Đề tài Đề xuất 1 số giải pháp quản lý môi trường tại các xã nghèo tại Hà Nội ( Hà Tây cũ)

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 4

1.1 Khái niệm chung về quản lý môi trường. 4

1.2 Đối tượng của quản lý môi trường. 4

1.2.1 Có cấu trúc phức tạp. 5

1.2.2 Tính hoạt động. 5

1.2.3 Tính mở. 5

1.2.4 Khả năng tổ chức và điều chỉnh. 6

1.3. Mục tiêu của quản lý môi trường. 7

1.3.1 Mục tiêu duy trì chất lượng môi trường. 7

1.3.2 Mục tiêu cho phát triển bền vững. 7

1.4 Các biện pháp quản lý môi trường. 10

1.4.1 Khái niệm. 10

1.4.2 Các phương pháp quản lý nội bộ hệ thống môi trường. 10

CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC XÃ NGHÈO TẠI HÀ NỘI 14

1. Tình hình kinh tế xã hội 14

1.1. Địa hình. 14

1.2. Tình hình kinh tế- xã hội. 14

2. Tổng quan về tình hình môi trường. 18

2.1. Hiện trạng môi trường nước. 18

2.2. Hiện trạng không khí tiếng ồn 24

2.3. Hiện trạng chất thải rắn. 27

2.4. Hiện trạng sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp 33

CHƯƠNG 3: ĐỂ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI BA XÃ KIM QUAN, CẨM YÊN VÀ ĐẠI ĐỒNG. 34

3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp. 37

3.2. Các giải pháp cụ thể. 40

3.3. Các khuyến nghị đề xuất. 41

3.3.1 Lâm nghiệp và Thuỷ sản 41

3.3.2 Tài nguyên – Môi trường và Năng lượng tái tạo 42

3.3.3Các chỉ tiêu thể hiện mối liên hệ nghèo đói – môi trường 42

KẾT LUẬN 44

TÀI LIỆU THAM KHẢO 50

 

 

