Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hưng Yên: Thực trạng và giải pháp

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn

7. Bố cục của luận văn

 

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA FDI Ở HƯNG YÊN

1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài

 1.1.1. Các khái niệm cơ bản

 1.1.2. Đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài

1.2. Các lý thuyết giải thích sự ra đời của đầu tư trực tiếp nước ngoài và đánh giá hiệu quả FDI

 

doc132 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hưng Yên: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g bằng sông Hồng có lịch sử phát triển lâu đời, Hưng Yên là tỉnh có dân số rất đông đúc. Mật độ dân số đứng thứ 3 sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội và cao gấp 5,5 lần mức trung bình của cả nước, dân số thành thị chiếm khoảng 20% dân số toàn tỉnh. Lao động trong độ tuổi hiện có 532 nghìn người, chiếm 47,2% dân số của tỉnh. Lao động đang làm việc trong các nền kinh tế quốc dân chiếm 90% lao động trong độ tuổi (trong đó: nông nghiệp và thủy sản chiếm tỷ lệ chủ yếu, gần 81%, các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ rất ít, chỉ chiếm hơn 19%). Số lao động chưa có việc làm còn nhiều. Đây sẽ là nguồn bổ sung nhân lực quan trọng cho các dự án FDI thực hiện trên địa bàn tỉnh. Hưng Yên có truyền thống hiếu học, nhiều cán bộ tài năng song lại ít làm việc tại tỉnh nhà, nếu có môi trường làm việc tốt và được trả lương cao thì đội ngũ này là lực lượng hùng hậu trở về làm việc tại quê hương đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng cao. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, Hưng Yên cần phải bổ sung và đào tạo thêm để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh của tỉnh. Theo dự báo đến năm 2010 dân số của Hưng Yên có thể lên đến 1,25 triệu người và năm 2020 sẽ là 1,4 triệu người, trong đó lao động trong độ tuổi tương ứng với các năm là 66,1 và 89,1 vạn người (trung bình mỗi năm tăng thêm 1 vạn lao động). Đây là nguồn lực quan trọng trong việc phát triển trong tương lai. Nguồn nhân lực này sẽ là thế mạnh của tỉnh nếu biết tận dụng, đặc biệt tận dụng thế mạnh lao động rẻ trong những năm đầu CNH. Nhân dân Hưng Yên có truyền thống hiếu học, từ xưa đã có nhiều tiến sỹ, danh y. Trong lịch sử hiện đại có nhiều nhà hoạt động cách mạng và lãnh đạo xuất sắc, “có nền văn hiến lâu đời, sức mạnh tiềm tàng, nhân dân thông minh, cần cù lao động”. Với truyền thống đó, sau khi tái lập tỉnh với sự đoàn kết nhất trí trong cán bộ và nhân dân, cùng với công cuộc đổi mới của đất nước chắc chắn sẽ có khả năng đưa Hưng Yên tiến nhanh, hòa nhập được với sự phát triển của các tỉnh trong cả nước. 2.1.3. Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ đầu tư. Sau 7 năm tách tỉnh, Hệ thống cơ sở hạ tầng của Hưng Yên, bao gồm mạng lưới giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc và các công trình hạ tầng xã hội khác đã được nâng cấp, cải tạo và xây mới rất nhiều, hiện tại có thể đáp ứng được một phần nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, xét về mặt lâu dài sẽ bộc lộ nhiều yếu tố bất hợp lý trong phát triển công nghiệp đặc biệt là thu hút nguồn vốn FDI. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giai đoạn từ nay đến 2010 của Hưng Yên là xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại để tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tạo đà cho sự phát triển tăng tốc nền kinh tế xã hội trong giai đoạn tiếp theo. Hệ thống đường bộ của Hưng Yên bao gồm Quốc lộ 5A (Hà Nội - Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng), Quốc lộ 39A (Bắc Ninh - Hưng Yên - Thái Bình), 39B (Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng), Quốc lộ 38 (Bắc Giang - Hải Dương - Hưng Yên - Hà Nam) là những con đường huyết mạch của tỉnh để giao lưu với các địa phương khác trong khu vực. Hiện tại đã cải tạo nâng cấp được các đường 5A tiêu chuẩn cấp 1 đồng bằng, đường 39A, 38 tiêu chuẩn cấp 3 đồng bằng. Hệ thống đường Quốc lộ được bố trí đều trên toàn bộ lãnh thổ tỉnh, là lợi thế rất lớn để tỉnh có thể thu hút các dự án đầu tư trong không gian rộng. Tuy nhiên hiện nay, các dự án chủ yếu được triển khai tập trung ở khu vực đường 5A. Mạng lưới giao thông nội tỉnh thường xuyên được củng cố và phát triển, đến hết năm 2003 đã giải nhựa được 187,5 km đường tỉnh (trong đó có 60 km đường cấp 4 đồng bằng) và 177 km đường huyện, đáp ứng được phần lớn nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh. Giao thông nông thôn có nhiều khởi sắc, đến nay toàn tỉnh đã làm được 938 km đường. Cầu Yên Lệnh là cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối 2 tỉnh Hà Nam và Hưng Yên đã hoàn thành vào tháng 5 năm 2004. Hệ thống đường thủy của Hưng Yên gồm các tuyến sông Hồng và sông Luộc đi Hà Nội, cảng Cái Lân, Cửa Ông, Hòn Gai (Quảng Ninh). Tuyến này được nạo vét, là tuyến giao thông chính về vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa từ các cảng biển của Quảng Ninh về Hưng Yên và từ Hà Nội phục vụ cho phát triển công nghiệp. Hiện tại thời gian vận chuyển một chuyến hàng từ Hưng Yên đi Quảng Ninh mất khoảng 20 - 40 giờ, giá thành khoảng 120 - 150 nghìn đồng/tấn sản phẩm, phấn đấu hạ xuống khoảng 80 nghìn đồng/tấn vào năm 2010. Tuyến giao thông đi Hà Nội và các tỉnh phía Bắc bằng đường thủy sông Hồng, thời gian vận chuyển mất khoảng 10 giờ, giá thành khoảng 30 - 40 nghìn đồng/tấn sản phẩm. Luồng giao thông thủy chủ yếu là vận chuyển cát, sỏi phục vụ cho công nghiệp và xây dựng. Hệ thống cảng của Hưng Yên có công suất khoảng 1 triệu tấn/năm có thể đáp ứng được tình hình phát triển kinh tế hiện nay. Mạng lưới bưu chính viễn thông không ngừng được củng cố và mở rộng, năm 1997 thuê bao là 0,58 máy/100 dân, đến năm 2003, thuê bao đạt 4 máy/100 dân, số máy thuê bao được phát triển rộng khắp đến từng xã, từng thôn. Hiện nay số xã có bưu điện văn hóa đạt 100%; thời gian gọi của mỗi thuê bao cũng tăng lên theo đà phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Một số dịch vụ mới như 171, 178 đã có mặt kịp thời phục vụ nhu cầu của người dân trong tỉnh. Tuy nhiên, so với mức bình quân chung của cả nước, tính đến hết năm 2003 đạt 9 máy/100 dân thì Hưng Yên vẫn ở mức thấp. Hệ thống cấp điện được cải tạo và mở rộng trên địa bàn tỉnh hiện có 4 trạm biến áp lớn đó là trạm biến áp 220kv và 110kv Phố Nối, trạm 110kv Phố Cao, trạm 110kv Kim Động, góp phần cung cấp điện cho các dự án đầu tư của tỉnh nhà. Kết hợp phát triển đồng bộ các trạm biến áp với việc cải tạo và nâng cấp hệ thống phân phối điện trên địa bàn toàn tỉnh, mở rộng mạng lưới cấp điện cho các KCN mới hình thành. Đầu tư phát triển rộng rãi mạng lưới điện nông thôn và các đô thị. Hệ thống cấp thoát nước được đầu tư thiết bị đồng bộ, xây dựng mới nhà máy nước Phố Nối công suất 10.000 m3 nước/ngày/đêm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và cung cấp cho nhu cầu phát triển công nghiệp nhanh trong khu vực. Các công trình cấp nước và nhà máy nước có công suất vừa và nhỏ ở tất cả các thị trấn trong tỉnh. Tỉnh đã cải tạo, nâng cấp và làm mới nhiều đường ống dẫn nước để giải quyết nước sạch đến các cụm dân cư và KCN. Bên cạnh việc xây dựng các công trình cấp nước, tỉnh đã hết sức coi trọng việc xây dựng đồng bộ các công trình thoát nước đô thị bao gồm hệ thống cống rãnh, các khu chứa và xử lý nước thải… cho các đô thị và KCN, đặc biệt là KCN tập trung tại Phố Nối và Như Quỳnh. Nhìn chung, hạ tầng cơ sở của Hưng Yên đã được cải thiện rõ rệt trong thời gian qua, đủ điều kiện đáp ứng nhịp độ phát triển kinh tế hiện nay, tuy nhiên về mặt lâu dài cần có những giải pháp mang tính đồng bộ để phát triển hệ thống hạ tầng lên mức hiện đại, tạo điều kiện hấp dẫn cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào Hưng Yên. 2.1.4. Chính sách, thủ tục hành chính đối với FDI. 2.1.4.1. Chính sách ưu đãi đầu tư. Ngay từ khi mới tái lập tỉnh năm 1997, Hưng Yên đã đề ra cho mình chiến lược thu hút đầu tư để vực dậy nền kinh tế của tỉnh sau nhiều năm bị lãng quên. Những chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước được vận dụng rất linh hoạt theo xu hướng tạo điều kiện thuận lợi ở mức tối đa cho các nhà đầu tư thực hiện các dự án trên địa bàn tỉnh. Các nhà đầu tư, đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng Yên được hưởng các ưu đãi đầu tư tối đa theo các quy định hiện hành của Nhà nước. Tại Quyết định số 13/2003/QĐ-UB ngày 18/3/2003 của UBND tỉnh Hưng Yên ban hành “Quy định ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào địa bàn tỉnh Hưng Yên” đã nêu rõ: Tỉnh ưu đãi về giá tiền thuê đất, thời hạn miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ kinh phí đào tạo lao động, hỗ trợ kinh phí giải phóng mặt bằng trong phạm vi quyền hạn của tỉnh ngoài các ưu đãi chung của Nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh Hưng Yên theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều được hưởng ưu đãi từ quy định trên. Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó khăn, và kêu gọi đầu tư trên toàn bộ lãnh thổ. Tỉnh đã chia các khu vực với các mức ưu đãi đầu tư khác nhau: Khu vực I: gồm những vùng có điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư. Khu vực II: gồm những vùng có điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư còn hạn chế. Khu vực III: gồm những vùng thuộc danh mục các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Trong Quy định này, ưu đãi về tiền thuê đất bao gồm: Khu vực I, giá đất cho thuê thực hiện ở mức thấp nhất theo khung giá quy định của Nhà nước; khu vực II, áp dụng mức giá bằng 70% giá khu vực I; khu vực III, áp dụng mức giá bằng 50% giá khu vực I. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài được miễn 7 năm tiền thuê đất kể từ ngày ký hợp đồng thuê đất cho tất cả các khu vực. Tỉnh cam kết hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đền bù giải phóng mặt bằng từ ngân sách tỉnh, cụ thể: Dự án đầu tư vào khu vực II: hỗ trợ 50% chi phí đền bù giải phóng mặt bằng đối với tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước, hỗ trợ 70% đối với các dự án có hiệu quả trong vòng 12 tháng kể từ khi xây dựng, các dự án đóng góp cho ngân sách từ 3 tỷ đồng/năm trở lên, và các dự án thu hút lao động tại chỗ từ 200 lao động trở lên và không dưới 70 lao động/ha. Dự án đầu tư vào khu vực III: hỗ trợ 70% chi phí đền bù giải phóng mặt bằng đối với tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước, hỗ trợ 100% đối với các dự án có hiệu quả trong vòng 12 tháng kể từ khi xây dựng, các dự án đóng góp cho ngân sách từ 3 tỷ đồng/năm trở lên, và các dự án thu hút lao động tại chỗ từ 200 lao động trở lên và không dưới 70 lao động/ha. Tỉnh cam kết hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đào tạo và sử dụng lao động của địa phương, cụ thể: Dự án đầu tư vào khu vực II, hỗ trợ 20% chi phí đào tạo lao động nhưng không quá 400.000 đồng/1 lao động, riêng dự án chế biến nông sản thực phẩm sử dụng nguyên liệu của địa phương và dự án sử dụng từ 300 lao động trở lên được hỗ trợ 40% kinh phí nhưng không quá 700.000 đồng/1 lao động. Dự án đầu tư vào khu vực III, hỗ trợ 50% chi phí đào tạo lao động nhưng không quá 800.000 đồng/1 lao động, riêng dự án chế biến nông sản thực phẩm sử dụng nguyên liệu của địa phương và dự án sử dụng từ 300 lao động trở lên dược hỗ trợ 70% kinh phí nhưng không quá 1.000.000 đồng/1 lao động. Các dự án đầu tư trong và ngoài nước thực hiện trên địa bàn tỉnh được miễn giảm thuế thu nhập với thời gian miễn giảm tối đa theo các quy định hiện hành của Nhà nước. Ngoài các quy định trên, đối với các trường hợp đặc biệt như những dự án có quy mô lớn có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tỉnh sẽ căn cứ từng trường hợp cụ thể để có những ưu đãi riêng. Tóm lại: Chính sách của Hưng Yên đối với việc thu hút đầu tư là rất cụ thể như đã nêu trên. Tuy nhiên kể từ khi ra đời nó vẫn chưa phát huy được nhiều tác dụng, thể hiện ở việc số lượng dự án so với các năm trước có tăng nhưng không nhiều (số dự án tăng chủ yếu là do lợi thế sẵn có của tỉnh). Hơn nữa, việc triển khai thực hiện chính sách này còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc xác định các điều kiện hưởng ưu đãi và giải quyết các thủ tục để hưởng ưu đãi dẫn đến việc hầu hết các nhà đầu tư không quan tâm đến lợi thế này vì mục đích kinh doanh của họ không phải là vào tỉnh để hưởng ưu đãi mà mục đích chính là cơ hội đầu tư và lợi nhuận. Để phát huy hiệu quả các cơ chế, chính sách đã ban hành Hưng Yên còn rất nhiều việc phải làm, đặc biệt là trong khâu triển khai thực hiện. 2.1.4.2. Thủ tục hành chính đối với FDI. Tỉnh thống nhất thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với mọi dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh theo phân cấp và quy định của pháp luật Việt Nam. Tất cả các dự án nước ngoài và các tổ chức, cá nhân người nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh Hưng Yên theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ngoài ra để cụ thể và đơn giản hóa, tỉnh đã ban hành quy chế áp dụng riêng cho địa phương. Tại Quyết định số 12/2003/QĐ-UBND ngày 18/3/2003 về việc “Tiếp nhận, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước trên địa bàn tỉnh Hưng Yên” đã nêu rõ: Các dự án thuộc thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư, quyết định chấp thuận đầu tư của tỉnh là các dự án đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không thuộc danh mục dự án nhóm A và có vốn đầu tư đăng ký đến 5 triệu USD. Nhằm phân công rõ trách nhiệm của các cơ quan tiếp nhận đầu tư, tỉnh đã phân loại khu vực đầu tư như sau: Nhóm 1: các KCN đã được Chính phủ quyết định thành lập. Nhóm 2: các khu vực đã được quy hoạch xây dựng KCN, cụm công nghiệp. Nhóm 3: các khu vực còn lại. Ban quản lý KCN làm đầu mối tiếp nhận dự án đầu tư và cấp phép theo ủy quyền vào nhóm 1. Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối tiếp nhận các dự án vào các nhóm còn lại có nhiệm vụ: tổng hợp ý kiến thẩm định trình tỉnh cấp giấy phép đầu tư, hoặc ra quyết định chấp thuận đầu tư đối với các dự án thuộc thẩm quyền của tỉnh; trình tỉnh chấp thuận về mặt địa điểm đầu tư, phương án giải phóng mặt bằng và có ý kiến bằng văn bản để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư, hoặc quyết định đầu tư đối với các dự án không thuộc thẩm quyền của tỉnh. * Trình tự xây dựng và tiếp nhận dự án: Xác định vị trí dự án: căn cứ quy hoạch các khu, cụm công nghiệp đã được thông qua và nhu cầu của nhà đầu tư, việc xác định vị trí địa điểm để thực hiện dự án được tiến hành như sau: - Đối với các dự án đầu tư vào nhóm 1: Công ty phát triển hạ tầng trực tiếp thỏa thận với nhà đầu tư bố trí dự án theo quy hoạch. - Đối với các dự án đầu tư vào nhóm 2: Sở Kế hoạch và đầu tư thống nhất về nguyên tắc với UBND huyện, thị xã có liên quan về địa điểm bố trí dự án và lập sơ đồ vị trí dự án. - Đối với các dự án đầu tư vào nhóm 3: Sở Kế hoạch và đầu tư chủ trì cùng ngành Địa chính, Xây dựng và UBND huyện (thị xã) có liên quan khảo sát thực tế vị trí, quỹ đất, khả năng giải phóng mặt bằng, chậm nhất là 5 ngày làm việc. Sau khi khảo sát, UBND huyện có trách nhiệm lập sơ đồ vị trí dự án và các Sở ngành gửi ý kiến bằng văn bản gửi về Sở Kế hoạch và đầu tư. UBND huyện phải chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh về các vấn đề phát sinh ngoài nội dung đã thống nhất. * Về thông báo chủ trương: Với các dự án đầu tư vào nhóm 1: Ban quản lý KCN thống nhất về chủ trương đầu tư với nhà đầu tư trên cơ sở quy hoạch đã được duyệt. Với các dự án đầu tư vào nhóm 2,3: sau khi sơ bộ thống nhất về vị trí địa điểm tiếp nhận dự án, lập xong sơ đồ vị trí dự án và xem xét mục tiêu dự án phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong vòng 3 ngày làm việc Sở Kế hoạch và đầu tư có trách nhiệm báo cáo UBND tỉnh về chủ trương tiếp nhận dự án. sau 2 ngày làm việc, UBND tỉnh ra thông báo bằng văn bản về chủ trương tiếp nhận dự án để nhà đầu tư lập hồ sơ dự án theo quy định của pháp luật. * Hồ sơ dự án: sau khi thông báo về chủ trương của UBND tỉnh, cơ quan đầu mối có trách nhiệm cung cấp mẫu hồ sơ cho các chủ đầu tư. Gồm: - Đơn xin cấp giấy phép đầu tư. - Hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Điều lệ công ty. - Giải trình kinh tế kỹ thuật. - Văn bản xác nhận tư cách pháp lý, tình hình tài chính của các nhà đầu tư. - Sơ đồ vị trí hoặc bản trích lục bản đồ vị trí khu đất và thỏa thuận nguyên tắc phương án đền bù, giải phóng mặt bằng với đơn vị đang quản lý khu đất. - Sơ đồ tổng mặt bằng dự án. * Thẩm định dự án: trong vòng 4 ngày kể từ khi nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan đầu mối lấy ý kiến các sở, ngành, địa phương có liên quan. Cụ thể: - Sở chuyên ngành có ý kiến về mục tiêu. - Sở Xây dựng phê duyệt tổng mặt bằng. - Sở Địa chính có ý kiến về kế hoạch sử dụng đất. - Sở Tài nguyên môi trường có ý kiến về phương án bảo vệ môi trường sinh thái. - UBND huyện (thị xã) có ý kiến về phương án giải phóng mặt bằng. Các sở ngành địa phương được lấy ý kiến về dự án có trách nhiệm phải trả lời trong vòng 6 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản của cơ quan đầu mối. Trường hợp có những ý kiến khác nhau về những vấn đề quan trọng của dự án, cơ quan đầu mối tổ chức hội nghị thống nhất ý kiến trước khi trình UBND tỉnh. Nếu có yêu cầu sửa đổi, bổ sung dự án trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan đầu mối thông báo cho chủ đầu tư bằng văn bản về nội dung phải sửa đổi, bổ sung. Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của các Bộ, ngành mà chưa được quy định cụ thể, UBND tỉnh lấy ý kiến các Bộ ngành có liên quan bằng văn bản, thời hạn trả lời theo các quy định hiện hành của pháp luật. * Quyết định tiếp nhận dự án: sau khi có ý kiến thống nhất của các ngành, địa phương, Sở Kế hoạch và Đầu tư trình UBND tỉnh cấp giấy phép đầu tư hoặc ra quyết định chấp thuận đối với các dự án đầu tư vào nhóm 2 và 3. Ban quản lý KCN cấp giấy phép đầu tư hoặc ra quyết định chấp thuận đối với các dự án vào nhóm 1, thời gian là 5 ngày làm việc, nếu không chấp thuận thì phải thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư biết rõ lý do, đồng thời gửi các cơ quan có liên quan. Thời hạn trên không kể thời gian nhà đầu tư sửa đổi, bổ sung hồ sơ dự án. * Giải phóng và bàn giao mặt bằng: Với các dự án đầu tư vào nhóm 1, sau khi được cấp phép đầu tư, công ty xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục cần thiết về cho thuê lại đất và bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư. Với các dự án vào nhóm 2 và 3, căn cứ quyết định cho thuê đất của UBND tỉnh, UBND các huyện (thị xã) có trách nhiệm cùng nhà đầu tư thực hiện công việc đền bù, giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư. Với các dự án đầu tư vào nhóm 2, việc đền bù, giải phóng mặt bằng và giao đất cho nhà đầu tư được thực hiện theo đúng quy hoạch và phương án giải phóng mặt bằng của từng khu, cụm công nghiệp đã được UBND tỉnh phê duyệt khi thông qua quy hoạch. Chủ tịch UBND huyện (thị xã) chịu trách nhiệm hoàn thành về tiến độ giải phóng mặt bằng, thời gian bàn giao mặt bằng thực hiện xong trong 15 ngày kể từ ngày có quyết định cho thuê đất. * Trách nhiệm của các Sở, ngành. - Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm thông báo hướng gọi vốn đầu tư, danh mục dự án đầu tư trong từng giai đoạn, thông qua các cơ quan chức năng Nhà nước, các cơ quan tư vấn và các tổ chức nước ngoài để vận động đầu tư tìm đối tác thực hiện dự án; là đầu mối tiếp xúc với các nhà đầu tư đến tìm cơ hội đầu tư trong tỉnh; tiếp nhận dự án, tổng hợp ý kiến thẩm định của các sở ngành trình tỉnh quyết định; tổng hợp giúp tỉnh phân tích, đánh giá các hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh, theo dõi giám sát việc triển khai dự án. - Ban quản lý KCN tiếp nhận và quản lý hoạt động của dự án đầu tư ở nhóm 1 theo thẩm quyền được giao; thực hiện các nhiệm vụ được giao theo ủy quyền của các bộ ngành. - Sở Xây dựng thực hiện quản lý Nhà nước về hoạt động xây dựng trên địa bàn. - Sở Thương mại du lịch thẩm định trình tỉnh duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp theo phân cấp của Bộ Thương mại; thực hiện quản lý công tác Nhà nước về xuất nhập khẩu và các hoạt động thương mại khác của các doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. - Sở Lao động thương binh xã hội chịu trách nhiệm quản lý lao động trong các doanh nghiệp theo quy định của Luật Lao động, cùng Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư đề xuất biện pháp giải quyết các mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trên nguyên tắc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động. Quản lý và tổ chức việc đào tạo, tuyển chọn, giới thiệu lao động cho các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Sở Tài nguyên môi trường chịu trách nhiệm theo dõi giám sát việc tuân thủ những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp. - UBND cấp huyện và cấp xã thực hiện quản lý Nhà nước trên địa bàn, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại khu vực triển khai dự án. Tuy nhiên, việc triển khai các quy định trên còn nhiều bất cập, chủ yếu do các cấp, các ngành của địa phương chưa thống nhất và phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc tiếp nhận các dự án vào địa phương, nổi cộm một số vấn đề là: Yêu cầu đầu tiên của các nhà đầu tư khi tìm hiểu môi trường đầu tư của một địa phương là được cung cấp nhanh, chính xác thông tin về các khu vực có thể đầu tư, chi phí đền bù giải tỏa, giá tiền thuê đất, điều kiện về cơ sở hạ tầng, dịch vụ điện nước, nguồn nhân lực… cách thức tổ chức đền bù giải tỏa mặt bằng, dự kiến thời gian đền bù giải tỏa mặt bằng. Trên cơ sở các thông tin họ mới có thể so sánh, đối chiếu, quyết định chọn địa bàn đầu tư, từ đó mới lập được dự án khả thi để quyết định đầu tư. Trên thực tế khi đến Hưng Yên các nhà đầu tư mất nhiều thời gian để có các thông tin này do tỉnh chưa có quy định cụ thể về mức đền bù giải tỏa, xác định các thông tin trên thiếu sự thống nhất từ tỉnh đến cơ sở. * Về địa điểm bố trí dự án: chủ đầu tư phải trực tiếp tiếp xúc với lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương, có địa phương họ phải trực tiếp họp bàn với đại biểu các hộ mất đất, báo cáo dự án với lãnh đạo Đảng và chính quyền địa phương mới thống nhất được địa điểm. Vì vậy, có trường hợp tỉnh có văn bản thông báo vị trí để địa phương làm thủ tục, địa phương còn phản ứng, gây khó khăn vì chủ đầu tư chưa thống nhất với địa phương. Có trường hợp việc bố trí của huyện và xã không phợp với quy hoạch chung, dẫn đến phá vỡ quy hoạch. * Xác định chi phí đền bù giải tỏa: mất rất nhiều thời gian, chủ yếu để thống nhất về khoản hỗ trợ địa phương và hỗ trợ lao động. Các chủ đầu tư phải trực tiếp thỏa thuận với UBND xã, thị trấn nơi có đất về đơn giá đền bù, hỗ trợ địa phương, chi phí cho việc đền bù giải phóng mặt bằng… trong quá trình thỏa thuận, mỗi địa phương lại có phương thức, cách làm việc riêng và tổng mức chi phí đền bù khác nhau, chưa tạo được sự thống nhất chung trên toàn tỉnh dẫn đến tình trạng các chủ đầu tư không muốn thuê một khu đất liên quan đến 2 địa phương. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến phá vỡ quy hoạch. Hiện nay có tình trạng mức chi phí đền bù giải tỏa ngày càng tăng và khi thống nhất được dự án sau cao hơn dự án trước, nếu dự án trước chưa đền bù song, địa phương lại gây khó dễ để yêu cầu các chi phí bổ sung gây tâm lý hoang mang, khó chịu cho các nhà đầu tư. Trong Nghị quyết số 09-NQ/TU, Ban thường vụ tỉnh ủy đã yêu cầu phải sớm ban hành thống nhất đơn giá đền bù nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. * Về tuyển dụng lao động: theo các quy định hiện hành, việc tuyển lao động trên nguyên tắc ưu tiên người dân mất đất của địa phương nhưng hiện nay chính quyền các xã mặc nhiên coi là một điều kiện tiên quyết với định mức 350 - 360 m2/lao động. Việc đưa cụ thể định mức lao động đối với mỗi dự án đã ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư vì khả năng thu hút lao động của mỗi dự án khác nhau, có những dự án không trực tiếp giải quyết nhiều lao động nhưng có thể giải quyết gián tiếp hoặc đóng góp ngân sách lớn. Đã có một số dự án do không thể nhận lao động của địa phương vào làm việc được, nên đã phải chấp nhận đền bù thêm cho mỗi xuất lao động 3 - 5 triệu đồng… Đến nay các dự án đầu tư vào địa bàn huyện Văn Lâm đều có khoản hỗ trợ chuyển việc làm. Hiện nay một số dự án ở xã Giai Phạm (Yên Mỹ) không giải phóng mặt bằng được vì một số người đã nhận tiền đền bù nhưng số khác yêu cầu hỗ trợ mất việc làm như Văn Lâm, nếu đáp ứng yêu cầu này sẽ gây phản ứng dây chuyền đối với những người đã gương mẫu nhận tiền đền bù trước. Tóm lại: Mặc dù đã có sự lỗ lực rất nhiều trong việc đưa ra quy chế điều hành riêng đối với thu hút và tiếp nhận đầu tư nói chung và FDI nói riêng, nhưng việc ban hành quy chế còn rất nhiều bất cập như đã nêu trên dẫn đến hiệu quả phát huy những quy định này là rất thấp. Việc đưa những quy định này vào thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn vì các địa phương cũng có quy chế riêng để tiếp nhận đầu tư, trong nhiều trường hợp dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”, do vậy dẫn đến tình trạng mỗi nhà đầu tư làm thủ tục theo một hướng khác nhau (không dự án nào giống dự án nào trong việc hoàn tất các thủ tục hồ sơ). Ngoài ra việc sử lý và trả lời chậm trong khi điều hành không đáp ứng được các yêu cầu do quy định đặt ra cũng làm nhiều nhà đầu tư băn khoăn, suy nghĩ và thiếu lòng tin đối với quy định này. 2.2. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HƯNG YÊN. 2.2.1. Tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Trước tái lập tỉnh năm 1997, tuy có vị trí khá thuận lợi nhưng trong thời gian dài ít được chú ý nên kinh tế của Hưng Yên chậm phát triển. Trong thời gian qua Hưng Yên được đánh giá là một trong số ít tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và bền vững, thực hiện thành công một trong những mục tiêu phát triển là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ là chủ yếu. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hưng Yên thời kỳ 1997 - 2010 và một số định hướng chiến lược đến năm 2020 đã nêu ra chỉ tiêu phấn đấu: Đến năm 2010 tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống còn 22 - 24%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30 - 31% và dịch vụ chiếm 43 - 44% trong tổng GDP của tỉnh; năm 2020 Hưng Yên sẽ trở thành một tỉnh có cơ cấu kinh tế hiện đại, tỷ lệ nông nghiệp chỉ còn khoảng 11%, công nghiệp và xây dựng chiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37196.doc
Tài liệu liên quan