Đề tài Đô la hóa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán sử dụng ngoại tệ công khai. Hiện tượng niêm yết, quảng cáo sản phẩm bằng ngoại tệ vẫn còn phổ biến công khai tuy NHNN đã có quy định cấm niêm yết quảng cáo bằng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp không có thu bằng ngoại tệ (Số 985/NHNN-QLNH). Trong thời gian gần đây hoạt động niêm yết mua bán ngoại tệ tự do không còn công khai nhưng hoạt động mua bán ngọai tệ ngầm vẫn tiếp diễn. Các quầy thu đổi chính thức không kiếm chác được bao nhiêu nếu theo đúng nghĩa vụ với ngân hàng,do đó họ làm theo kiểu thỏa thuận với nhau, họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra không được đổi, bán cho những người lẽ ra không được bán. Bên cạnh đó, tâm lý người dân và các doanh nghiệp thích vẫn thích mua bán trên thị trường chợ đen, đã làm cho một số lớn ngoại tệ chui vào túi tư nhân. Ngân hàng muốn thu mua ngoại tệ mà không được vì ba lý do:

Tỷ giá hối đoái của VND/USD cố định và biên độ giao động thấp khoảng 0.25%, điều này tạo một khoảng cách giữa thị trường ngọai tệ tự do và tỷ giá công bố của ngân hàng thương mại nên người dân có đôla thường đi đổi tại các nơi đổi tiền của tư nhân có lợi hơn là ra ngân hàng.

 

doc33 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2507 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đô la hóa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hiện đô la hóa ở Việt Nam Đô la hóa ở Việt Nam biểu hiện rõ ở hai lĩnh vực hoạt động quan trọng của nền kinh tế khi Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường: thứ nhất là đô la hóa trong hoạt động ngân hàng và thứ hai là đô la hóa trong hoạt động thương mại, đầu tư. Đô la hóa trong hoạt động ngân hàng Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô la USD. Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô la hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003 còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 22%. Cuối năm 2007, con số này ở mức 20 - 21 %. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả, người dân đã có niềm tin vào đồng tiền nội địa nhiều hơn. Tuy nhiên, đến đầu năm 2008, khi tình trạng lạm phát tăng cao, tâm lý lo lắng về sự mất giá của đồng nội tệ tăng lên thì tình trạng đô la hoá ở nước ta đang có nguy cơ trầm trọng trở lại. Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%. Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài - những nước có lãi suất tiết kiệm bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD tương đối lớn, song hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ 2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá. Biểu hiện cụ thể của Đô la hóa ở Việt Nam qua các con số như sau : Bảng 1 : Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2) ở Việt Nam STT Năm Tỷ lệ 1 1989 28.2 2 1990 32.4 3 1991 41.2 4 1992 30.6 5 1993 22.9 6 1994 22.2 7 1995 21 8 1996 20.3 9 1997 23.6 10 1998 24.6 11 1999 26.1 12 2000 26.9 13 2001 31.7 14 2002 28.4 15 2003 23.6 16 2004 24.3 17 2005 23 18 2006 21.6 19 03/2007 19.6 20 06/2007 20.2 Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007 Biểu đồ: Tỉ lệ đô la hóa giai đọa 1989 – 2007 của Việt Nam Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đô la thì không ngừng tăng lên, đến tháng 6/2007 đã ở mức 13,992 tỷ USD. Con số này một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hoá. Bảng 2 : Khối lượng tiền gửi bằng đồng USD (FCD) tại các ngân hàng Việt Nam STT Thời gian FCD (triệu USD) 1 2003 6,220 2 2004 8,215 3 2005 10,027 4 2006 12,396 5 03/2007 12,560 6 06/2007 13,992 Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007 Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi đô la. Đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ cuối tháng 9 năm 2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002. Bảng 3 : Tỷ lệ dư nợ cho vay bằng ngoại tệ trên tổng dư nợ cho vay STT Thời gian Tỷ lệ (%) 1 2003 22 2 2004 24.9 3 2005 24.3 4 2006 21.1 5 03/2007 22 6 06/2007 22.2 Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007 Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm... có thể thấy mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính xác của đô la hoá là số liệu rất khó xác định. Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô la mà người dân đã gửi vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi ra các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hồng Kông, để kiếm lãi suất cao. Điều này có tác động xấu bởi vì những đồng đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong nước. Bottom of Form Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam không còn thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, con số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa tính đến thời điểm cuối năm 2003. Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam bắt đầu cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Nếu nhìn về hình thức bên ngoài thì điều này có vè yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta nhận thấy các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ phải trả nợ bằng đồng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt Nam mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro. Nếu đồng đô la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ. Khi đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Đô la hoá trong lĩnh vực thương mại Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử, kinh doanh nhà hàng, khách sạn…. Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VND lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v... Mặc dù hai loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VND và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng liên kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra, doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai. Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan chung của hiện tượng đô la hóa, thì tại Việt Nam còn có những nguyên nhân chủ quan, đặc thù dẫn tới tình trạng, mức độ đô la hóa trong nền kinh tế hiện nay. Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong một thời gian dài và tâm lý lo ngại đồng nội tệ bị mất giá Nguyên nhân này mang tính lịch sử, do Việt Nam từng trải qua một thời kỳ lạm phát trầm trọng. Bất cứ một nền kinh tế nào bị đôla hóa đều có căn nguyên từ phát từ người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong một thời gian dài và đồng nội tệ bị mất giá, điều này làm gia tăng phí bảo hiểm rủi ro đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ. Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ốn định trong một thời gian dài, tỷ giá hối đoái giảm, làm gia tăng các chi phí bảo hiểm rủi ro đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ. Do vậy, công chúng chuyển các tài sản danh nghĩa sang một đồng tiền ổn định hơn hoặc các tài sản thực. Tại Việt Nam là vàng và kể từ năm 1990 là đô la Mỹ. Đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó. Bảng : Chỉ số CPI của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2009 Năm CPI (%) 1998 7.8 1999 4.1 2000 -1.7 2001 0.8 2002 1.5 2003 3 2004 9.5 2005 8.4 2006 7.5 2007 8.3 2008 22.9 2009 6,68 Biểu đồ: Chỉ số CPI của Việt Nam qua các năm Chỉ số giá hàng tiêu dùng ở Việt Nam rất không ổn định. Tỷ lệ lạm phát năm 1998 là 7.8%, giảm dần trong một số năm tiếp theo thậm chí nền kinh tế nằm trong tình trạng giảm phát trong năm 2000 (tỷ lệ lạm phát -1,7%), tăng đột biến đạt 9.5% năm 2004 và dưới tác động của khhủng hoảng kinh tế thế giới, năm 2008 CPI đã tăng vọt lên 22,9%, gây ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiền tệ nói chung. Ở Việt Nam, tuy lạm phát trong những năm qua đã duy trì ở mức thấp không vượt quan 2 con số, tuy nhiên trong thời gian qua tình hình thế giới có nhiều biến động, khủng hoảng khu vực, giá dầu leo thang, giá vàng nhiều biến động, điều này dẫn đến tâm lý người dân bất an khi nắm giữ tài sản bằng VND. Năm 2005, 2006 giá vàng và các mặt hàng chủ yếu như xăng, điện, thép… đều tăng, giá lương thực tiêu dùng trong nước cũng tăng đáng kể, tin nóng hổi nhất là ngành than cũng đang dự kiến tăng giá kéo theo dự kiến tăng giá của ngành sản xuất xi măng…. Biểu đồ: Chỉ số CPI của Việt Nam so với các nước trong khu vực giai đoạn 2000 - 2007 Những thay đổi về chính sách kinh tế và tiền tệ của chính phủ: Hai lần phá giá tiền đồng vào các năm 1985 và 1997 – 1998 làm những người cất giữ tiền đồng bị thiệt hại không nhỏ so với việc cất giữ bằng USD. Do nền kinh tế còn nằm trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu gặp phải những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế nhất là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở miền Bắc nên lạm phát tiếp tục gia tăng, từ chỗ giá trị đồng tiền (đồng NHNN VN được đổi ngày 2/5/1978) sát với sức mua của đô la Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng bị dãn ra, đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, tháng 9/1985 tỷ giá giữa tiền đồng và USD là 150đ/USD. Trước tình hình đó, 14/9/1985 Nhà nước tiến hành đổi tiền lần 4 theo tỷ lệ 10đ tiền NHNN cũ ăn 1đ tiền NHNN mới. Đây là cuộc cách mạng tiền tệ theo trật tự ngược Tiền – Lương – Giá. Sau đổi tiền tình trạng lạm phát càng tăng cao, 1986 lạm phát đạt 774%. Tháng 3 năm 1989 Việt Nam duy trì một hệ thống tỷ giá hối đoái có nhiều mức khác nhau đều có lợi cho nhập khẩu. Để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu (năm 1989 Việt Nam đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế nhằm mở rộng tự do hóa nền kinh tế và thay đổi sản xuất công nghiệp từ thay thế nhập khẩu sang định hướng xuất khẩu), tỷ giá VND so với USD được phá giá cho các giao dịch thương mại trong khuôn khổ các kế hoạch Trung ương. Biến động tỷ giá được thể hiện qua bảng sau: Bảng : Biến động tỉ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn 1988 - 2010 Năm Tỷ giá 9/1988 900 1989 4.000 1992 11.500 1995 10.800 2004 15.770 2005 15.800 2006 16.017 2007 16.110 10/2008 16.610 1/2009 16.930 8/2010 18.932 Biểu đồ: Biến động tỉ giá hối đoái Việt Nam giai đoạn 1988 - 2010 Nền kinh tế Việt Nam khá dễ dàng cho hoạt động sử dụng ngoại tệ công khai Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán sử dụng ngoại tệ công khai. Hiện tượng niêm yết, quảng cáo sản phẩm bằng ngoại tệ vẫn còn phổ biến công khai tuy NHNN đã có quy định cấm niêm yết quảng cáo bằng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp không có thu bằng ngoại tệ (Số 985/NHNN-QLNH). Trong thời gian gần đây hoạt động niêm yết mua bán ngoại tệ tự do không còn công khai nhưng hoạt động mua bán ngọai tệ ngầm vẫn tiếp diễn. Các quầy thu đổi chính thức không kiếm chác được bao nhiêu nếu theo đúng nghĩa vụ với ngân hàng,do đó họ làm theo kiểu thỏa thuận với nhau, họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra không được đổi, bán cho những người lẽ ra không được bán. Bên cạnh đó, tâm lý người dân và các doanh nghiệp thích vẫn thích mua bán trên thị trường chợ đen, đã làm cho một số lớn ngoại tệ chui vào túi tư nhân. Ngân hàng muốn thu mua ngoại tệ mà không được vì ba lý do: Tỷ giá hối đoái của VND/USD cố định và biên độ giao động thấp khoảng 0.25%, điều này tạo một khoảng cách giữa thị trường ngọai tệ tự do và tỷ giá công bố của ngân hàng thương mại nên người dân có đôla thường đi đổi tại các nơi đổi tiền của tư nhân có lợi hơn là ra ngân hàng. Bảng 2.7: Tỷ giá giữa USD và VND năm 2005 (số liệu ngày cuối tháng) Đvt: Đồng/USD Thời gian Ngân hàng Ngoại thương Thị trường tự do Hà Nội Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Tháng 1 15788 15790 15790 15810 Tháng 2 15802 15804 15800 15820 Tháng 3 15822 15824 15810 15830 Tháng 4 15831 15833 15820 15850 Tháng 5 15850 15852 15840 15860 Tháng 6 15854 15856 15850 15870 Tháng 7 15861 15863 15870 15880 Tháng 8 15877 15879 15880 15890 Tháng 9 15894 15896 15880 15900 Tháng 10 15904 15906 15900 15900 Tháng 11 15909 15911 15940 15960 Tháng 12 15915 15917 15900 15930 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thứ hai là đổi tiền tại các địa điểm tư thường dễ dàng và nhanh chóng hơn và không bị các thủ tục hành chánh rườm rà chi phối. Theo quy định hiện nay của NHNN, ở các ngân hàng cá nhân doanh nghiệp khi mua ngoại tệ phải có mục đích rõ ràng và có các chứng từ chứng minh cho mục đích hợp pháp. Thứ ba là Ngân hàng nhà nước hay những ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ thường không đủ đôla để cấp cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập cảng hàng hóa hay dịch vụ nên các cơ sở này phải mua đôla của tư nhân. Bên cạnh đó, ta phải nhận thức ra tâm lý thích sử dụng, cất trữ ngoại tệ đã ngấm sâu vào tưu tưởng của một bộ phận tầng lớp dân cư. Có thể sử dụng ngoại tệ tiện lợi, gọn gàng hơn so với VND. Thực tế, nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ 100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng EUR chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được. Tình trạng tham nhũng cũng góp phần tạo nên hiện tượng đôla hóa xã hội nhất là khi đi phong bì bằng ngoại tệ vừa gọn vừa lịch sự. Đây chính là những nỗi nhức nhối bức xúc là vấn đề nan giải đối với nhà nước nếu muốn hạn chế “đôla hóa” xã hội. Nguồn cung ngoại tệ gia tăng nhanh chóng Nguyên nhân thứ ba đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ. Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên : • Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh... bán hàng thu bằng ngoại tệ còn tuỳ tiện và diễn ra phổ biến. • Thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, đa số dân cư có tâm lý tiết kiệm để dành, lo xa cho cuộc sống. Mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến đổi của tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ và gửi tiền bằng đô la. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức rất cao. Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng đô la Mỹ, vàng tăng giá rất lớn. Do đó nhiều người lựa chọn đô la để cất trữ và gửi ngân hàng. Trong các năm 1999 - 2001, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh diểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về lãi suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng. • Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 5% - 6%/năm, thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay đô la Mỹ, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng lên. • Bên cạnh đó nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nhất là trong thời kì lạm phát tăng cao nên họ lựa chọn đô la Mỹ để gửi ngân hàng. Thực trạng đó còn do nguyên nhân đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 đồng được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với gần 1,6 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các giao dịch lớn như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ. • Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam; người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu lao động, đi học tập, hội thảo, làm việc ngắn ngày mang về. • Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam., năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt người; năm 1997 là 1,715 triệu ...; năm 2002 là 2,628 triệu;...; năm 2004 đạt hơn 2,9 triệu lượt người. Năm 2008 đạt 4,25 triệu lượt khách, sang năm 2009 giảm còn 3,77 triệu lượt và chỉ trong 8 tháng đầu năm 2010, số lượng khách đã đạt 3,35 triệu lượt khách. Số lượng khách đó mang theo một số lượng lớn ngoại tệ, và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt tại các cơ sở tư nhân. • Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. Một số con số về tình hình thu hút ODA vào Việt Nam trong giai đoạn 2007-2009: Tổng vốn ODA ký kết tính đến 20/7/2008 đạt 1389 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 1277 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 112 triệu USD. Giải ngân vốn ODA 7 tháng đầu năm nay (bao gồm cả vốn được ký kết trước 2008) đạt 1205 triệu USD, bằng 63% kế hoạch năm, trong đó vốn vay đạt 1063 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại đạt 142 triệu USD. Trong tổng vốn giải ngân, vốn vay của 3 nhà tài trợ lớn là WB, JBIC, ADB đạt mức giải ngân cao nhất với 850 triệu USD, chiếm 70% tổng vốn giải ngân Năm 2009: Tổng vốn ODA ký kết đạt ở mức 5.056 triệu USD (vốn vay: 4.822 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 234 triệu USD), tổng vốn ODA được giải ngân trong năm 2009 lên đến 3 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay.  