng ngân sách Nhà nước. 2.3.5 Đầu tư đào tạo dạy nghề : Ngân sách từ chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư cho dạy nghề từ nay đến năm 2010 dự kiến khoảng 7.000 tỉ đồng. Hệ thống các trường dạy nghề cũng sẽ được nâng cấp để đến năm 2010 có 40 trường chất lượng cao, 3 trường tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và có khoảng 7,5 triệu LĐ được qua đào tạo nghề. Trong những năm gần đây, số trường trung học chuyên nghiệp không tăng hoặc tăng không đáng kể. So với năm học 2005-2006, năm học 2006-2007 số trường dạy nghề giảm đi. Trước vấn đề này, đề án “Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015” với kinh phí khoảng 10.000 tỷ đồng, nhằm nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 50% vào năm 2010 và 75% năm 2015 của Chính phủ đã thể hiện quyết tâm xóa bỏ tình trạng “thừa thầy thiếu thợ “ hiện nay, tăng cường số lượng công nhân có tay nghề cao. Các cơ sở dạy nghề được phát triển theo quy hoạch rộng khắp trên toàn quốc, đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình đào tạo.Đến nay trong cả nước có 2052 cơ sở dạy nghề (trong đó có 62 trường cao đẳng nghề, 235 trường trung cấp nghề). Số lượng cơ sở dạy nghề tư thục tăng nhanh, đã có một số cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện có 789 cơ sở dạy nghề công lập. 2.4 Đầu tư tạo việc làm. Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế phát triển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách thiết thực hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của chính phủ và sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, trong những năm qua công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả khả quan. 2.5 Đầu tư phát triển đào tạo nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. 2.5.1. Đầu tư cho tiền lương người lao động Để bảo vệ quyền lợi của người lao động trước chủ lao động, Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới đều quy định định mức lương tối thiểu cho lao động. Khác với các nước trên thế giới áp dụng một mức lương tối thiểu chung cho cả nước thì chúng ta phân biệt mức lương tối thiểu ở doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự chênh lệch về mức lương tối thiểu giữa 2 khu vực này tạo ra lợi thế tương đối về chi phí của doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Đây là sự ưu đãi của chính phủ dành cho các doanh nghiệp trong nước khi sức cạnh tranh của chúng còn yếu, tuy nhiên 2 mức lương tối thiểu này sẽ dần được tăng lên theo hướng mức tăng ở doanh nghiệp trong nước tăng nhanh hơn mức tăng ở doanh nghiệp FDI. Dự kiến đến năm 2012, 2 mức lương này sẽ được thống nhất theo cam kết của Việt Nam gia nhập WTO. Lương tối thiểu ở Việt Nam có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh. Nếu như ở các nước, lương tối thiểu gắn với yếu tố lạm phát, thường được điều chỉnh kịp thời dựa trên những thay đổi về chỉ số giá sinh hoạt, thì ở Việt Nam, lương tối thiểu còn là cơ sở để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc. Mục đích của nhà nước là  rất rõ ràng, đó là tạo ra sự công bằng hơn cho tất cả mọi đối tượng hưởng lương, nhưng điều đó lại tạo ra sự mất linh hoạt trong cơ chế điều chỉnh lương, đặt lên vai ngân sách nhà nước một gánh nặng quá lớn. Mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày 1/1/2010 : - Đối với doanh nghiệp nhà nước : Mức 980.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I (các quận nội thành thuộc Hà Nội và TPHCM). Mức 880.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II Mức lương tối thiểu 810.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III. Mức lương tối thiểu 730.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) : Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại VN là 1.340.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I. Mức 1.190.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II. Mức 1.040.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III. Mức 1.000.000 đồng/tháng áp dụng đối với DN hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV. Hiện nay, thị trường lao động trong khu vực nhà nước có một số vấn đề cần giải quyết: sự bảo hộ về cạnh tranh, sự thiếu ràng buộc về ngân sách, và việc đảm bảo việc làm vĩnh viễn đã dẫn đến tình trạng tuyển quá nhiều lao động so với mức cần thiết,nhiều doanh nghiệp quốc doanh trả lương cho công nhân rất hậu và thường cao hơn nhiều so với hiệu quả công việc của họ. Tiền lương có xu hướng bình quân hơn: trả lương quá cao cho lao động không có trình độ chuyên môn cao, đối với lao động có trình độ chuyên môn cao lại trả lương thấp hơn khu vực ngoài quốc doanh. Điều này dẫn đến hiện tượng ”chảy máu chất xám” đối với các lao động có trình độ cao từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, các hợp đồng lao động quá chặt chẽ không những làm cho chi phí kinh doanh tăng thêm mà còn giới hạn quyền của người chủ sử dụng lao động trong quá trình thuê, sử dụng, sa thải và tổ chức lao động. 2.5.2. Bảo hiểm Pháp luật Việt Nam đã quy định mọi tổ chức thuê lao động phải có nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động mà tổ chức đó thuê. Tuy nhiên việc trốn, nợ bảo hiểm xã hội vẫn còn xảy ra thường xuyên, theo một cuộc khảo sát việc thực hiện chính sách lao động và BHXH tại 12.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn TP.HCM cũngchỉ có 1.530 đơn vị đã thực hiện trích nộp BHXH, BHYT cho người lao động, chiếm tỷ lệ chưa tới 13%. Có đơn vị 8 lao động  cũng nợ tiền trên 400 triệu.  Việc mua bảo hiểm cho nguồn nhân lực của doanh nghiệp giúp ổn định được tâm lý của người lao động, bảo đảm nguồn tài chính vững mạnh của doanh nghiệp khi có bất kỳ biến cố nào trong quá trình hoạt động kinh doanh. Những vụ sập hầm ở các mỏ than, những vụ tai nạn lao động ở các công trình xây dựng... và mới đây nhất là vụ sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ ngày 26/09/2007, cho thấy vấn đề bảo hiểm con người hiện vẫn chưa thực sự được nhiều doanh nghiệp Việt Nam chú trọng. 2.5.3. Công đoàn Trong nền kinh tế thị trường, muốn bảo vệ quyền lợi của người lao động có hiệu phải cần đến vai trò của các tổ chức công đoàn, đặc biệt vai trò của công đoàn cơ sở là rất quan trọng. Chúng ta có một hệ thống tổ chức công đoàn từ trung ương tới cơ sở, hoạt động theo luật Công đoàn và luật Lao động. Tuy nhiên trong sự chuyển biến kinh tế hiện nay hoạt động của các tổ chức công đoàn vẫn còn rất nhiều hạn chế. Hiện nay, 85% doanh nghiệp dân doanh, 65% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa có tổ chức công đoàn cơ sở. Số cuộc đình công qua các năm đều tăng, nhưng 100% tất cả các cuộc đình công đó đều không do công đoàn cơ sở lãnh đạo. Năm 2006, cả nước xảy ra 387 vụ đình công, năm 2007 xảy ra 541 vụ; song chỉ riêng 3 tháng đầu năm 2008 đã có tới gần 300 vụ. Mặc dù có quỹ hỗ trợ cán bộ công đoàn nhưng thực tế cho thấy chủ doanh nghiệp mới là người trả lương chính cho cán bộ công đoàn nên CBCĐ không dám đứng ra lãnh đạo, tổ chức đòi quyền lợi cho công nhân. Đã có nhiều trường hợp, chủ DN lại chấm dứt HĐLĐ với CBCĐ vào thời điểm hết HĐLĐ, chứ không phải ngay sau thời điểm diễn ra đình công. 2.5.4. Điều kiện làm việc Nhà nước đã ban hành các tiêu chuẩn về điều kiện lao động của công nhân áp dụng cho mọi doanh nghiệp như điều kiện vê vệ sinh, tiêu chuẩn không khí... nhưng qua kết quả kiểm tra, giám sát hàng năm của Trung tâm SKLĐ-MT ở các khu công nghiệp ở Bình Dương cho thấy, điều kiện làm việc ở các doanh nghiệp (DN) hiện nay là đáng lo ngại, đặc biệt là đối với các DN vừa và nhỏ, DN tư nhân nằm ngoài các khu công nghiệp (KCN)”. Khoảng 50 - 60% DN không có cơ sở riêng, họ phải thuê hoặc sử dụng ngay nhà mình để làm cơ sở sản xuất, trong khi sản xuất không ổn định, ngại đầu tư sửa chữa nâng cấp. Bên cạnh đó, tình hình vệ sinh kém chiếm tỷ lệ rất cao - trên 30%, vệ sinh trung bình khoảng 25% và khoảng 70% DN ngoài các KCN không có hệ thống xử lý nước thải, hệ thống ống khói không bảo đảm, các công trình vệ sinh, công trình phúc lợi không bảo đảm yêu cầu; điều kiện vệ sinh nhà xưởng, bảo hộ lao động không bảo đảm; thiếu cán bộ theo dõi sức khỏe và an toàn lao động (nếu DN nào có thì kiến thức cũng còn hạn chế nhiều)... Nhìn chung, điều kiện làm việc, môi trường làm việc ở các DN lớn, DN trong các KCN thì có khá hơn nhiều so với các DN nằm ngoài KCN, 100%

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐầu tư phát triển nguồn nhân lực và thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan