Đề tài Điều kiện và khả năng phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: Những vấn đề cơ bản về quỹ đầu tư chứng khoán . 3

I. Khái niệm, phân loại và vai trò của QĐTCK 3

1. Khái niệm QĐTCK . 3

2. Phân loại QĐTCK 4

2.1. Phân loại theo nguồn vốn huy động . 4

2.2. Phân loaị theo chính sách đầu tư . 9

3. Vai trò của QĐTCK . 10

3.1. Vai trò đối với nhà đầu tư . 10

3.2. Vai trò đối với doanh nghiệp 12

3.3. Vai trò đối với nền kinh tế 13

II. Quá trình hình thành và phát triển các QĐTCK trên thế giới 14

III. Các nhân tố và khả năng ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển các QĐTCK . 16

1. Yếu tố pháp lý . 16

2. Yếu tố môi trường 17

3. Yếu tố nội bộ của quỹ . 18

CHƯƠNG II: Điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay . 19

I. Khái quát chung về hoạt động của TTCK VN . 19

1. Quá trình hình thành và phát triển TTCK VN . 19

2. Tình hình hoạt động của các QĐTCK tại Việt Nam 21

3. Sự cần thiết phải phát triển các QĐTCK ở Việt Nam . 26

II. Những điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam 27

1. Điều kiện phát triển . 27

1.1. Điều kiện tầm vĩ mô . 27

1.2. Điều kiện tầm vi mô. 32

2. Khả năng phát triển các QĐTCK ở Việt Nam . 33

2.1. Trong giai đoạn hiện nay . 33

2.2. Khả năng phát triển trong tương lai . 34

CHƯƠNG III: Định hướng và những giải pháp cho việc hình thành và phát triển những điều kiện tạo thuận lợi cho các QĐTCK phát triển .

I. Định hướng của Đảng và Nhà nước cho phát triển các QĐTCK ở Việt Nam 36

II. Giải pháp về các điều kiện và khả năng được hình thành và phát triển thúc đẩy sự hình thành và phát triển các QĐTCK . 37

1. Mô hình hoạt động cho các QĐTCK ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay . 37

1.1. Những căn cứ lựa chọn . 37

1.2. Mô hình lựa chọn QĐTCK tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 38

2. Giải pháp tầm vĩ mô . 40

2.1. Hệ thống văn bản pháp luật . 40

2.2. Hệ thống thị trường . 41

2.3. Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước 42

2.4. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng . 42

3. Giải pháp tầm vi mô . 43

3.1. Đội ngũ nguồn nhân lực 43

3.2. Chiến lược hoạt động và định hướng của quỹ . 43

KẾT LUẬN 44

Danh mục tài liệu tham khảo 45

 

 

 

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1722 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều kiện và khả năng phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 1986. Và từ đó một cơ chế mới được xác lập: cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện cơ chế kinh tế mới đòi hỏi phải phát triển thêm nhiều loại thị trường đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Từ những thị trường tiền tệ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn đến thị trường tài chính phát triển cao là TTCK cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Có thể nói TTCK là thị trường phát triển cao nhất do nhiều đặc tính hữu ích của nó. Và ở Việt Nam ta, đứa con tinh tuý nhất của nền kinh tế đã ra đời vào ngày 20/7/2000 đánh dấu mốc lịch sử phát triển của thị trường Việt Nam. Đây là sự kiện trọng đại và có ý nghĩa, nó là kết quả của cả quá trình thai nghén trong nhiều năm. Từ cơ sở đầu tiên cho nó ra đời đó là quá trình CPH các DNNN diễn ra từ năm 1990 và đến nay đã có trên 970 công ty cổ phần đang hoạt động làm ăn có hiệu quả tạo nguồn hàng dồi dào cho TTCK. Cho đến hành lang pháp lý đó là sự ban hành hai nghị định quan trọng. Thứ nhất là nghị định 64/2002/NĐCP ngày 19/06/02 về chuyển DNNN thành CTCP. Và thứ hai là nghị định 48/98/NĐCP ngày 11/07/1998 về CK và TTCK. Hai nghị định này là xương sống cho sự tồn tại và phát triển của TTCK. Không chỉ có vậy, kèm theo đó là hàng loạt các thông tư hướng dẫn nghị định và các quy chế có liên quan trong đó có quyết định 05/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 về việc ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Một TTCK hoạt động trong một khuôn khổ pháp luật và một nguồn hàng hoá tiềm năng, cho đến nay sau hơn hai năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có 19 công ty tham gia niêm yết và 27 loại TP lưu hành trên TTCK với tổng giá trị CK niêm yết xấp xỉ 4000 tỷ đồng bao gồm cả CP và TP. Tổng khối lượng các loại CK được đưa vào niêm yết là hơn 1 triệu chứng khoán. Chỉ số chứng khoán VN-index xuất phát điểm là 100 ngày 20/07/2000 đến nay đã đạt 177,25 điểm vào phiên dao dịch ngày thứ Sáu 01/11/2002. Mức cao nhất đạt được của VN-index ngày 25/06/01 với đỉnh điểm 571,04 điểm. Đã có 9 CTCK được thành lập và hoạt động. Quy mô TTCK VN mặc dù còn nhỏ bé so với TTCK các nước khác (thông qua bảng số liệu so sánh dưới đây) nhưng theo định hướng của CP và UBCKNN, TTCK Việt Nam sẽ phát triển từng bước từ thấp đến cao ban đầu là TTGDCK dần tiến tới hình thành SGDCK. Phát triển TTCK tập trung đi liền phát triển thị trường GD phi tập trung (OTC) hoặc thị trường bảng II dành cho các công ty nhỏ. Số lượng công ty niêm yết không chỉ dừng ở mức đếm trên ngón tay mà sẽ tăng lên khoảng vài trăm công ty tham gia trên TTCK. Số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường trong những năm tới dự kiến sẽ đạt 300.000 nhà đầu tư trong đó đặc biệt chú trọng đến lượng nhà đầu tư là các tổ chức và phần lớn là các QĐTCK. Cho đến nay ở Việt Nam mới hình thành TTGDCK TPHCM. Dự kiến sắp tới UBCKNN sẽ cho thành lập thêm một thị trường ở Hà Nội đó là bảng II đáp ứng nhu cầu cho các công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết trên TTCK bảng I. Ngoài quá trình tạo cung hàng hoá cho thị trường như đẩy nhanh tiến độ CPH không chỉ các doanh nghiệp Nhà nước mà còn đối với cả các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, việc tạo cầu đáp ứng thị trường cũng đang được gấp rút tiến hành. Lượng cầu thị trường không chỉ xoay quanh các nhà đầu tư cá nhân mà đang chú trọng tập trung vào nhà đầu tư là tổ chức đặc biệt là các QĐTCK. UBCKNN đã có quyết định 05/98/QĐ-UBCK3 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ và có thể coi đây là khung sườn cơ bản cho các QĐTCK ra đời và hoạt động trên TTCK Việt Nam. Bảng: Quy mô một số TTCK trong khu vực năm 1993. 1 Karachi 11.602.000.000 7.090.000 2 Jakata 32.953.000.000 32.200.000 3 Thái Lan 130.510.000.000 334.360.000 4 Kualalumpur 380.328.000 591.000.000 5 Hàn Quốc 139.420.000.000 814.270.000 STT Sở giao dịch CK. Tổng giá trị CK (USD). Doanh số giao dịch bình quân/ngày (USD). 6 Thượng Hải & Thâm Quyến 40.567.000.000 166.9000.000 (Nguồn :Tạp chí tài chính, số chuyên đề chứng khoán, năm 1998). 2. Tình hình hoạt động của các QĐTCK tại Việt Nam. Quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK Việt Nam đã được Chính phủ xúc tiến từ năm 1994. Những năm sau đó các VBPL liên quan đến CK và TTCK dần được ban hành như Nghị định 48/1998/QĐ UBCK3 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Mặc dù hành lang pháp lý đã được ban hành nhưng đến thời điểm hiện nay chưa có một QĐTCK cũng như công ty quản lý quỹ nào ở Việt Nam được thành lập. Tuy nhiên đã có một số quỹ đầu tư trong nước tồn tại dưới dạng quỹ hỗ trợ đầu tư QG, quỹ đầu tư phát triển đô thị (gồm các quỹ ĐTPT HCM, Bình Định, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai và Đồng Tháp. Các quỹ này chủ yếu huy động vốn cho đầu tư phát triển thông qua hình thức phát hành trái phiếu hoặc huy động vốn qua TTCK. Nó có thể tham gia hoạt động thị trường vốn như kinh doanh chứng khoán, môi giới CK và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật về CK và kinh doanh CK. Ngoài ra các quỹ ĐTPT có thể thành lập QĐTCK tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán. Hiện có nhiều lý do khác nhau để giải thích cho sự vắng bóng của các QĐTPT trên TTCK. Chẳng hạn, các quỹ này do không sử dụng hết VĐT, vốn đóng góp khác nên chưa có nhu cầu huy động thêm vốn từ TTCK hoặc nếu có nhu cầu thì lại chưa xác định rõ chủ thể phát hành do khó khăn về cấu trúc tổ chức quỹ. Có quỹ tham gia mua cổ phiếu của các DN CPH nhưng mức độ không nhiều.Mặt khác, hầu hết người Việt Nam đều không biết và không hiểu gì về CK và TTCK do đó số lượng người đầu tư vào TTCK không nhiều. Và TTCK Việt Nam mới thành lập có quá ít công ty tham gia niêm yết trên TTGDCK, thị trường luôn xuất hiện tình trạng thiếu hàng nên QĐTCK không có “đất sống”. Một lý do nữa là các nhà đầu tư chứng khoán muốn tự mình đầu tư hưởng lợi chứ không muốn chia sẻ lợi nhuận với công ty quản lý quỹ bởi họ thấy TTCK Việt Nam hay hoạt động chưa có gì phức tạp. Họ tham gia đầu tư vào TTCK chỉ đơn thuần là mua cổ phiếu rồi chờ lên giá để hưởng chênh lệch. Như vậy tương lai cho các QĐTCK Việt Nam thành lập vẫn còn mập mờ phía trước. Tình hình trên mới xét yếu tố trong nước. Trong khi Việt Nam đang dần mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới thì không thể không xét đến sự tham gia của các QĐTCK nước ngoài. Vậy hiện nay ở Việt Nam có bao nhiêu QĐTCK nước ngoài đang hoạt động? Chúng ta cùng đi tìm câu trả lời từ thực tế hoạt động của các QĐTCK nước ngoài tại Việt Nam. Các QĐT nước ngoài đặt chân sớm nhất vào Việt Nam từ năm 1991 với sự trình diện đầu tiên của “Viêt Nam Fund Limited”. Những năm sau đó, các quỹ đầu tư nước ngoài đã nhanh chóng được thành lập nhằm chớp cơ hội tại thị trường mới mẻ. Có gần 400 triệu USD đã được 6 quỹ đầu tư nước ngoài: Lazard Viet Nam Fund (Pháp); Beta VietNam Fund (Anh); VietNam Frontier Fund (Mỹ-Pháp); Templeten VietNam Oppturnities Fund (Mỹ); VietNam Fund (Singapore) và VietNam Enterprise Investment Ltd (do công ty Dragon Capital-Singapore quản lý) mang vào thị trường vốn với tham vọng trở thành người kiến tạo thị trường tài chính trực tiếp taị Việt Nam. Tất cả các QĐT nói trên đều là những quỹ đầu tư chuyên nghiệp, được điều hành bởi những quản trị viên xuất sắc (trong đó có cả các quản trị viên Việt Nam nổi tiếng trong giới đầu tư quốc tế), hầu hết các QĐT đều đầu tư vào Việt Nam theo mô hình quỹ vốn mạo hiểm đóng, và đầu tư trực tiếp vào các dự án. Sở dĩ vậy là do nhiều lý do nhưng chính yếu là do khi quỹ đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo lối đầu tư tài chính, tức đầu tư gián tiếp thông qua nắm giữ cổ phiếu, thì còn gặp không ít cản trở. Đó là lượng công ty cổ phần hoá còn ít và khi họ đầu tư vào công ty cổ phần thì luôn bị coi là người lạ và bị các quản trị viên e dè sợ thôn tính. Do đó thay vì tỷ lệ đầu tư thông lệ 18% vốn vào các dự án mới như nguyên tắc đầu tư quốc tế thì 6 quỹ đầu tư tại Việt Nam phải dốc tới 70% vốn vào các dự án mới có nhiều rủi ro. Các dự án mà các quỹ đầu tư nhắm tới là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc công ty 100% vốn nước ngoài. Chỉ có quỹ đầu tư Dragon Capital là đầu tư vào một số cổ phiếu của các công ty trong nước đang niêm yết trên TTCK như công ty cổ phần cơ điện lành (REE), công ty cổ phần đồ hộp Hạ Long (Canfoco), công ty CP sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu Long An (Lafoco), công ty cổ phần nước giải khát Sài Gòn (Tribeco) và công ty sản xuất & xuất nhập khẩu Bình Thạnh (Gilimex). Số lượng các quỹ đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong những năm trước khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Sau đó số quỹ giảm dần. Năm 1991 có một quỹ, đến năm 1995 tăng lên đến 8 quỹ và từ năm 1996 đến năm 1998 giảm xuống còn 5 quỹ. Hiện nay lượng quỹ đầu tư trên thị trường giảm xuống còn 4 quỹ và mới đây có thêm qũy đầu tư Mekong Enterprise Fund thuộc đảo Cayman và Wareham Group Ltd (WGL) do Diagon Capital quản lý khai trương hoạt động tại Việt Nam. Bảng :Quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. 1991 1995 1998 2000** Số quỹ hoạt động 1 8 5 4 Số vốn quản lý (triệu $) 10 303 275 Số công ty thuộc danh mục 1 56* 51 Vốn huy động mới 10 53 0 46 Nguồn: Wiliam Scheela và Nguyễn Văn Định. *: Số liệu năm 1996. **: Báo cáo tổng kết hoạt động các quý năm 2000. Từ khi quỹ đầu tiên bắt đầu vào Việt Nam, số vốn huy động cao nhất là 30 triệu $. Số tiền này được đầu tư vào 56 công ty năm 1996. Tới năm 1998 số công ty thuộc danh mục giảm xuống còn 51 và đến năm 2000 số công ty thuộc danh mục đầu tư là 46 công ty. Về cơ cấu vốn huy động, có tới 82% được huy động từ ngoài châu á, không có phần nào vốn đầu tư của các quỹ được huy động ở Việt Nam. Sau đây là bảng tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam (Bảng ngang). Trong quá trình hoạt động, các quỹ đầu tư nước ngoài đều gặp khó khăn, vốn huy động và giá chứng chỉ quỹ đầu tư đều giảm. Có duy nhất Dragon Capital (Việt Nam Enterprise Investment Ltd) là quỹ thành công nhất tại Việt Nam, nó đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau và thu được nhiều thành quả nhất định. Vốn huy động của quỹ tăng từ 16,5 triệu $ lên 21,87 triệu $ trong tháng 8/2000 và tính đến thời điểm 10/2002 số vốn mà quỹ huy động đã lên đến 65 triệu $ và 52 triệu $ đã được đầu tư vào 30 doanh nghiệp tại Việt Nam dưới hình thức góp vốn mua cổ phần, tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp trong nước (chiếm đến 80%). Theo ông Dominic Scriven, GĐ quỹ Dragon Capital, trong thời gian tới đối tượng mà quỹ nhắm tới cũng vẫn là các doanh nghiệp trong nước gồm các doanh nghiệp nghiệp cổ phần các loại và cả những Công ty TNHH có ý định chuyển thành công ty cổ phần. Lĩnh vực chú trong đầu tư của quỹ là tài chính-ngân hàng, hàng tiêu dùngtrong nước, sản xuất nông lâm-hải sản, tin học và cơ sở hạ tầng. Để giải thích cho những kết quả không như mong muốn của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có một số lý do sau: Thứ nhất, hành lang pháp luật của Việt Nam không theo kịp nhịp đập thị trường. Các quỹ đầu tư chứng khoán có tầm nhìn xa trông rộng về phía thị trường Việt Nam nhưng lại không có sự hậu thuẫn đầy đủ từ phía Nhà nước. Thiếu điều kiện này cộng thêm sự dè chừng khi họ ở vị thế của những đối tác nước ngoài đã khiến các quỹ đầu tư này không thể tiếp cận đến những cơ hội đầu tư thuận lợi. Giới hạn của luật đầu tư nước ngoài và gần đây nhất là luật doanh nghiệp chỉ cho phép các đối tác nước ngoài nắm giữ tối đa 30% cổ phiếu của một tổ chức phát hành làm cho tác động của các quỹ đầu tư với các đối tác hoàn toàn không đủ mạnh. Khi nghị định 48/98 về chứng khoán và TTCK và kèm theo đó có quyết định 05/1998/QĐ-UBCK3 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ ra đời thì mặc dù có quy định về hoạt động của QĐTCK song khi áp dụng quyết định này vào quỹ đầu tư nước ngoài lại vướng phải một số bất cập: chẳng hạn, khoản 1 điều 3 của quy chế nêu rõ: “QĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư, được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư vào chứng khoán tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ” hay khoản 2 điều 14 quy định “công ty quản lý không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ để đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành, và không được đầu tư quá 20% tổng giá trị tài sản của một quỹ vào chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành” và khoản 3 điều 14 của quy chế quy định : “công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của các quỹ do mình quản lý mua quá 49% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành hoặc một công ty không niêm yết”. Nếu áp dụng những điều này trong điều kiện hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp có mức vốn dưới 10 tỷ, thì tỷ lệ vốn mà QĐT đầu tư vào một doanh nghiệp trên tổng nguồn vốn của quỹ là quá thấp. Mặt khác do tỷ lệ thấp nên buộc quỹ phải đầu tư vào nhiều doanh nghiệp khác nhau làm cho chi phí quản lý tăng lên dẫn đến hầu hết các quỹ đều không có lãi. Lý do thứ hai đó là quan ngại của Chính phủ về những rủi ro do hình thức đầu tư gián tiếp mang laị mang lại cho nền tài chính quốc gia sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Chẳng hạn, ở Thái Lan, năm 1997 đầu tư gián tiếp nước ngoài chiếm tới 80% vốn đầu tư trực tiếp. Còn ở Việt Nam vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài hiện chiếm chưa đến 0,5% vốn đầu tư trực tiếp. Việt Nam cần có khoảng 3 đến 6 tỷ USD (10-20% FDI) vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thì sẽ tạo sự sôi động cho TTCK và khi đó nhiều QĐTCK nhất định sẽ tham gia thị trường. Thứ ba, lỗi cũng không hoàn toàn từ phía bên ngoài , chiến lược hoạt động thời gian đầu của các quỹ đầu tư dã có nhiều điểm không tương hợp với môi trường kinh tế Việt Nam. Hầu hết các quỹ chỉ tập trung tìm kiếm các dự án quy mô vốn lớn, trong thực tế vốn trung bình của doanh nghiệp Việt Nam chỉ khoảng chục tỷ đồng. Ngoài ra do đòi hỏi khắt khe về tỷ suất lợi nhuận nên trong thời gian đầu các quỹ đã tự trói buộc thị trường đầu tư của chính mình. Những khó khăn trên cộng với nhiều khó khăn khác đã làm 2 trong số 6 quỹ ban đầu không đủ kiên nhẫn để đi hết chặng đường. Lazard &Templeton đã quyết định rút vốn khỏi Việt Nam. Còn lại 4 quỹ đầu tư nước ngoài đến nay vẫn còn tồn tại và hoạt động. Hy vọng ở tương lai không xa các quỹ sẽ dần lấy lại được vị thế của mình và chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin vào điều đó khi mà trên TTCK Việt Nam ngày càng có nhiều công ty cổ phần tham gia niêm yết cổ phiếu và các nhà đầu tư ngày càng quan tâm TTCK hơn. 3. Sự cần thiết phải phát triển các QĐTCK ở Việt Nam. Việt Nam đã bước sang thế kỷ 21, thế kỷ của khoa học công nghệ và tri thức, do đó đòi hỏi Việt Nam phải phát triển cho kịp xu thế thời đại. Đầu tư cho phát triển chiều sâu, mũi nhọn tập trung chất xám trong những lĩnh vực ngành nghề then chốt là xu hướng chính. Muốn vậy phải có lượng vốn đầu tư, đặc biệt là VĐT dài hạn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Thực tế cho thấy phần lớn khối lượng các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang rơi vào tình trạng bị hạn chế tiếp cận với các luồng VĐT, kể cả luồng vốn cổ phần cũng như vốn vay dài hạn từ phía ngân hàng. Một hướng giải quyết vấn đề này là thành lập các QĐTCK cung cấp vốn cho các doanh nghiệp , đồng thời tạo kênh thông tin liên chiều giữa doanh nghiệp và thị trường. Mặt khác quá trình CPH DNNN và phát triển TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn từng bước phát triển hoàn thiện. Với gần 1000 DNNN đã CPH và TTCK Việt Nam đã có 19 công ty tham gia niêm yết thì chưa thể nói là nhiều.Lượng nhà đầu tư trên TTCK chủ yếu vẫn là nhà đầu tư cá nhân có xu hướng đầu tư ngắn hạn trong khi đó thị trường vẫn vắng bóng các nhà đầu tư có tổ chức. Để kích cầu TTCK và kích cầu đầu tư cho nền kinh tế cần thiết phải thành lập các QĐTCK do nó giúp ổn định và phát triển thị trường thông qua lối đầu tư dài hạn có tính toán cân nhắc kỹ lưỡng. Ngoài ra QĐTCK còn kiến tạo nên hàng hoá cho thị trường giúp nhà đầu tư có thêm nhiều kênh đầu tư hấp dẫn, an toàn hơn và tính thanh khoản cao, giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và do vậy vừa ổn định phát triển thị trường, vừa thu hút thêm nhiều nhà đầu tư . Những phân tích ở trên đã cho thấy trong giai đoạn hiện nay và sắp tới cần thiết phải thành lập các QĐTCK tại Việt Nam. Nó là sản phẩm tất yếu của quá trình kết tinh các điều kiện, vai trò , các yếu tố chi phối cả khách quan lẫn chủ quan. Tuy nhiên nhìn lại các QĐTCK đã thành lập tại Việt Nam ta có thể thấy rõ một điều là tất cả đều là QĐTCK nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và chỉ có quỹ VEIL là hoạt động có hiệu quả. Tại sao vậy? QĐTCK đã có nhưng đó là quỹ của nước ngoài mà quỹ nước ngoài lại có một số bất lợi về cơ cấu như cơ cấu nguồn nhân lực : quỹ nước ngoài sử dụng phần lớn NNL là người nước ngoài có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư nhưng bị hạn chế trong tìm hiểu môi trường đầu tư Việt Nam và không có mối quan hệ rộng ở nội địa. Mặt khác quỹ huy động vốn chủ yếu là ngoại tệ do đó chịu rủi ro về tỷ giá hối đoái. Thứ ba, họ chỉ được phép nắm giữ phần thiểu số cổ phiếu của các công ty trong nước (tối đa 30%) và không có quyền kiểm soát cao. Trong khi đó QĐTCK nội địa lại có khả năng tồn tại và phát triển cao hơn. Nó có thể huy động vốn nội tệ (và như thế tránh rủi ro tỷ giá), không bị hạn chế quy mô đầu tư vốn cổ phần hoặc các chức vụ có liên quan tới kiểm soát công ty nhận đầu tư. Đội ngũ chuyên gia người Việt Nam làm việc sẽ tạo ra một mối quan hệ rộng và khả năng giám sát hiệu quả hơn. Như vậy sự cần thiết là phải thành lập các QĐTCK tại Việt Nam. Vấn đề còn lại ở chỗ lộ trình cho nó thành lập và để cho nó ra đời và hoạt động được cần phải hội tụ những điều kiện và khả năng gì? II. Những điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam 1. Điều kiện phát triển QĐTCK trong hoàn cảnh Việt Nam. Điều kiện tầm vĩ mô. 1.1.1. Các QĐTCK muốn phát triển trong một môi trường kinh tế nhiều thành phần trước hết phải có một hành lang pháp lý cho nó hoạt động. Vào năm 1994 Việt Nam đã sôt sắng chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK nhưng phải mất 4 năm sau đó khung pháp lý chung về chứng khoán và TTCK mới ra đời. Đó là việc ban hành nghị định 48/1998 /NĐCP về chứng khoán và TTCK ngày 11/7/98. Có thể coi đây là văn bản đầu tiên định hướng cho TTCK Việt Nam và các thành phần liên quan đến TTCK trong đó có hẳn chương V nói về QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Ban hành tiếp sau nghị định là một số thông tư, quyết định hướng dẫn cho nghị định. Liên quan đến QĐTCK và công ty quản lý quỹ có quyết định 05/98/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/98 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Như vậy nhìn chung các QĐTCK muốn ra đời và hoạt động tại Việt Nam đã có một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh. Các văn bản này là khung sườn, là chiếc xương sống xuyên suốt mọi vấn đề liên quan đến TTCK. Và chúng càng rõ ràng chi tiết bao nhiêu thì hoạt động của TTCK nói chung cũng như riêng QĐTCK càng được đảm bảo ổn định và phát triển bền vững. Để tạo điều kiện hơn nữa về khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển QĐTCK UBCKNN đã nghiên cứu bản dự thảo NĐ thay thế NĐ 48/98 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong bản dự thảo đề cập đến sửa đổi một số điều về QĐTCK theo hướng càng rộng mở hơn như bổ sung loại hình “QĐTCK không phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng” có lượng nhà đầu tư không nhiều, chủ yếu là các nhà đầu tư lớn có tổ chức và kinh nghiệm. Các điều kiện thành lập quỹ được quy định đơn giản và cụ thể hơn như chỉ có quỹ đầu tư phát hành chứng chỉ ra công chúng mới phải xin phép UBCKNN cho thành lập. Còn QĐTCK không phát hành chứng chỉ ra công chúng thì chỉ cần đăng ký thành lập với UBCKN. Các nội dung liên quan đến quỹ đầu tư nước ngoài, công ty quản lý quỹ nước ngoài cũng được dự thảo quy định chi tiết hơn. Các giao dịch về chứng khoán đều được thực hiện bằng đồng Việt Nam . Tới nay bản dự thảo đã được bộ tư pháp thẩm định và đang chờ TTg CP ký ban hành. Hy vọng không lâu sau các điều kiện về hành lang pháp lý mới sẽ được chỉnh sửa theo hướng ngày càng rộng mở và chặt chẽ. 1.1.2. Không giống như phần lớn các TTCK tồn tại ở các nước Tư bản, TTCK Việt Nam ra đời trong nền kinh tế nhiều thành phần theo đình hướng XHCN. Hướng tồn tại và phát triển cho TTCK ở Việt Nam là đi từ thấp đến cao phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế đất nước từng thời kỳ. Trong thời gian đầu khi mới tiến hành CPH, lượng CTCP còn ít do đó kinh nghiệm tổ chức quản lý hoạt động trong các CTCP cũng như kinh nghiệm quản lý và điều hành các CTCP của các cơ quan hữu trách, các ban ngành liên quan chưa nhiều. TTCK lúc này hình thành nhằm định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp. Đối với các DN đã tiến hành CPH thì tiến tới đăng ký niêm yết trên TTCK, các công ty đang trong quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ thấy được lợi ích có được từ việc tham gia TTCK và từ đó có định hướng hoạt động cụ thể cho mình. Ngoài ra một lợi ích thiết thực hơn nữa khi định hướng hoạt động cho TTCK Việt Nam đó là tạo thêm kênh hàng hoá trung và dài hạn cho nền kinh tế, tạo một môi trường hấp dẫn cho sự tham gia của các định chế tài chính như các ngân hàng ,công ty bảo hiểm, và đặc biệt là các QĐTCK. TTCK Việt Nam đã ra đời nhưng cần đẩy mạnh hoạt động hơn nữa. Trong điều kiện tình hình thị trường bất ổn định như hiện nay cần phải có sự can thiệp kịp thời của các cơ quan ban ngành liên quan nhằm vực dậy thị trường. Ta không thể nói chỉ QĐTCK mới có vai trò kích cầu thị trường được, chính TTCK cũng tác động trở lại, nó là điều kiện cần cho QĐTCK hoạt động, điều kiện này có tốt thì QĐTCK mới hoạt động tốt được. 1.1.3. Một trong những điều kiện nữa cho QĐTCK hình thành và phát triển đó là quy mô hoạt động của các doanh nghiệp đủ lớn đảm bảo kích thích hoạt động đầu tư vốn của các QĐTCK. Do đặc điểm của QĐTCK là đầu tư tài chính theo lối đầu tư gián tiếp thông qua các công cụ tài chính như CP,TP...do đó nếu không có các công cụ tài chính này thì QĐTCK không thể hoạt động được. QĐTCK hình thành vốn góp từ nhiều nhà đầu tư, đối tượng tham gia đầu tư vào quỹ là khá lớn do vậy lượng quỹ sử dụng để đem đi đầu tư không phải là nhỏ. Quỹ thường tìm kiếm các đối tượng đầu tư là các công ty lớn , có quy mô và thâm liên hoạt động lâu dài. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam đã thành lập và sẽ thành lập phải có một quy mô vốn tương đối lớn mới đủ điều kiện kích thích các QĐTCK hoạt động và phát triển. Một lượng hàng hoá dồi dào cả về số lượng và chủng loại lẫn chủng loại sẽ nguồn hành phong phú cho các QĐTCK lựa chọn đầu tư. Quy mô các doanh nghiệp này càng lớn bao nhiêu thì hàng hoá cho thị trường càng nhiều bấy nhiêu và từ đó các QĐTCK sẽ có nhiều cơ hội phát triển. 1.1.4. Quá trình CPH tại Việt Nam đã diễn ra từ đâu những năm 90.Có thể nói các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế chuển thành công ty cổ phần đã tạo ra một cơ chế quản lý mới cho các doanh nghiệp và ngoài ra nó còn tạo thêm cho thị trường các công cụ tài chính mới. Chính các công cụ này như đã nhắc ở phần trước, là nguồn hàng chính yếu cho các QĐTCK. Do vậy đi liền với sự ra đời và hình thành TTCK thì tức là cũng phải có sự ra đời và hình thành các công ty cổ phần và ở phần lớn các nước, hai yếu tố này luôn đi liền nhau. Tại Việt Nam,vào thời điểm TTCK ra đời đã có trên 460 CTCP được thành lập (nguồn: báo ĐTCK số 39-1/9/2000). Số lượng này so với gần 6000 doanh nghiệp nhà nước hiện tại đang hoạt động thì chưa phải là nhiều nhưng so thời gian lúc đó thì lượng công ty cổ phần cũng là khá lớn đối với quy mô TTCK Việt Nam. Có thể xem xét một số khía cạnh về quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam: ngay đầu những năm 1990 Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương và định hướng chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước sang mô hình quản lý mới đó là các công ty cổ phần. Nhiều năm sau đó quá trình cổ phần hoá diễn ra một cách ì ạch do chưa có một khung pháp lý nào hướng dẫn cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần . Mãi đến năm 1998 Chính phủ mới ban hanh Nghị định 44/1998 /NĐCP về chuyển DNNN thành CTCP, và từ đó đến nay các doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành CPH đều phải theo những định hướng của NĐ này. Tuy nhiên cũng cần phải thấy một điều rằng mặc dù đã có các văn bản pháp luật điều tiết nhưng cũng vướng phải không ít bất cập khi tiến hành CPH các DNNN . Ví dụ như khi tiến hành CPH thì rất khó trong việc xác định giá trị doanh nghiệp do chưa có quy định cụ thể, hay khó khăn trong việc bán cổ phần cho người lao động, hoặc những trường hợp ban giám đốc không muốn doanh nghiệp mình tiến hành cổ phần hoá vì sợ mất chức mất quyền....Vì vậy đòi hỏi phải chấn chỉnh hơn nữa công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra còn phải tiến tới quá trình CPH các thành phần kinh tế khác. Theo định hướng phát triển kinh tế chung thì định hướng tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tiên thông qua các doanh nghiệp nhà nước, sau đó mới dần tiến đến cổ phần hoá các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Điều này vừa thể hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước vừa đảm bảo quá trình cổ phần hoá đi lên một mạch từ thấp đến cao theo định hướng chung trong phát triển TTCK Việt Nam và khi quá trình CPH diễn ra một cách thuận lợi thì sẽ tạo một lượng hàng hoá dồi dào cho TTCK, kích thích hoạt động của các QĐTCK. 1.1.5. Một trong những điều kiện khác cũng không thể thiếu được khi quỹ QĐTCK ra đời và hoạt động đó là sự đa dạng trong môi trườn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72640.DOC
Tài liệu liên quan