Năm 2010: Hội nghị các nhà tài trợ năm 2009 đã khép lại với cam kết với số tiền cam kết viện trợ kỷ lục từ trước tới nay: hơn 8 tỷ USD, trong đó hơn 1,4 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại • Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp. Lượng vốn đầu tư gián tiếp các năm 2006 đạt 2tỷ USD ; năm 2007 đạt 21tỷ 6,3 tỷ USD ; năm 2008 khoảng 4,6 tỷ. Dưới đây là số liệu về tình hình thu hút và thực hiện vốn FDI Giai đoạn Số dự án FDI Đăng kí Tb vốn/ DA FDI thực hiện % thực hiện 1990-2006 8,162 77,380 9.48 37,270 48% 2007 1,544 21,348 13.83 8,030 38% 2008 1,171 64,000 54.65 11,500 18% 2009 839 21,480 25.60 10,000 47% 2007-2009 3,554 106,828 30.06 29,530 28% Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài Và trong 8 tháng đầu năm 2010, vốn FDI thu hút được đã đạt 11,6 tỷ. Biểu đồ : Tình hình FDI giai đoạn 1990 - 2009 Bảng : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. (đơn vị: tỷ USD) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Kim ngạch 14 15 16 20 26 32 39 48 62 • Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý. Bảng 4 : Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong các năm gần đây STT Năm Lượng kiều hối(triệu USD) 1 1991 35 2 1992 1336.6 3 1993 140.98 4 1994 249.47 5 1995 284.96 6 1996 468.99 7 1997 400 8 1998 950 9 1999 1200 10 2000 1757 11 2001 1820 12 2002 2150 13 2003 2580 14 2004 3100 15 2005 4290 16 2006 4700 17 2007 5500 Nguồn : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Biểu đồ: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 1991 -2007 Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng. Từ những nguyên nhân đã phân tích trên cho thấy, tình trạng đô la hóa ở Việt Nam xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan của nền kinh tế thị trường cũng như những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ những yếu kém của nền kinh tế cũng như trong sự điều hành chính sách tiền tệ. Hiện tượng đô la hóa đã có tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội của nước ta. Tác động của hiện tượng Đô la hóa ở Việt Nam. Hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam đã đem đến cho nền kinh tế Việt Nam cả tác động tích cực và lẫn tiêu cực. Tác động tích cực  Đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát chấp nhận được : Đồng USD đã trở thành một thành phần không thể thiếu trong khối tiền tệ quốc gia, hơn nữa, đó là một thành phần tích cực. Chính sách tiền tệ thắt chặt của chúng ta trong thời gian dài nhằm đối phó với nguy cơ lạm phát vốn luôn là nỗi ám ảnh thường trực của các nhà lãnh đạo tiền tệ đã không tác động quá tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chính là nhờ sự hiện diện của đồng đôla. Nhờ nó, các hoạt động kinh tế trong khu vực tư vẫn tiếp tục tăng trưởng, ngay cả trong những thời kỳ mà khu vực này không tiếp cận được các khoản tín dụng cần thiết từ hệ thống ngân hàng. Ổn định tỷ giá VNĐ : Nguồn cung USD đầy đủ trong nền kinh tế cũng đã góp phần ổn định tỷ giá đồng bạc Việt Nam và trong một số trường hợp nó còn đi quá đà trong việc nâng cao tỷ giá của đồng bạc, khiến các chuyên gia kinh tế quy cho nó trách nhiệm làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Những năm 2006, 2007 khi đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài tăng vọt cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của nguồn kiều hối, tỷ giá đồng bạc Việt Nam đã ổn định ở mức cao, dự trữ ngoại tệ quốc gia tăng nhanh mặc dù nhập siêu lớn chưa từng có. Thậm chí, đã có lúc tiền đồng khan hiếm nghiêm trọng khiến các ngân hàng thương mại, và cả Ngân hàng Nhà nước, từ chối mua vào USD của các doanh nghiệp, gây nên tình trạng tắc nghẽn trong việc triển khai dự án đầu tư nước ngoài. Thu hút đầu tư nước ngoài, tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp VN giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng - “Đô-la hoá” có thể là yếu tố giúp Việt Nam thu hút khách du lịch, kiều hối, tạo thuận lợi cho việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ... 2. Tác động tiêu cực - Đô la hoá làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối, mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ phòng ngừa rủi ro khi đồng đô la Mỹ biến động bất thường - Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn định ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách tiền tệ - Tình trạng đô la hoá cũng gây thêm khó khăn cho việc ổn định trở lại thị trường ngoại tệ do đô la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ - Việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán tiền mua hàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐô la hóa ở Việt nam- thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan