Đề tài Định hướng đổi mới chính sách tiền tệ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I: Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. 3

I. Khái niệm và các công cụ của chính sách tiền tệ 3

1. Khái niệm: 3

2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 3

II- Quan niệm về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế 5

Chương 2: Thực trạng đổi mới chính sách tiền tệ trong thời gian qua 7

I- Công cụ dự trữ bắt buộc 7

II- Công cụ tái cấp vốn 8

III- Công cụ lãi suất 8

IV- Công cụ thị trường mở 10

V- Công cụ tỷ giá hối đoái 10

Chương 3: Định hướng đổi mới chính sách tiền tệ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế 12

I- Nhiệm vụ nâng cao năng lực cạnh tranh đặt ra đối với việc đổi mới chính sách tiền tệ ngân hàng. 12

II- Các định hướng và giải pháp chủ yếu trong việc hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ. 13

1. Về lãi suất . 13

2. Về tỷ giá hối đoái 14

3. Nghiệp vụ thị trường mở 14

4. Tái cấp vốn. 16

5. Dự trữ bắt buộc: 16

Kết luận 17

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Định hướng đổi mới chính sách tiền tệ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chân thành cảm ơn. Chương I: Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. I. Khái niệm và các công cụ của chính sách tiền tệ 1. Khái niệm: Chính sách tiền tệ nhìn một cách tiền tệ là trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước do Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. 2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các biện pháp mà ngân hàng trung ương có thể sử dụng để tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 2.1. Công cụ trực tiếp. Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượng và NHTƯ kiểm soát công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi NHTƯ sử dụng công cụ trực tiếp, nó tác động trực tiếp vào mục tiêu trung gian, từ mục tiêu trung gian tác động đến tổng cầu. Hạn mức tín dụng là công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. ở Việt Nam, NHNN Việt Nam bắt đầu sử dụng hạn mức tín dụng như một công cụ của chính sách tiền tệ từ tháng 6 năm 1994. Tuy nhiên ngay từ năm 1995, 1996 công cụ hạn mức tín dụng đã bộc lộ những hạn chế là mức tăng dư nợ tín dụng thực tế đã vượt quá hạn mức tín dụng cho phép và nó trở nên không có hiệu quả. Từ năm 1997 khi hạn mức tín dụng thừa so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế nên cuối năm 1998 đến nay NHNN Việt Nam đã tạm ngừng sử dụng công cụ này. 2.2. Công cụ gián tiếp 2.2.1. Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các tổ chức tín dụng huy động được. ở Việt Nam hiện nay việc xác định và quản lý dự trữ bắt buộc thực hiện theo quyết định số 51/1999/QĐ - NHNN1 ngày 10 tháng 2 năm 1999 và quy chế dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. 2.2.2. Chính sách tái chiết khấu Chính sách tái chiết khấu thể hiện qua việc ngân hàng trung ương cung ứng vốn tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Chính sách tái chiết chấu được thực hiện thông qua cửa số tái chiết khấu. Ngân hàng trung ương áp dụng lãi suất tái chiết khấu và quy định các điều kiện để tái chiết khấu cho các tổ chức tín dụng. Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu NHTƯ còn quy định hạn mức tái chiết khấu tức là quy định mức cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã quy định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các TCTD của NHTƯ. Đồng thời ngân hàng trung ương còn quy định các tiêu chuẩn để thực hiện tái chiết khấu về thời hạn, về chủng loại giấy tờ có giá, chất lượng giấy tờ có giá và uy tín của TCTD khi vay vốn của NHTƯ. 2.2.3. Nghiệp vụ thị ttrường mở Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn của Ngân hàng trung ương trên thị trường mở. Theo luật NHNN Việt Nam tháng 12 năm 1997, nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mà NHTƯ thực hiện mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở là công cụ có rất nhiều ưu điểm nên được rất nhiều nước sử dụng có thể nói đây là công cụ đầy quyền lực vì một khi NHTƯ quyết định mua hoặc bán thì Ngân hàng thương mại tham gia tích cực đáp ứng được yêu cầu của NHTƯ. Tại Việt Nam, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở theo quyết định