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2539 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đề xuất 1 số giải pháp quản lý môi trường tại các xã nghèo tại Hà Nội ( Hà Tây cũ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại tại các xã một trong những đặc điểm chung hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đều có công nghệ lạc hậu, chủ yếu là sản suất thủ công, không có hệ thống xử lý chất thải nên tác động đến môi trường là điều khó trách khỏi. Tại xã Kim Quan Theo số liệu thống kê tỷ trọng giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ của xã chiếm 56%/năm và hầu hết tại cơ sở sản xuất này đều có công nghệ lạc hậu, chủ yếu là sản suất thủ công, không có hệ thống xử lý chất thải nên tác động đến môi trường là điều khó trách khỏi. Hầu hết lượng nước thải được sinh ra đều không xử lý và xả thải trực tiếp ra môi trường. Do đặc thù như vậy nên những cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ này đều là những địa điểm có tính nhậy cảm môi trường cao. Đây là các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có phát sinh ra một lượng nước thải khá lớn trong quá trình sản xuất. Hầu hết lượng nước thải được sinh ra đều không xử lý và xả thải trực tiếp ra môi trường. Quá trình này gây ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước mặt là điều khó tránh khỏi. Hiện trạng môi trường nước ngầm. Hiện trạng nước ngầm của 3 xã có trữ lượng khá dồi dào. Theo kết quả điều tra đánh giá tiềm năng, chất lượng và hiện trạng sử dụng nước dưới lòng đất phục vụ quy hoạch và khai thác bền vững nguồn nước ngầm của địa phương, trữ lượng tĩnh tự nhiên nước dưới đất đủ khả năng cung cấp nước cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, sản xuất và đời sống dân sinh trên địa bàn từng xã. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn nhất định do điều kiện địa chất thủy văn phức tạp, trữ lượng nước phân bố không đồng đều giữa các vùng. Nguồn nước ngầm tại 3 xã đang chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nguồn ô nhiễm khác nhau trong đó đặc biệt là ảnh hưởng của các nguồn nước thải không được xử lý. Điều đó có thể thấy rất rõ tại tất cả các làng nghề trên địa bàn các xã. Tại các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nguồn nước ngầm được người dân tự khai thác ở độ sâu 20-30 mét. Sau đó được bơm hút lên hầu hết các nguồn nước đều được người dân cho chảy vào bể lọc bằng cát. Đây là công đoạn duy nhất trong quá trình xử lý nước tại các hộ gia đình hiện nay. Mặc dù quá trình lọc cát đã có tác dụng làm giảm hàm lượng sắt có trong nguồn nước, song không thể triệt để nên nguồn nước khi sử dụng đều có hàm lượng sắt và một số yếu tố khác cao hơn Tiêu chuẩn quy định cho phép đối với nước sinh hoạt. 2.1.3 Đánh giá tác động ô nhiễm môi trường nước. Ở một số xã, khu dân cư sống tập trung với mật độ dân số cao, lượng rác thải sinh hoạt nhiều không thu gom được và xử lý. Các ao hồ, kênh mương thoát nước trong khu dân cư đang bị san lấp ảnh hưởng đến việc tiêu, thoát nước trong khu dân cư. Bởi vậy vấn đề ô nhiễm môi trường tại khu dân cư đang xuất hiện và ngày càng tăng thêm. Qua kết quả rà soát đánh giá hiện trạng môi trường nước của các xã (gồm môi trường nước mặt và nước ngầm), có thể thấy môi trường nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của địa phương. Cho nên, những ảnh hưởng của nguồn tài nguyên nước sẽ tác động trực tiếp lẫn gián tiếp đến sự tồn tại và phát triển của xã. Bên cạnh những tác động của đời sống kinh tế xã hội nguồn tài nguyên nước thì những tác động của cộng đồng dân cư đến nguồn tài nguyên nước của xã hiện nay cũng rất lớn. Những tác động này rất đa dạng về mức độ và hình thức. Tuy nhiên đặc điểm chung của hầu hết các tác động của con người đến nguồn tài nguyên nước là tác động mang tính tiêu cực nhiều hơn tích cực. Với thực tế như vậy, nên những tác động ảnh hưởng đến môi trường nước của nguồn nước ô nhiễm là khá đa dạng, điển hình là một số nguồn chính sau đây. Nguồn nước thải không được xử lý triệt để xả thải trực tiếp vào các thuỷ vực nước mặt. Nguồn chất thải rắn sinh ra từ quá trình sinh hoạt và sản xuất không được quản lý chặt chẽ bị phát tán vào nguồn nước mặt. Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật bị rửa trôi từ các khu vực ruộng cấy, trồng ảnh hưởng đến chất lượng của các nguồn nước mặt tiếp nhận; Chất thải sinh ra từ quá trình hoạt động du lịch trên các thuỷ vực nước mặt gây ô nhiễm dầu mỡ, mất cảnh quan của các thuỷ vực; Sự lan truyền chất ô nhiễm từ những khu vực này sang khu vực khác, lan truyền theo dòng chảy. Trước thực tế trên, các chất ô nhiễm đối với các nguồn nước hiện nay là khá đa dạng, nguồn ô nhiễm này gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của các thuỷ vực nước mặt cũng như túi nước ngầm. Hiện nay các nguồn ô nhiễm môi trường nước có nguồn gốc không giống nhau thường mang tính đặc thù cao cho từng khu vực. Với những đặc điểm chung về sự tác động qua lại của nguồn tài nguyên nước với con người như hiện nay tại các thuỷ vực nước mặt và các túi nước ngầm trên địa bàn các xã đã xuất hiện hiện tượng ô nhiễm. Quá trình sử dụng các nguồn nước bị ô nhiễm sẽ gây ra nhiều các loại bệnh khác nhau cho sức khoẻ của con người sử dụng như da liễu, tiêu hoá, ung thư, đau mắt…Điều này cho thầy tính chất nguy hại đối với sức khỏe của cộng đồng khi phải sử dụng nguồn nước bi ô nhiễm Ngoài ra, việc sử dụng các nguồn nước ngầm bị ô nhiễm trong vùng trồng trọt cũng có thể gây ra sự hấp thu các chất ô nhiễm như kim loại nặng vào các sản phẩm của quá trình trồng trọt. Đây là tác động gián tiếp đến sức khoẻ cộng đồng do sử dụng các nguồn nước bị ô nhiễm. Như vậy, hiện nay sử dụng các nguồn nước không bảo đảm chất lượng vào các mục đích khác nhau của cuộc sống sẽ là nguyên nhân gây ra nhiều tác động nguy hại đến sức khoẻ của con người. Các tác động này, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Với đặc điểm như vậy, việc gìn giữ chất lượng của nguồn tài nguyên là rất quan trọng. Việc này cần được thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ của nhiều ban ngành có liên quan. Vậy đâu là giải pháp cho vấn đề ô nhiễm nước nghiêm trọng tại đây? Chiến lược lâu dài là có thể cung cấp những nguồn nước uống an toàn đã qua xử lý và cải thiện hệ thống vệ sinh. Chiến lược ngắn hạn là sử dụng những phương pháp xử lý nước đơn giản tại hộ gia đình như lọc nước, đun sôi nước bằng lượng nhiệt thừa từ nấu nướng. Ngay cả việc xây dựng thói quen rửa tay cũng có thể bảo vệ hàng triệu con người.  Bên cạnh đó, ngoài chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức, cũng cần phải áp dụng những quy định nghiêm ngặt hơn đối với vấn đề kiểm soát ô nhiễm, buộc tất cả mọi doanh nghiệp - từ quy mô nhỏ đến lớn - phải đáp ứng được những tiêu chuẩn tối thiểu. Xét cho cùng, nước sạch và không khí trong lành là những điều thiết yếu để có được một cuộc sống khỏe mạnh.  Điều quan trọng nhất là chính phủ cần đầu tư và xây dựng những dự án nước sạch cũng như các công trình xử lý nước thải để hỗ trợ cho chiến dịch này và thu hút người dân tham gia.  Hiện trạng không khí tiếng ồn Hiện trạng môi trường không khí và tiếng ồn. Hiện nay, trên địa bàn 3 xã cũng giống như các địa phương khác các nguồn ô nhiễm không khí rất đa dạng nên tác động của các dạng chất ô nhiễm cũng rất khác nhau đến môi trường không khí. Dưới đây là một số nguồn gây ô nhiễm không khí hiện nay: - Mật độ phương tiện giao thông hoạt động với mật độ dày gây tiếng ồn, khí thải làm ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến môi trường nhất là đối với nhân dân sống ven đường và gần đường cao tốc, đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua. Các công trình xây dựng, sửa chữa cơ sở hạ tầng và giao thông. Hiện nay các công trường xây dựng chủ yếu tập trung vào các khu công nghiệp và quá trình làm mới, sửa chữa các hệ thống đường giao thông. Đối với một số khu công nghiệp đang trong quá trình san lấp mặt bằng nên ô nhiễm bụi từ quá trình chuyên chở, rơi vãi đất, đá là rất lớn. Hiện tượng ô nhiễm môi trường không khí xẩy ra tại các khu vực có tuyến đường giao thông chạy qua bởi lưu lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng lớn đã xuất hiện hiện tượng tiếng ồn và bụi bẩn. Các khu công nghiệp và các nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp. Trong những năm gần dây với định hướng mới trong phát triển kinh tế, xã hội của từng xã mọc nên nhiều khu, cụm điểm công nghiệp được hình thành trên địa bàn. Các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp với số lượng, mật độ như hiện nay đang hoạt động trên địa bàn xã là không lớn. Do đó những tác động của nguồn khí thải từ hoạt động của các nhà máy này đến môi trường không khí của tỉnh là không đáng kể. Các làng nghề truyền thống, có số lượng khá lớn cho nên những tác động từ quá trình sản xuất của làng nghề này đến môi trường không khí là rất đáng kể. Do đặc điểm sản xuất đặc trưng của các làng nghề, các tác động của chúng đến môi trường không khí cũng mang tính đặc trưng. Hiện nay các tác nhân gây ô nhiễm sinh ra từ các làng nghề của địa phương chủ yếu là hơi, khí thải, mùi và tiếng ồn tại các làng chế biến nông sản, các làng sản xuất các sản phẩm cơ khí, các làng nghề sản xuất mộc, mây tre, giang, dan…có thể nói, hiện nay tác nhân gây ô nhiễm có nguồn gốc từ các làng nghề hiện nay là rất đa dạng và với số lượng nhiều tác động đến môi trường không khí là rất lớn và trên diện rộng. Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn các xã là rất lớn, tuy nhiên các cơ sở này thường không tập trung và nằm rải rắc hầu hết các khu vực trong địa bàn. Loại sản phẩm này chủ yếu là các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vôi đá. Hiện nay hầu hết các cơ sở này phải sử dụng một lượng than đá rất lớn. Đây là nguyên nhân chính làm phát sinh ra các bụi khí CO, SO2, CO2, … và bụi. Do tính chất và khả năng phát tán cao nên các loại khí này có khả năng gây ô nhiễm trên một diện rộng và ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường không khí, năng suất hoa mầu và sức khoẻ của cộng đồng. Khí thải sinh ra từ quá trình phân huỷ chất thải rắn. Đây là nguồn gây ô nhiễm mang tính cục bộ cao, đây là nguồn ô nhiễm có khả năng tác động rất nguy hại đến môi trường và sức khoẻ của cộng đồng. Nguồn gốc của các ô nhiễm này tập trung tại các bãi thu gom và chôn lấp rác thải sinh hoạt trên địa bàn xã. Hiện nay, trên địa bàn 3 xã đã có các điểm bãi rác tập trung nhưng phần lớn chưa bảo đảm hợp vệ sinh môi trường. Là nơi tạo điều kiện các loại khí độc hại phát tán trực tiếp vào môi trường không khí của khu vực. Do thành phần và tính chất nguy hại cao của các loại rác thải nên khí thải được sinh ra từ quá trình phân huỷ các loại rác này mang tính chất tổng hợp và có tính chất nguy hại rất cao. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Do tập quán canh tác của một số địa phương, thường sử dụng các loại phân hữu cơ chưa ủ để hoại, mục hoàn toàn trong trồng trọt, gây ô nhiễm mùi cho các khu dân cư xung quanh. Bên cạnh đó, hàng năm một lượng khói thải đáng kể có chứa CO do đốt rơm rạ sau khi thu hoạch được phát sinh, xả thải tự do và gây tác động đến môi trường không khí, giảm tầm nhìn tại các trục đường giao thông gần các cánh đồng. Tuy nhiên, ô nhiễm này chỉ mang tính thời điểm, ô nhiễm mùi thường tập trung vào những thời điểm bắt đầu cây trồng, đầu mùa vụ và ô nhiễm khói tập trung vào cuối vụ từ quá trình đốt rơm rạ sau khi thu hoạch. Tác động của ô nhiễm không khí và tiếng ồn. Từ thực tế quan trắc môi trường cho thấy, chất lượng không khí và tiếng ồn trên địa bàn 3 xã đang bị ô nhiễm trên diện rộng, tập trung vào các khu vực có đường giao thông chạy qua, các khu đô thị và các khu vực có công trường đang hoạt động. Điều này là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh về đường hô hấp và mắt cho cộng đồng dân cư. Ngoài ra sụ ô nhiễm bụi cũng là nguyên nhân gây ra mất mỹ quan của nhiều khu vực trên địa bàn các xã. Đối với ô nhiễm tiếng ồn, đây là nguyên nhân gây ra một số bệnh về thính giác. Hiện nay, sự ô nhiễm tiếng ồn đã xẩy ra trên nhiều địa bàn các xã. Cả làng hiện có 48 lò mổ qui mô vừa và nhỏ tại hộ gia đình. Nơi đây, mỗi ngày đã giết mổ từ 70-90 con trâu bò để đưa thực phẩm tươi sống đi tiêu thụ khắp thi trường trong và ngoài tỉnh. Như vậy, lượng trâu bò hàng ngày tập kết về các bãi đất trống của làng cùng sân vườn của các hộ lên tới 100-200 con; nguồn phân, rác thải xả ra khắp nơi; chất thải gom thành đống, đổ bừa bãi ra đường làng, ngõ xóm gây ô nhiễm nghiêm trọng về nguồn nước, không khí, tác động xấu đối với đời sống nhân dân quanh vùng. Mỗi ngày các lò giết mổ trâu, bò thải ra môi trường 2- 4m3 nước thải và 10-30kg chất thải/hộ gồm phân, lông và cỏ, rác...Tuy cả thôn có 30 hộ đã xây dựng hầm khí sinh học và 2 gia đình đầu tư xây dựng được nhà lạnh bảo quản xương nhưng lượng chất thải được xử lý không thấm tháp gì; tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn chưa được cải thiện. Số hộ còn lại thì tự do tuỳ tiện xả nước và chất thải bừa bãi; nước chảy ra ao hồ, đồng ruộng tràn lan khắp mương máng, gây ứ đọng ở nhiều nơi. Hệ thống giao thông, cống rãnh xây dựng không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, không thông thoáng; nước thải và chất thải cùng xả ra nên dễ gây ứ đọng và lâu ngày không được khơi thông. Vào mùa hè, mùi hôi thối càng bốc lên nồng nặc. Ngoài ra, một số hộ còn gom xương thành từng đống, chỉ qua thời gian 1-2 ngày đã bốc mùi, gây ô nhiễm không khí khắp vùng. Trên 1.000 hộ dân nơi đây còn phải chịu ô nhiễm tiếng ồn do tiếng kêu khi trâu bò bị giết phát ra, tiếng xoong chảo, dao, thớt khua vang suốt ngày đêm... Hiện trạng chất thải rắn. Hiện trạng phát sinh các nguồn chất thải rắn. Hiện nay chất thải rắn của các xã được sinh ra từ nhiều nguồn phát sinh khác nhau. Do những đặc trưng của các nguồn phát sinh nên loại chất thải rắn được sinh ra cũng có thành phần, tính chất và số lượng mang tính đặc trưng cao tại Biểu 5, dưới đây: Biểu 5: Những thông tin nguồn gốc và tính chất của chất thải rắn 1 Chất thải sinh hoạt: - Từ hộ gia đình, khu dân cư. - Từ các cơ quan hành chính, trường học, chợ,… Thành phần rất đa dạng như nilong, quần áo, vải vóc cũ, các loại thức ăn thừa, rau củ quả bỏ,….đây là loại rác có tính chất rất phức tạp bao gồm cả những thành phần rất khó phân huỷ như (nilong, quần áo, vải vóc, xỉ than…) và những thành phần dễ phân huỷ (thực vật bỏ, thức ăn thừa, vỏ hộp giấy..) 2 Chất thải y tế: Từ các trung tâm y tế Thành phần khá phức tạp với nhiều loại khác nhau như vỏ hộp, vỏ ống thuốc, bơm kim tiêm, băng gạc, bệnh phẩm…Đây là những loại chất thải rắn có tính chất nguy hại rất cao, mang mền bệnh có khả năng o nhiễm vi sinh cho môi trường sống 3 Chất thải xây dựng: Từ các hộ gia đình; từ các công trình xây dựng Chất thải xây dựng có thành phần đơn giản hơn so với các loại chất thải khác. Chủ yếu là các loại vật liệu xây dựng thừa, bỏ như gạch, ngói, đất, đá, vữa xây dựng…chúng là một trong những nguồn có khả năng gây ô nhiễm bụi trong không khí 4 Chất thải nông nghiệp: Từ hoạt động sản xuất nông nghiệp Chất thải nông nghiệp được sinh ra từ nhiều giai đoạn trong sản xuất nông nghiệp như chăm bón (vỏ chai, lọ các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc khích thích…) thu hoạch rơm, rạ, chế biến vỏ, trấu…Ngoại trừ các vỏ chai, lọ đựng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc khích thích thì đây là loại chất thải có tính chất nguy hại thấp, thường được người dân tái sử dụng vào các mục dích khác nhau như làm phân bón, làm chất đốt… 5 Chất thải lâm nghiệp: từ các hoạt động sản xuất, chế biến lâm sản Đây là chất thải được sinh ra trong quá trình sản xuất lâm nghiệp như củi vụn, cành, lá cây.. các loại chất thải này được người dân thu gom và làm chất đốt. 6. Chất thải công nghiệp từ các khu công nghiệp, từ các cơ sở sản xuất có quy mô lớn Đây là loại chất thải có thành phần rất đa dạng, phụ thuộc vào đặc điểm của cơ sở sản xuất. Hiện nay nguồn chất thải công nghiệp là nguồn chất thải có tính chất nguy hại cao và số lượng rất lớn 7. Chất thải thủ công nghiệp và dịch vụ: Từ các làng nghề truyền thống, từ các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp Đây là loại chất thải được sinh ra từ các làng nghề truyền thống trên địa bàn. Do đặc điểm sản xuất của từng làng nghề nên loại chất thải được sinh ra cũng có tính chất đặc trưng khác nhau. Tuy nhiên do số lượng chất thải quá lớn. Nên hiện nay đây là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các làng nghề. 8. Các nguồn khác: Các loại bùn, cặn từ quá trình thông tắc cống rãnh Đây là loại chất thải có tính chất nguy hại rất cao, nó có khả năng gây ô nhiễm mùi, bụi cho không khí; kim loại, chất hữu cơ và ví sinh vật cho các nguồn nước. Qua bảng trên, có thể thấy hiện nay các loại chất thải rắn được sinh ra trên địa bàn là rất đa dạng về nguồn gốc, thành phần và tính chất. Tuy nhiên, thành phần rác thải trên địa bàn thay đồi theo mùa trong năm. Hàng năm, vào mùa hè và thời gian tết cổ truyền, tỷ lệ lá và giấy trong rác thải tăng lên đáng kể, tuy nhiên vào khoảng tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau vào mùa xây dựng tỷ lệ gạch, ngói, đất, đá… trong rác thải tăng rất cao. Ngoài ra thành phần rác thải cũng phụ thuộc vào mức sống của người dân trong các khu vực, khu dân cư khác nhau có mức thu nhập khác nhau thì tỷ lệ các thành phần trong rác thải cũng khác nhau. Theo số liệu thống kê cho thấy, thành phần rác thải sinh hoạt phát sinh trên địa bàn xã chủ yếu là các chất hữu cơ dễ phân huỷ và nước, chiếm tỷ lệ rất lớn. Các thành phần còn lại là các chất khó phân huỷ như kim loại, nhựa và các chất không phân huỷ được như thuỷ tinh, sành sứ chiến tỷ lệ nhỏ tại Biểu 6, dưới đây: Biểu 6: Những thông tin về các thành phần chính có mặt trong chất thải TT Thành phần chất thải Tỷ lệ (%) 1 Rác hữu cơ 80 2 Rác vô cơ 7 3 Nhựa và chất dẻo 3 4 Các chất khác 10 Từ các số liệu trên về rác thải trên địa bàn có thể thấy nguồn gốc, thành phần và tính chất của các loại chất thải rắn được sinh ra với tính chất đang dạng, phức tạp và nguy hại từ các nguồn chất thải sẽ ảnh hướng đến môi trường sinh thái là điều khó tránh khỏi. Để giảm thiểu những tác động ảnh hưởng của các loại chất thải rắn, công tác thu gom, phân loại và xử lý cẩn phải được thực hiện triệt để. Hiện trạng thu gom chất thải. Hiện nay công tác thu gom rác thải đã được hầu hết chính quyền 3 xã quan tâm nhiều hơn. Công việc thu gom được UBND xã hoặc tổ chức xã hội như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh…đứng ra thực hiện. Tuy nhiên lượng chất thải rắn được thu gom hàng ngày còn chưa cao kéo theo công tác xử lý rác thải theo đúng quy trình còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, chưa triệt để. Việc ký hợp đồng với các công ty có chức năng thu gom, vận chuyển, xử lý rác mới bắt đầu thực hiện từ năm 2006. Tại Cẩm Yên công tác thu gom rác thải đã được xã thành lập các tổ/đội thu gom vận chuyển rác thải từ các thôn ra bãi tập kết của xã. Mức thu phí vệ sinh áp dụng là 10.000 đồng/hộ/năm. Hiện nay, xã chưa ký hợp đồng với Công ty URENCO Xuân Mai để chuyên chở và xử lý vì chưa có kinh phí mà chỉ đổ thành đống rồi đốt. Theo ước tính chủa chuyên gia thì tổng lượng rác thải tính bình quân tốc độ phát sinh chất thải rắn hàng ngày của xã là 0.5 kg/người thì tổng lượng rác thải theo tháng khoảng 69,76 tấn/tháng, năm là 844,81 tấn/năm. Nếu thực hiện tốt quy chế bảo vệ môi trường của xã thì số thu gom được theo tháng khoảng 55,81 tấn/tháng, năm là 679,05 tấn/năm đạt 80%. Tại xã Đại Đồng Xã đã thành lập các tổ/đội thu gom vận chuyển rác thải từ các thôn ra bãi tập kết của xã, mức thu áp dụng là 50.000 đồng/hộ/năm. Công tác thu gom vận chuyển và xử lý rác được Chính quyền xã ký hợp đồng với Công ty URENCO Xuân Mai để chuyên chở, xử lý năm 2006 là 1.003 tấn, năm 2007 là 572 tấn, Quý I/2008 là 213 tấn, vào 3 ngày trong tháng và được huyện hỗ trợ 50% kinh phí còn lại 50% xã trả với số tiền là 122.000 đồng/tấn. Tổng kinh phí thu gom rác thải áp dụng 50.000 đồng/hộ/năm chỉ đủ trả công cho người lao động vận chuyển từ thôn ra bãi rác tập trung (50% kinh phí thu được chi cho công tác vận chuyển), 50% chi cho xử lý, còn lại xã chi 50% xử lý. Các thôn đều duy trì tốt tổ thu gom rác thải, 1 tháng 4 lần vận chuyển ra khu bãi tập trung của xã. Ngân sách xã năm 2007 đã chi cho công tác xử lý rác thải là 60.542.000 đồng, năm 2008 dự kiến trả cho xử lý rác tổng kinh phí là 160 triệu đồng. Theo ước tính tổng lượng rác thải tính bình quân tốc độ phát sinh chất thải rắn hàng ngày là 0.5 kg/người thì tổng lượng rác thải theo tháng khoảng 142,50 tấn/tháng, năm là 1.733,75 tấn/năm; Số thu gom được theo tháng khoảng 114 tấn/tháng, năm là 1.387 tấn/năm đạt 80%. Trong năm 2007, xã đã tiến hành đổ bê tông 200 m2 và xây dựng tường bao quanh 1 bãi tập kết rác với kinh phí 35 triệu đồng và ngân sách xã chi cho công tác xử lý rác là 60.542.000 đồng. Tại xã Kim Quan Hiện nay, công tác thu gom rác thải đã được xã thành lập các tổ/đội thu gom vận chuyển rác thải từ các thôn ra bãi tập kết của xã, mức thu áp dụng hiện nay cho tất cả các hộ trong xã là 5.000 đồng/hộ/tháng. Từ năm 2007, Chính quyền xã đã ký hợp đồng với Công ty URENCO Xuân Mai để chuyên chở, xử lý năm 2007 là 160 tấn, Quý I/2008 là 65 tấn và được huyện hỗ trợ 50% kinh phí còn lại 50% xã trả với số tiến là 122.000 đồng/tấn. Theo các chuyên gia ước tính tổng lượng rác thải tính bình quân tốc độ phát sinh chất thải rắn hàng ngày là 0.5 kg/người thì tổng lượng rác thải theo tháng khoảng 97,89 tấn/tháng, năm là 1.190,99 tấn/năm; Nếu như thực hiện tốt quy chế bảo vệ môi trường của xã thì số lượng thu gom được theo tháng khoảng 73,42 tấn/tháng, năm là 893,25 tấn/năm đạt 75%. Hiện tượng lượng rác thải được xử lý, chôn lấp chiếm tỷ lệ thấp so với tổng lượng rác thải được sinh ra. Hiện tượng có địa phương chưa có điểm chôn lấp, xử lý rác do đó toàn bộ lượng rác thải đều được xả thẳng, đổ vào những vị trí trũng như ao, hồ, đầm, ven đê, sông, kênh mương…như Kim Quan, Cẩm Yên. Có hiện tượng một số nơi đổ bãi ra ven quốc lộ, tỉnh lộ gây mất mỹ quan, ảnh hưởng tới môi trường, sức khoẻ của nhân dân. Các bãi tập kết tạm thời của xã chưa được quy hoạch, chất lượng bãi thu gom, chôn lấp chưa hợp vệ sinh. Qua quá trình tìm hiểu thu thập thông tin số lượng chất thải rắn (CTR) phát sinh và được thu gom, các chuyên gia dự kiến ngay sau khi triển khai thực hiện Quy chế bảo vệ môi trường. Các xã sẽ thu gom được tổng lượng chât thải rắn hàng ngày của từng xã, chi tiết tại Biểu 7như sau: Biểu 7: Dự kiến về tổng lượng chất thải phát sinh và được thu gom TT Tên xã Số hộ gia đình Dân số (người) Tốc độ phát sinh CTR (kg/người/ngày) Tổng lượng CTR (kg/ngày) Phát sinh Được thu gom 1 Kim Quan 1.630 6.526 0,50 3.263 2.447 2 Cẩm Yên 987 4.651 0,50 2.326 1.860 3 Đại Đồng 2.207 9.500 0.50 6.676 5.007 Nguồn: Thu thập từ xã cung cấp Tác động của ô nhiễm chất thải rắn. Như chúng ta đã thấy hiện nay hiện trạng về nguồn gốc, thành phần và số lượng phức tạp của các loại chất thải rắn sinh ra trên địa bàn là rất đa dạng và phức tạp. Với những đặc điểm đó việc thu gom, phân loại và xử lý, nếu không được thực hiện tốt thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái, sức khoẻ cộng đồng là điều không thể tránh khỏi. Trong thực tế đã có rất nhiều bãi rác không hợp vệ sinh đã trở thành nguyên nhân gây nên ô nhiễm mùi, ô nhiễm kim loại nặng, chất hữu cơ cho các nguồn nước cho các khu dân cư. Ngoài ra các bãi rác cũng còn là nơi phát sinh và trung chuyển các bệnh dịch gây hại trực tiếp đến sức khoẻ cộng đồng. Đối với môi trường tự nhiên, rác thải, chất thải rắn là nguyên nhân gây ra hiện tượng mất cảnh quan, gây bạc màu đất đai, gây ô nhiễm nguồn nước và phát sinh các dịch bệnh nguy hiểm. Với tác hại nguy hiểm của chất thải rắn như trên chính quyền và mọi người dân địa phương cần có các định hướng thích hợp dài hơi trong lĩnh vực thu gom, phân loại rác và chất thải rắn. Theo đánh giá thống kê của chuyên gia, trong các loại chất thải nguy hại( chất thải công nghiệp và chất thải y tế) là mối hiểm họa đặc biệt. Chất thải rắn ảnh hưởng sức khỏe của cộng đồng; nghiêm trọng nhấtlfa đối với dân cư khu vực làng nghể, gần khu công nghiệp, bãi chôn lấp chất thải và vùng nông thôn ô nhiễm chất thải rắn đã đến mức báo động. Nhiểu bệnh đau mắt, bệnh hô hấp, bệnh ngòai da, tiêu chảy, dịch tả thưong hàn… do loại chất thải rắn gây ra. Hiện trạng sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp. Ô nhiễm môi trường hiện nay không riêng gì ở thành phố và các khu, cụm công nghiệp mà còn ở các vùng nông thôn, trong đó đáng ngại nhất là tình trạng sử dụng bừa bãi các loại thuốc trừ sâu, trừ cỏ, phân bón hóa học… không đúng cách. Mùi thuốc trừ sâu từ đồng ruộng lan tỏa trong không khí được gió đưa vào các khu dân cư, nồng nặc cả đêm ngày. sử dụng thuốc BVTV không đúng cách sẽ gây hại cho môi trường và sức khỏe con người qua nhiều đường khác nhau (ngấm vào nguồn nước, không khí, nhiễm vào thức ăn, đồ uống và vào cơ thể con người). Thế nhưng do không hiểu biết nên nông dân bơm thuốc BVTV không mang đồ bảo hộ lao động, để thuốc chảy qua bình ngấm ướt da. Khi bơm thuốc xong lại tắm qua loa. Có người trong lúc bơm thuốc vẫn uống rượu, hút thuốc vô tư không hề biết nguy hiểm. Trong sản xuất rau một số hộ không biết vô tình hay hữu ý, đã sử dụng quá mức lượng thuốc trừ sâu, dẫn đến dư lượng thuốc tồn đọng trên rau khá lớn, làm ngộ độc không ít người tiêu dùng. Trên thị trường hiện nay các chủng loại thuốc BVTV khá đa dạng. Có loại thuốc bị nghiêm cấm hoặc hạn chế sử dụng vẫn được dùng, vì hiệu quả diệt sâu cao. Việc phun thuốc vượt nồng độ cho phép

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111273.doc
Tài liệu liên quan