số 85/2000/QĐ - NHNN 14 ngày 09 tháng 3 năm 2000. ở Việt Nam bên cạnh các công cụ trên NHNN còn sử dụng công cụ lãi suất ấn định dưới các hình thức như: ấn định khung lãi suất, ấn định trần lãi suất cho vay, sàn lãi suất tiền gửi và công cụ tỷ giá hối đoái để điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ giá hối đoái là trong những công cụ cực kỳ nhạy cảm có sức công phá mạnh mẽ. Các nước khác không coi tỷ giá hối đoái là một công cụ quan trọng mà chỉ coi đó là một yếu tố thị trường. Nhưng ở nước ta, trong luật đã quy định đây là công cụ quan trọng vì nền kinh tế Việt Nam chưa được tiền tệ hoá cao chứa đựng nhiều rủi ro, có nguy cơ tụt hậu. II- Quan niệm về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực canh tranh của nền kinh tế, nhưng xuất phát từ mục đích nghiên cứu và những định nghĩa hiện có, tiểu luận có thể đưa ra một định nghĩa có tính thực tiễn như sau: Năng lực canh tranh của nền kinh tế Việt Nam có thể được hiểu là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh để dành ưu thế và thắng lợi trên một số phương diện nào đó trong qúa trình cạnh tranh với các nền kinh tế khác. Trong thời đại hiện nay, một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao thường có các biểu hiện sau: Thực hiện mở cửa tương đối rộng rãi; môi trường kinh tế vĩ mô trong đó có môi trường pháp lý thông thoáng, tương đối ổn định, thuận lợi cho hoạt động cạnh tranh kinh tế lành mạnh ở mọi cấp độ: Doanh nghiệp, nghành và nền kinh tế để cuối cùng tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, một quốc gia có năng lực cạnh tranh cao thường có khả năng chiếm lĩnh và chi phối ngày càng nhiêù đối với những thị trường quan trọng hàng đầu của thế giới như thị trường ô tô, máy bay, thị trường công nghệ thông tin viễn thông...; có tỷ lệ cao về tổng giá trị kim nghạch hàng hoá dich vụ xuất khẩu trên GDP, trong đó giá trị hàng hoá dịch vụ dựa trên tri thức và công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn. Giữa năng lực cạnh tranh và hiệu quả có quan hệ chặt chẽ và luôn tác động qua lại với nhau. Với khả năng cạnh tranh cao, một quốc gia có thể tranh thủ được nhiều cơ hội tốt và có điều kiện thuận lợi hơn trong việc thực hiện cạnh tranh với các quốc gia khác và kết quả cuối cùng là có thể thu được nhiều lợi ích và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Ngược lại, trong cuộc cạnh tranh quốc tế hiện nay, việc đạt hiệu quả cao luôn ngắn liền với một năng lực canh tranh cao trên cơ sở một nền công nghệ tiên tiến và sự quản lý tổ chức hợp lý quá trình sản xuất - dịch vụ cho phép giảm nhiều hơn mức chi phí tổng hợp trên một đơn vị sản phẩm tương tự cùng phẩm cấp của các quốc gia khác. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chịu sự tác động của nhiều yếu tố, nhiều nghành ở tất cả các cấp độ: vĩ mô và vi mô, trong đó đổi mới chính sách tiền tệ là một yếu tố rất quan trọng. Chương 2: Thực trạng đổi mới chính sách tiền tệ trong thời gian qua Từ đầu năm 1999 đến nay NHNN đã thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng để thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ. Một số biện pháp và chính sau đây được áp dụng: I- Công cụ dự trữ bắt buộc Để sử dụng có hiệu quả công cụ này phù hợp với chủ trương nới lỏng chính sách tiền tệ, thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 51/1999/ QĐ - NHNN1 ngày 10 tháng 2 năm 1999 theo đó đã bổ sung sửa đổi một số nội dung của quy chế dự trữ bắt buộc ban hành kèm theo quyết định số 369/1998/QĐ - NHNN1 ngày 01 tháng 12 năm 1998 của thống đốc NHNN cho phù hợp với luật NHNN và chủ trương nới lỏng chính sách tiền tệ. Cụ thể: - Mở rộng thêm đối tượng áp dụng là quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp tác, hợp tác xã tín dụng. - Quy định tiền dự trữ bắt buộc là số tiền tổ chức tín dụng phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc gồm 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt ngân phiếu còn thời hạn thanh toán. - Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi. - Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0% đối với các trường hợp trước đây được miễn hoặc chưa phải thực hiện dự trữ bắt buộc. - Việc trả lãi dự trữ bắt buộc do chính phủ quy định. Để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tăng cung ứng tiền, góp phần thúc đẩy đầu tư, trong năm 1999, NHNN đã 2 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc: + Lần thứ nhất: Giảm từ 7% xuống còn 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng đối với các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh và công ty tài chính (riêng đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là 3%). + Lần thứ 2: Từ 5% xuuống còn 1% đối với các NHTM cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, và quỹ tín dụng nhân dân khu vực. Trong điều kiện nền kinh tế và doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, việc giảm tỷ lệ dự trữ bặt buộc đã có tác dụng thúc đẩy tổ chức tín dụng mở rộng dư nợ tín dụng (năm 1999 dư nợ tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế đã tăng lên và đạt 22,9% so với 16,4% vào năm 1998); giảm chi phí và tăng khả năng sinh lời của các tổ chức tín dụng, giúp các tổ chức này khắc phục một phần khó khăn trong hoạt động cho vay. II- Công cụ tái cấp vốn Trong giai đoạn trước tháng 3 năm 1997, NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước trên tái cấp vốn, chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, lãi suất tái cấp vốn còn có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Trong 2 năm gần đây 1999, 2000 và đầu năm 2001 NHNN đã nhiều lần điều chỉnh theo hướng giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn phù hợp với chủ trương kích cầu đầu tư và nới lỏng chính sách tiền tệ. Ví dụ: trong năm 1999 đã 4 lần giảm lãi suất này từ mức 1,1% vào đầu năm xuống còn 0,5% vào cuối năm trong năm 2000 NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất này. Bên cạnh đó trong năm 1999 NHNN đã ban quy chế để tái chiết khấu của NHNN đối với các giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc nhà nước thông qua đấu thầu tại NHNN. Tín phiếu NHNN,các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do thống đốc NHNN quy định cho từng thời kỳ. Lãi suất chiết khấu của NHNN đối với các tổ chức tín dụng được công bố trong năm 1999 và 2000 là 0,45%/tháng. III- Công cụ lãi suất Trong năm 1999 và đầu năm 2000NHNN vẫn điều hành lãi suất theo cơ chế trần lãi suất theo đó, NHNN quy định trần lãi suất, các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do các tổ chức tín dụng quy định. Trong năm 1999, để phù hợp với các chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và chủ trương kích cầu, NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng từ 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 1,25% tháng đối với cho vay dài hạn xuống mức thấp nhất là 0,85% đối với khu vực thành thị và 1%/tháng đôí với khu vực nông thôn. Trần lãi suất cho vay của các NHTMCP nông thôn là 1,15%/tháng. Quỹ tín dụng nhân dân cho vay thành viên 1,5%/tháng , NH phục vụ người nghèo cho vay hộ nghèo với lãi suất 0,7%/tháng. Kể từ ngày 05 tháng 8 năm 2000 theo quyết định 241/QĐ - NHNN1 của thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ Theo cơ chế mới, đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam các tổ chức tín dụng sẽ ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ do thống đốc NHNN quy định cho từng thời kỳ. Trong đó lãi suất cơ bản được NHNN công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quyết định của thống đốc NHNN trong từng thời kỳ, còn biên độ thì được công bố hàng tháng trong trường hợp cần thiết NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Ví dụ tại thời điểm quý 4 năm 2000, lãi suất cơ bản là0,75% và biên độ cho phép là 0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay của quỹ TDND đối với các thành viên vẫn giữ ở mức 1,5%/tháng như trước đó. Đối với lãi suát cho vay bằng USD các TCTD sẽ ấn định mức lãi suất cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường tiền tệ liên ngân hnàg Singapore kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay và biên độ do Thống đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ. Ví dụ lãi suất cho vay ngắn hạn(từ 1 năm trở xuống) bằng: SIBOR (lãi suất thị trường tiền tệ Singapore) kỳ hạn 3 tháng + tối đa là 1%; lãi suất cho vay trung dài hạn: SIBOR + tối đa là 2,5%. Đây là một bước tiến bộ quan trọng ttrên con đường giảm dần sự điều hành công cụ lãi suất mang nặng tính hành chính, từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất. Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế trần lãi suất, bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản, chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn chỉ đạo cho các TCTD hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay khi mà nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất thì việc quy định biên độ dao động là nhằm đảm bảo quản lý của nhà nước trước khi chuyển hẳn sang lãi suất thị trường lúc đó việc điều hành chính sách tiền tệ chủ yêú bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Chính vì vậy mà tính hình lãi suất ngân hàng đến nay hầu như không biến động so với thời điểm trưóc khi điều chỉnh. Ngày 29 tháng 5 năm 2001, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 781 về việc cho vay bằng đôla Mỹ. Theo đó, các TCTD được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. Đây là một bước đi tự tin táo bạo và sáng suốt đặt tiền đề hết sức quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. IV- Công cụ thị trường mở Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12 tháng 7 năm 2000 tham gia thị trường này là NHNN, các TCTD. Tuy nhiên, đến nay NHNN chỉ cấp phép hoạt động cho 12 thành viên, hàng hoá cho nghiệp vụ này còn rất hạn chế, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN, tổng khối lượng của 2 loại tín phiếu này đang được các NHTM nắm giữ khoảng 3000 tỷ đồng trong đó 1000 tỷ đồng là tín phiếu của NHNN, trong phiên đấu thầu đầu tiên đã có 300 tỷ đồng tín phiếu được mua bán. Việc chuấn bị cho thị trường mở đã hơn 1 năm nay và cho đến nay, về phương diện pháp lý đã hoàn tất, từ việc ban hành quy chế, quy trình nghiệp vụ thị trường mở, quy định về đăng ký giấy tờ có giá ngắn hạn đến việc thành lập ban điều hành. V- Công cụ tỷ giá hối đoái Về bản chất thì chính sách tỷ giá hối đoái giai đoạn hiện nay cũng hoàn toàn giống như giai đoạn trước ngày 25 tháng 2 năm 1999 từ tháng 2 năm 1999, bằng các quyết định 64/1999/QĐ - NHNN7 và quyết định 65/1999/QĐ - NHNN7 ngày 25 tháng 2 năm 1999, NHNN đã bãi bỏ cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch tuỳ theo thời điểm (có lúc biên độ này lên tới mức ± 10%) thay bằng việc công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các tổ chức tín dụng được phép xác định tỷ giá mua và bán đối với đôla Mỹ không vượt quá biên độ 0,1% so với tỷ giá dao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Kể từ đó đến nay, tỷ giá lên ngân hàng vẫn luôn luôn tăng kịch trần nhưng do biên độ chỉ có ± 0,1% nên tỷ giá hối đoái thường giao động từ 10 - 20 đ/USD. Tuy nhiên, nhiều lúc tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng kịch trần nhưng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ngày hôm sau mà NHNN công bố vẫn ở mức cũ, điều này chức tỏ tỷ giá liên ngân hàng mà NHNN công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của NHNN. Nói chung đây là một bước đổi mới rất cơ bản trong cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá ở Việt Nam, cho phép phản ánh đầy đủ đúng đắn hơn các quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường,đồng thời cũng phù hợp hơn với thông lệ về cơ chế điều hành tỷ giá đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh đó bảo hiểm tiền gửi cũng đã đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 2000; công ty quản lý nợ cũng đang tích cực chuẩn bị để đi vào hoạt động từ đầu năm 2001. Chương 3: định hướng đổi mới chính sách tiền tệ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế I- Nhiệm vụ nâng cao năng lực cạnh tranh đặt ra đối với việc đổi mới chính sách tiền tệ ngân hàng. Theo kết quả đánh giá của nhiều tổ chức và nhà nghiên cứu thì trừ một số hàng hoá nông - lâm - thuỷ sản đặc thù như gạo, cà phê, chè, tôm sú ... và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như dệt may còn phần lớn hàng hoá và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam hiện nay có năng lực cạnh tranh thấp so với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới. Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và của nền kinh tế Việt Nam trở thành nhiệm vụ vừa có tính cấp bách nhưng cũng mang ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với Việt Nam trong việc hội nhập và cạnh tranh với các nền kinh tế khác. Việc thực hiện hiện vụ chiến lược nói trên cần được quán triệt sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế đặc biệt là đối với hoạt động tiền tệ là lĩnh vực có tác động chi phối mạnh mẽ năng lực cạnh tranh và hiệu quả của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược này chính sách tiền tệ cần phải xuất phát từ nhiệm vụ chiến lược của cả chặng đường dài là công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo hướng mở rộng và duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao bền vững. Trên cơ sở đó đáp ứng kịp thời đầy đủ và thuận tiện nhất đối với nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng của toàn bộ nền kinh tế để tăng cường đầu tư phát triển, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để giảm chi phí nâng cao chất lượng tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế. Trong quá trình đổi mới chính sách tiền tệ cần quán triệt các quan điểm chủ đạo chủ yếu sau: - Bám sát yêu cầu thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, đồng thời phải hướng tới phục vụ đắc lực nhất cho quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong quá trình hội nhập. - Đảm bảo sự kết hợp có hiệu quả 2 nhiệm vụ cơ bản là tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước với sử dụng tối đa những mặt tích cực của cơ chế thị trường trong lĩnh vực tiền tệ. - Cần đảm bảo tính khoa học đồng bộ và khả thi của các định hướng đổi mới công cụ chính sách tiền tệ. II- Các định hướng và giải pháp chủ yếu trong việc hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ. 1. Về lãi suất . Việc điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất cơ bản hiện nay là một bước mới trong quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng lộ trình tự do hoá lãi suất. Trước mắt cần tổ chức nghiên cứu xác định rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất do NHNN công bố. Hiện nay việc xác định biên độ chưa phản rõ và đâỳ đủ mức độ rủi ro tín dụng và sự công bằng liên quan đến hoạt động cho vay của các TCTD trên thị trường tín dụng ở các địa phương, các địa bàn khác nhau, đặc biệt là đối với khu vực nông thôn. Vì vậy việc hoàn thiện điều hành lãi suất trong giai đoạn tới chủ yếu là nhằm vào sự hoàn thiện nguyên tắc xác định lãi suất cơ bản. Như chúng ta đã biết, lãi suất vừa phải đáp ứng lợi ích của người đi vay và người cho vay; đối với người cho vay thì lãi suất phải bao gồm lạm phát dự kiến, rủi ro và mức lợi nhuận mong đợi; còn người đi vay thì mức lãi suất phải nhỏ hơn mức lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, về phía ngân hàng cần xác định mức lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi nhuận mong đợi. Theo như hiện nay, NHNN xác định lãi suất cơ bản chỉ dựa trên một số NHTM là rất phiến diện chưa phản ánh hết quan hệ cung cầu tín dụng thực của thị trường; trong khi đó thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có gần 100 tổ chức tín dụng hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. 2. Về tỷ giá hối đoái Cơ chế điều hành tỷ giá cũng cần có lộ trình tiến tới tự do hoá tỷ giá, xoá bỏ cơ chế quản lý theo biên độ tỷ giá như hiện nay. Cần tính đến và có sự gắn kết hơn với quan hệ cung cầu về ngoại tệ và quan hệ thương mại giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài để có sự điều chỉnh linh hoạt và kịp thời đối với tỷ giá nhằm duy trì khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên trong thời gian tới khi mà lãi suất chưa được tự do hoá vẫn còn sự can thiệp của Nhà nước, dự trữ ngoại tệ còn quá ít, kinh tế tăng trưởng chưa thật vững chắc, thị trường tiền tệ chưa phát triển thì việc duy trì cơ chế tỷ giá công bố và biên độ giao dịch như hiện nay vẫn là cần thiết. Hiện nay nhu cầu về ngoại tệ còn rất cao do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khi đó cung ngoại tệ thì rất hạn chế. Nhiều người thừa nhận đồng VN đang bị đánh giá cao, nếu cứ để tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung cầu thị trường sẽ tất yếu dẫn đến một sự tăng vọt không lường, nguy cơ lạm phát và khủng hưởng sẽ xảy ra. Mặt khác VN đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhập khẩu đang chiếm tỷ trọng lớn hơn so với xuẩt khẩu, cơ cấu xuất khẩu nước ta chủ yếu là hàng nông sản, may mặc, giầy da ... những mặt hàng có hàm lượng chất xám thấp trong khi đó cơ cấu nhập khẩu thường là các loại máy móc, thiết bị hiện đại, các nguyên liệu đầu vào... Do dó lợi ích của việc nhập khẩu hiện nay là lớn hơn xuất khẩu, ngoài ra nếu tỷ giá hối đoái tăng vọt sẽ làm cho các khoản nợ nước ngoài tăng. Chính vì vậy mà việc duy trì một tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ làm cho Nhà nước chủ động hơn trong việc phân tích những lợi ích của các mức tỷ giá hối đoái mang lại. 3. Nghiệp vụ thị trường mở - Giá của các giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên thị trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung; vì vậy lãi suất là mục tiêu NHNN cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở. Đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng là tuỳ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ: muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, khi đó lãi suất cố định do NHNN chỉ đạo, còn khi mục tiêu của chính sách tiền tệ nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo 1 lượng mong muốn thì thực hiện đấu thầu lãi suất, khi đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu thị trường, còn lãi suất trúng thầu được xác định tại điểm đạt được khối lượng tiền cần bơm hoặc rút bớt khỏi lưu thông. Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu khối lượng và lãi suất trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá các giấy tờ có giá. Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng thời gian giao dịch và phương thức giao dịch tuỳ ý phù hợp với yêu cầu của chính sách tiền tệ. Khi dự báo dự trữ không thay đổi, biểu hiện có sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì phương thức giao dịch sẽ là mua hoặc bán thẳng giấy tờ có giá nhằm tạo một sự chuyển động tiền tệ ban đầu cần thiết ngoài nghiệp vụ mua hoặc bán hẳn dễ dàng cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch, nếu phiên giao dịch trước mua quá nhiều thì phiên kế tiếp có thể thực hiện giao dịch bán để giải quyết số chênh lệch đó hoặc ngược lại. Nếu dự báo cho thấy dự trữ thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân như: thời vụ, thiên tai, hoặc do dự đoán tình hình khó khăn chính xác ... Để hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng trên thị trường mở là phương thức mua bán có kỳ hạn nhằm làm tăng tạm thời hay giảm tạm thời 1 lượng tiền nhất định trong 1 thời gian giao dịch mua bán. - Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường: Xuất phát từ chỗ hàng hoá của thị trường mở là các giấy tờ có giá ngắn hạn có độ thanh khoản cao, bảo đảm quản lý dễ dàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhậy, chính xác đạt được ý mong muốn. Do đó, trong thời gian tới cần bổ sung vào cơ cấu hàng hoá này các tín phiếu kho bạc có thời hạn dưới 1 năm, các loại chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp nhận ngân hàng ... Tuy nhiên, về lâu dài khi điều kiện pháp lý cho phép, phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ gồm các loại ngắn hạn mà cả các loại trung và dài hạn có thể xem xét làm công cụ giao dịch miễn là chúng có độ thanh khoản cao. ở đây, thời hạn của giấy tờ có giá không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhậy của tín dụng tiền tệ, vì đã có phương thức giao dịch mua lại trên nghiệp vụ thị trường mở. Hiện đại hoá hệ thống thanh toán, để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần trang bị hệ thống thanh toán và quản lý hiện đại, có phần mềm hiện đại kết nối giữ nội bộ trong NHNN và giữa NHNN với các TCTD thành viên nhằm bảo đảm thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu tạo lập và ký hợp đồng mua lại đến khâu thanh toán chuyển khoản và thông báo báo cáo ... 4. Tái cấp vốn. Công cụ tái cấp vốn chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp với lãi suất. Nếu NHNN muốn các tổ chức tín dụng ra sức khai thác nguồn vốn trong nhân dân thì qui định mức tái cấp vốn càng cao, ngược lại việc qui định một mức lãi suất tái cấp vốn chỉ khuyến khích các TCTD vay của ngân hàng. Trong thời gian tới, khi mà thị trường mở đã đi vào ho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35113.doc
Tài liệu liên quan