Đề tài Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khuc vực công, nhưng một số quan điểm khác thì ngược lại, hãy giải thích và trình bày quan điểm

Mục lục

1. Khái quát chung. 3

1.1. Khái niệm khu vực công. 3

1.2. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước 4

2. Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khu vực công 5

2.1. Giữ vai trò chủ đạo là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. 5

2.2. Đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước 8

2.3. Điều tiết thị trường phù hợp với tình hình thực tế của đất nước: 8

2.4. Tạo ra nhiều công ăn việc làm: 10

2.5. Giúp cho nền kinh tế tự chủ hơn, hạn chế sự phụ thuộc và nguy cơ bị thâu tóm của nước ngoài. 11

2.6. Cung cấp các sản phẩm phù hợp với mức sống của người dân. 13

3. Doanh nghiệp nhà nước không nên nằm trong khu vực công. 13

3.1. Thứ nhất 14

3.2. Thứ hai 14

3.3. Thứ ba. 15

3.4. Thứ tư 16

3.5. Thứ năm 16

4. Nên nằm trong khu vực công, nhưng phải có những đổi mới trong hoạt động 19

4.1. Cơ chế giám sát cần chặt chẽ hơn, tách cơ quan quản lý khỏi kinh doanh. 20

4.2. Cơ chế quản lý phù hợp hơn và thống nhất. 21

4.3. Cần xã hội hóa nhiều hơn nữa và chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết. 23

4.4. Về quy định về nhân sự và phân công phân cấp hợp tác quản lý theo từng bộ phận chuyên quản 26

4.5. Xác lập và khống chế các tỉ lệ tài chính nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho tập đoàn. Trong đó tỉ lệ nợ không quá 3 lần trên vốn chủ sở hữu. 27

4. Định hướng phát triển DNNN. 30

Mục lục 32

 

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khuc vực công, nhưng một số quan điểm khác thì ngược lại, hãy giải thích và trình bày quan điểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở ngành Viễn thông, trong khi hầu hết các mặt hàng trên thị trường tăng giá ào ào vào thời điểm đó thì giá cước viễn thông đã giảm trung bình 15% sau khi thông tư 02/BTTTT của Bộ Thông tin truyền thông cho phép doanh nghiệp viễn thông được tự quyết định giá cước. Cũng trong năm 2008 thì lĩnh vực xăng dầu cũng đã có những nỗ lực kiềm chế rất đáng khen dù giá dầu thế giới có những biến động mạnh.Có những thời điểm giá xăng tăng đến 19000đ/l .Cuối cùng đến ngày 1/12/2008, giá bán lẻ xăng còn 12000đ/l bằng với mức giá ở năm 2005. 2.4. Tạo ra nhiều công ăn việc làm: Với chủ trương đúng đắn là cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước bởi khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp sẽ có được những sự thay đổi cơ hội tiếp cận được mọi nguồn lực trong xã hội, nâng cao trình độ quản lý, công nghệ và nhân sự, làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Theo đó từ khoảng 6500 doanh nghiệp nhà nước vào đầu năm 2001 đã rút gọn xuống còn khoảng hơn 1.700 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.(Thống kê Bộ tài chính vào tháng 10/2009) kéo theo đó số nhân viên làm trong doanh nghiệp nhà cũng được tinh giảm xuống nhanh chóng thực với khoảng 1,9 triệu lao động 54,8 triệu lao động toàn xã hội tức là chỉ sử dụng khoảng 3,5% số lao động hiện có trong nền kinh tế. Nhưng chỉ với ngần ấy lao động, các DNNN đã tạo ra 27% GDP của Việt Nam trong năm 2008 nó cho thấy sự hiệu quả trong việc tạo ra lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước trong khi cùng thời kì với các doanh nghiệp tư nhân chiếm nhiều lao động nhất với 53,7% và tạo ra 46,1% GDP. Nghĩa là 1 lao động ở trong khu vực nhà nước hiệu quả gấp 9 lần so với 1 lao động ở khu vực tư nhân. Mặc dù số DNNN bị tinh giảm khá nhiều nhưng với sự đầu tư lớn của nhà nước, các DNNN cũng đã đầu tư nhiều dự án trọng điểm quan trọng với vốn lớn và qua đó, gián tiếp tạo ra công ăn việc làm tại từng địa phương có dự án đầu tư ví dụ dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, Quảng Ngãi với vốn đầu tư tổng cộng là 3,5 tỉ USD,nó đã tạo ra 12.000 việc làm trong suốt quá trình xây dựng và khoảng 2000 kĩ sư sẽ làm việc tại đây khi nhà máy được vận hành tối đa. Bên cạnh đó mức lương của người lao động ngày một được cải thiện theo Theo dự toán mới nhất được thông qua, việc tăng lương tối thiểu lên 830.000 đồng một tháng được thực hiện từ 1/5/2011 từ mức 730.000 như hiện nay, nghĩa là sẽ tăng khoảng 13,7%,đây là mức tăng khá cao và theo Bộ trưởng Nội vụ Trần Văn Tuấn đánh giá thì tăng lương đã vượt mức tăng lạm phát,nó sẽ giúp cho những người lao động đang làm việc trong DNNN có thể trang trãi thêm trong chi tiêu hàng ngày. 2.5. Giúp cho nền kinh tế tự chủ hơn, hạn chế sự phụ thuộc và nguy cơ bị thâu tóm của nước ngoài. Ngày nay DNNN giữ vài trò là xương sống của nền kinh tế với việc nắm hầu hết các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế với sự hỗ trợ rất lớn từ phía chính phủ về vốn và nguồn nhân lực đã giúp cho các DNNN ngày càng phát triển và có thể cạnh tranh được với các công ty nước ngoài góp phần vào sự tăng trưởng, ổn định và tự chủ của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang có khoảng 8 tập đoàn và 90 tổng công ty Nhà nước đang hoạt động trên các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: viễn thông, hàng không, dầu khí, đóng tàu, khai thác than, bảo hiểm v.v… Đó là những lãnh vực có tác động sâu xa đến các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước khác. Ngoài ra còn có 6 ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách cũng tác động rất mạnh mẽ đến thị trường tín dụng. Với việc sỡ hữu những DN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng giúp chính phủ điều chỉnh tình hình an ninh lương thực và an ninh năng lượng theo hướng giảm lệ thuộc vào nước ngoài và từng bước nâng cao khả năng và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Ví dụ như những ngành như điện, khai khoáng, dầu khí, viễn thông… VN đang từng bước làm chủ công nghệ và phát triển. Hiện nay VN là một trong những nước có sản lượng tàu biển tính theo khối lượng hàng đầu thế giới, là nước có đường dây 500KV dài nhất Đông Nam Á và là nước có sự phát triển về hạ tầng viễn thông nhanh nhất Châu Á… Ngoài ra cùng với quá trình cạnh tranh các DNNN cũng từng bước vươn ra nước ngoài để đầu tư điều đó cũng đóng góp những thuận lợi nhất định cho các chính sách đối ngoại và đối nội của chính phủ đồng thời gia tăng ảnh hưởng của VN ra nước ngoài, ví dụ như sự đầu tư của tập đoàn dầu khí của VN ở Venuezela, một số nước Đông Âu hay hợp tác với một số công ty dầu khí của Mỹ, Anh, ngoài ra còn có sự đầu tư của Viettel, BIDV vào thị trường Campuchia … điều đó cũng giúp nâng cao vị thế của VN trong quan hệ kinh tế và chính trị với các nước. 2.6. Cung cấp các sản phẩm phù hợp với mức sống của người dân. Vì mục đích tồn tại của DNNN không chỉ đơn thuần là mục đích kinh tế mà còn có chức năng chính trị to lớn. Vì vậy ngoài việc đạt được lợi nhuận trong kinh doanh các DNNN còn có chức năng hỗ trợ xã hội. Ví dụ: hiện nay chúng ta vẫn đang được dùng than với giá rẻ hơn so với các nước trong khu vực vì TKV đã lấy lợi nhuận từ xuất khẩu với giá cao để bù đắp cho giá than trong nước, ngoài ra giá điện của VN cũng rẻ hơn với nhiều nước trong khu vực…..Ngoài ra vào các dịp cao điểm như lễ, tết các DNNN cũng có nhiều chương trình giảm giá nhằm bình ổn giá cả thị trường giúp cho đời sống của người dân ít biến động hơn. Ngoài ra việc nắm giữ hầu hết các lĩnh vực quan trọng cũng giúp cho các DNNN có thể tạo ra mặt bằng giá cả giúp định hướng giá cả thị trường sao cho phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Đồng thời nó cũng có tác động tới các thành phần kinh tế khác. 3. Doanh nghiệp nhà nước không nên nằm trong khu vực công. Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp hoạt động dựa vào vốn của nhà nước. Chính vì là “con đẻ” nên doanh nghiệp nhà nước được hưởng rất nhiều ưu đãi mà các loại hình doanh nghiệp khác không có, nhưng hình như chính vì tâm lý ỷ lại mình là “con đẻ ” nên DNNN đã tỏ ra quá chậm trễ trong việc phát triển. Ở nước ta, nhà nước đã bảo hộ quá nhiều cho DNNN, tạo tất cả điều kiện thuận lợi từ vốn, đất đai, nguồn nhân lực…. nên làm cho áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Nhà Nước giảm đi đáng kể, và như một quy luật tất yếu: khi áp lực cạnh tranh không có thì động lực phát triển, động lực đổi mới sẽ không còn. Đây là nguyên nhân chủ làm cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả. Trong những năm qua chính phủ đã không ngừng rót vốn và tiếp tục bảo hộ cho DNNN với một niềm tin DNNN sẽ là đẩu tàu trong công cuộc phát triển nền kinh tế song kết quả thu về là gì? 3.1. Thứ nhất, trong 10 năm trở lại đây tỷ lệ đóng góp của khu vực DNNN cho ngân sách nhà nước trung bình chưa tới 20% và ngày một giảm so với chính mình cũng như so với khu vực tư nhân (bao gồm khu vực DNDD và FDI). Nếu như trong giai đoạn 2001-2005, DNNN đóng góp 19,6% cho ngân sách, cao gần gấp rưỡi so với khu vực tư nhân, thì trong giai đoạn 2006-2009, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 17%, tức là chỉ bằng bốn phần năm so với khu vực tư nhân. 3.2. Thứ hai, đóng góp của khu vực DNNN vào GDP cũng đi theo xu hướng tương tự. Báo cáo của Chính phủ thường dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê cho rằng DNNN tạo ra khoảng 35% GDP của Việt Nam, nhưng điều này không chính xác vì 35% là tỷ lệ đóng góp của cả khu vực nhà nước - trong đó DNNN chỉ là một bộ phận. Sau khi trừ đi GDP tạo ra từ các hoạt động của khu vực nhà nước nằm ngoài DNNN (như quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, hoạt động đoàn thể...) thì trong giai đoạn 2006-2009, khu vực DNNN trung bình chỉ tạo ra khoảng 28% GDP, giảm từ mức 30% của giai đoạn 2001-2005. Hơn nữa, đóng góp của khu vực DNNN vào tăng trưởng GDP đã giảm từ mức 33% trong giai đoạn 2001-2005 xuống 19% trong giai đoạn 2006-2009, nguyên nhân là do tốc độ tăng GDP của khu vực DNNN giảm từ 7,6% xuống 4,0% - tức là chỉ bằng một nửa so với khu vực tư nhân. 3.3. Thứ ba, về phương diện lao động - việc làm, kết quả điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê cho thấy tỷ trọng lao động của khu vực DNNN giảm rất nhanh từ mức 44% trong giai đoạn 2001-2005 xuống chỉ còn 24% trong giai đoạn 2006-2008. Không những thế, tỷ lệ tạo ra việc làm mới cũng giảm một cách tương ứng từ -4% xuống -22%, tức là DNNN không những không tạo ra việc làm mới mà còn cắt giảm lao động, do vậy đặt gánh nặng tạo việc làm mới hoàn toàn trên vai của khu vực tư nhân, chủ yếu là của khu vực dân doanh. Đã đành việc cắt giảm lao động là hệ quả khó tránh khỏi trong quá trình cổ phần hóa DNNN, nhưng nếu DNNN thực sự ngày một lớn mạnh thì chúng cũng phải có khả năng tạo ra việc làm mới, một yêu cầu tối quan trọng đối với một nền kinh tế đang phát triển nhanh và có lực lượng lao động trẻ dồi dào như Việt Nam. 3.4. Thứ tư, nếu nhìn vào hoạt động sản xuất công nghiệp, lĩnh vực trung tâm trong chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa của Việt Nam, thì vai trò của khu vực DNNN cũng hết sức khiêm tốn. Nếu như vào năm 1995, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước và tư nhân là 50%-50%, thì đến năm 2009, tỷ lệ này chỉ còn là 20-80%. Không những thế, tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước (theo giá cố định) đã giảm từ 29% trong giai đoạn 2001-2005 xuống chỉ còn 8% trong giai đoạn 2006-2009. Trong khi đó, đóng góp của khu vực dân doanh tăng từ 34% lên 46% trong cùng thời kỳ. 3.5. Thứ năm, có bằng chứng cho thấy các DNNN đóng góp một cách khiêm tốn cho kim ngạch xuất khẩu nhưng lại là nơi tạo ra một tỷ lệ lớn kim ngạch nhập khẩu. Vì các nguồn số liệu chính thức hiện nay không tách bạch số liệu xuất - nhập khẩu của khu vực DNNN và DNDD nên kết quả xuất - nhập khẩu của hai khu vực này chỉ có thể được ước tính một cách gần đúng. Cụ thể là sau khi trừ dầu thô, than và khoáng sản thì DNNN chỉ tạo ra khoảng 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu. DNNN không ngững không đóng góp nhiều cho nền kinh tế mà một số DNNN còn lạm dụng và có những hành động tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Một số ví dụ cho ta thấy được ảnh hưởng không tốt của các DNNN đối với toàn bộ nền kinh tế: ảnh hưởng của ngành điện: điện là nguồn năng lượng thiết yếu để duy trì cuộc sống sinh hoạt của người dân, tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế và các vấn đề an sinh xã hội. Nếu như trong các lĩnh vực khác thì các doanh nghiệp có một sân chơi bình đẳng hơn, doanh nghiệp nào có chất lượng sản phẩm tốt,phục vụ chu đáo, giá cả hợp lý thì sẽ được khách hàng lựa chọn thì điều này đã không xảy ra đối với ngành điện, nơi mà người dân và các doanh nghiệp phải mua điện với giá định sẵn trong khi chất lượng dịch vụ, cung ứng còn rất nhiều bất cập. nếu như tập đoàn điện lực đưa các nhà máy điện vào hoạt động đúng tiến độ thì đá không đẫn đến những bất cập trên và cũng không ảnh hưởng tới nền kinh tế quá lớn như thế. - trong khoảng thời gian từ tháng 3-6/2010 đã diễn ra tình trạng cắt điện luân phiên kéo dài đã kéo theo nhiều hệ lụy cho xã hội, làm đảo lộn cuộc sống sinh hoạt của người dân, chất lượng cuộc sống bị giảm sút. Có thể kể ra đây một số hệ lụy từ việc cắt điện luân phiên kéo dài trong thời gian qua: cắt điện trong thời gian thời tiết nắng nóng, có khi lên tới trên 400C, các thiết bị làm mát, hạ nhiệt không thể nào hoạt động làm ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, đặc biệt là người già và trẻ nhỏ; cắt điện luân phiên có khi cả ngày lẫn đêm, vào khoảng thời gian của mùa thi khiến cho việc ôn tập của các sĩ tử gặp không ít khó khăn; cắt điện kéo dài, các trạm bơm chịu cảnh “nằm im” không hoạt động, công tác tưới tiêu, giải hạn cho đồng ruộng bị ngưng trệ, gây thất bát mùa màng đối với người nông dân; lịch cắt điện dài hơi, dày đặc khiến cho kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp phải thay đổi, thời gian giao hàng không đúng như tiến độ ghi trong hợp đồng, công nhân ngày làm, ngày nghỉ, thiệt hại về vật chất lên tới hàng tỷ đồng; cắt điện liên tục cũng khiến cho ngành du lịch lao đao, một ngành công nghiệp “không khói” đã buộc phải “nhả khói” khi các khách sạn, nhà nghỉ ở các khu du lịch đều phải mua máy phát điện phục vụ cho nhu cầu của các du khách. tuy việc cung cấp nguồn điện cho cả nước còn nhiều bất cập, nhưng mà thời gian qua thì ngành điện luôn đòi tăng giá dựa vào lý do chi phí đầu tư sản xuất điện lớn, giá điện trong nước chưa bằng so với mức giá của các nước trong khu vực cho nên đã dẫn đến thực trạng từ trước tới nay giá điện chỉ có tăng mà chưa hề giảm. Tính đến nay năm 2009 giá điện đã tăng 8,96% so với năm 2008. Tổng công ty Điện lực Việt Nam đề nghị tăng giá để bù lỗ và có nguồn vốn đề đầu tư phát triển dự án điện nhưng lại đề nghị trích một khoản tiền khổng lồ để thưởng cho nhân viên trong khi thu nhập trung bình của ngành điện thuộc loại cao trong nền kinh tế. Nhiều năm qua ngành điện luôn kêu là lỗ nhưng con số được ngành điện công bố là lãi, thậm chí là lãi lớn với con số lên tới 6000 tỷ đồng. Một ví dụ cụ thể trong thời gian vừa qua là vấn đề của Vinashin. -Trong lần đầu tiên Chính phủ VN phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế với số lượng là 750 triệu đôla, đây là một khoản vay nợ của chính phủ dành cho các DNNN thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia, khi phát hành ra thị trường thế giới thì tương ứng với số lượng phát hành là khoản dự trữ ngoại tệ quốc gia là 3 tỷ đôla, đây là một khoản vay thương mại do đó lãi xuất ở mức cao là 7,125% / năm. Phần lớn khoản vay này được chuyển cho Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) thực hiện việc xây dựng và phát triển ngành đóng tàu Việt nam với số số tiền là 500 triệu đôla. Trong quá trình hoạt động của mình do việc đầu tư tràn lan vào nhiều ngành nghề trong đó có những dự án đầu tư không phải là ngành nghề chính của Vinashin dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp không đem lại hiệu quả. Cho nên khi đến thời kỳ đáo hạn vay doanh nghiệp không thể trả được nợ và đứng trên bờ vực phá sản. Lúc này chính phủ phải đứng giữa 2 sự lựa chọn tiếp tục cho Vinashin vay để trả nợ hoặc chấp nhận Vinashin phá sản. Một khi chính phủ lựa chọn một trong hai thì cũng đều làm tăng gánh nặng cho toàn xã hội. trên đây chỉ là 2 ví dụ minh họa cho các hoạt động không hiệu quả của các DNNN vẫn còn các DNNN hay tập đoàn kinh tế khác hoạt động tốt, gây ảnh hưởng nặng nề tới nền kinh tế như Tập đoàn Than Khoáng sản, Tổng công ty Hàng không, Tổng công ty xăng dầu và cả tập đoàn Dầu khí,…. Với thực trạng hoạt động như vậy của DNNN thì liệu mục đích và hy vọng của chính phủ có đạt được hay không? Và phải chăng nguyên nhân nằm ở việc DNNN đã và đang nhận được sự bảo hộ quá lớn? Vậy có nên hay không chính phủ hãy để DNNN ra khỏi khu vực công để họ có thể tiếp cận gần hơn với sự cạnh tranh của cơ chế thị trường cạnh tranh. Biết đâu khi đó các DNNN sẽ hoạt động hiệu quả hơn và có những đóng góp tích cực cho nên kinh tế nước nhà. 4. Nên nằm trong khu vực công, nhưng phải có những đổi mới trong hoạt động 4.1. Cơ chế giám sát cần chặt chẽ hơn, tách cơ quan quản lý khỏi kinh doanh. Trao cho hội đồng quản trị, lãnh đạo của các tập đoàn, tổng công ty những quyền hạn quá lớn trong đầu tư, kinh doanh và sử dụng vốn của Nhà nước, nhưng lại không đi kèm với cơ chế kiểm soát, giám sát hiệu quả. Đây là tình trạng chung của việc quản lý tài chính ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Các DNNN trực thuộc chính phủ, bộ hoặc UBND cấp tỉnh nên bản thân của nó đã có một quyền lực thực tế và có một quyền lực ngầm nâng đỡ phía sau cho nên việc kiểm tra, thanh tra không thể nào phản ánh đúng tình hình thực tế việc quản lý và sử dụng nguồn vốn tại các doanh nghiệp này. Lấy ví dụ như trường hợp Vinashin, đã được thủ tướng yêu cầu thanh tra, kiểm tra từ năm 2007, thậm chí mời cả công ty kiểm toán quốc tế KPMG để kiểm toán nhưng mãi đến năm 2010 nó vỡ nợ thì mới phát hiện ra vấn đề là một minh chứng rõ ràng. Hiện nay, theo các quy định của pháp luật hiện hành thì cơ chế giám sát việc quản lý vốn nhà nước tại các DNNN có thể được nhìn nhận qua các kênh chủ yếu như sau: i) Chủ sở hữu nguồn vốn nhà nước giám sát việc quản lý nguồn vốn thông qua đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước. ii) Chủ sở hữu nguồn vốn nhà nước thực hiện việc giám sát dựa trên kế hoạch tài chính, chế độ kế toán, thống kê và kiểm toán. iii) Chủ sở hữu vốn nhà nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát thông qua các cơ quan tài chính có thẩm quyền đối với công tác tài chính của DNNN theo quy định của pháp luật. Những kênh giám sát trên còn mang nặng tính hành chính và không phát huy được vai trò đối với vấn đề giám sát hiệu quả kinh doanh của DNNN. Do đó nhà nước cần rút dần cách thức đầu tư trực tiếp nguồn vốn của mình vào các doanh nghiệp thông qua việc cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê các DNNN. Và cần phải bỏ cơ chế đơn vị chủ quản “đại diện” tạo sự nhập nhằng, chồng chéo vai trò, chức năng quản lý hành chính với nhiệm vụ hoạch định, điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các DNNN phải cần minh bạch trong hoạt động và công bố thông tin trong quản trị doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của những DNNN lớn thì thường xuyên phải công bồ thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người dân có thể theo dõi được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Có thể thông báo những kết quả kiểm toán của các DNNN ra công chúng để đảm bảo tính giám sát của người dân. Trong hoạt động tài chính cần phải có tính minh bạch hơn nữa, cơ chế giám sát phải hiệu quả, cấm những hoạt động lấy vốn từ nhà nước cấp để cho vay lại hoặc đầu tư trái mục đích. Phải tách quản lý hành chính nhà nước ra khỏi quản lý kinh doanh doanh nghiệp. Các quyết định kinh doanh phải do những người kinh doanh đưa ra. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp mà quản lý thông qua hiệu quả đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp, thông qua người đại diện tham gia quản trị doanh nghiệp theo đúng luật doanh nghiệp và các quy tắc của thị trường. 4.2. Cơ chế quản lý phù hợp hơn và thống nhất. Chúng tôi nghĩ rằng để cho việc quản lý và thực hiện các mục đích xã hội một cách hiệu quả thì các DNNN nên được chia thành hai phần: một loại doanh nghiệp nhà nước làm nhiệm vụ chính trị- xã hội và những doanh nghiệp nhà nước nhằm mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế. Đối với các DNNN làm nhiệm vụ chính trị - xã hội như các DN quốc phòng, y tế, điện… thì nhà nước có thể tiếp tục hỗ trợ để phát triển nhưng phải đảm bảo các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh đúng ngành nghề mà nhà nước đã giao tránh trường hợp đầu tư tràn lan gây thất thoát và làm giảm hiệu quả của ngành nghề mà mình đang kinh doanh.VD như EVN hiện nay họ dùng rất nhiều vốn và nhân lực để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhưng hàng năm vào mùa khô nước ta luôn bị thiếu điện và tỷ lệ tổn thất điện năng hiện nay đang rất cao khoảng 13-14%, vậy thì tại sao EVN không tập trung nâng cấp hệ thống truyền tải điện và xây dựng them nhiều nhà máy điện mới ? Còn với các DN nhằm mục đích kinh doanh như các công ty bia, bánh kẹo quốc doanh… hay các lĩnh vực cần nhiều vốn nhưng khả năng thu hồi vốn chậm thì nhà nước có thể đầu tư và hỗ trợ nhưng khi các lĩnh vực này đã phát triển đến một mức cần thiết thì các NN nên rút lui và nhường chỗ cho khu vực tư nhân tham gia vào, một mặt để tăng hiệu quả quản lý một mặt sẽ giúp cho lĩnh vực đó phát triển hơn, tăng tính cạnh tranh và giảm độc quyền Ngoài ra để cho việc quản lý được công khai và minh bạch hơn thì phải tách bạch ra, các tổng công ty lớn không cho trực thuộc các bộ nữa mà giao về một bộ chuyên quản, còn các công ty nhỏ thì giao cho các công ty đầu tư và kinh doanh vốn quản lý sẽ hạn chế được việc đề ra chính sách để làm lợi cho doanh nghiệp của mình. VD bộ Xây dựng, khi đề ra những chủ trương về hỗ trợ xây dựng nhà ở, thì các tổng công ty thuộc bộ đã có rất nhiều công trình có thể hứng được vốn đó và có những ưu đãi từ nhà nước về đất đai…Đồng thời chúng việc tách bạch các tổng công ty lớn ra khỏi các bộ chủ quản sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho bộ chuyên quản dễ dàng kiểm soát và điều hành hoạt động của các tổng công ty. Bởi vì đứng trên vị trí của một bô chuyên quản nhà nước có thể dễ dàng quyết định và phân bổ nguồn lực hợp lý cho các tổng công ty tránh trường hợp đầu tư chồng chéo, dàn trải và không đúng mục đích của các tổng công ty. VD như hiện nay PVN cũng tham gia thị trường tài chính, bất động sản, EVN thì tham gia vào thị trường viễn thông… 4.3. Cần xã hội hóa nhiều hơn nữa và chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết. Ngày nay việc cổ phần hóa các DNNN luôn được nhắc đến một cách thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng,nhưng xuất phát từ những nguyên nhân gì thì mấy ai biết được.Những mặt ưu điểm chính có thể kể đến như là: Cổ phần là biện pháp sắp xếp lại, làm thay đổi về chất của các DNNN nhờ vào việc hình thành các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu cũng như tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp. Cổ phần hóa cũng đã giúp Nhà nước thu về hàng ngàn chục tỷ đồng nhờ vào việc bán bớt phần vốn của mình tại các DNNN, từ đó có vốn để đầu tư cho các dự án trọng điểm cần thiết. Cổ phần hóa cũng góp phần vào việc hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn, đa ngành, đa lĩnh vực và đặc biệt là góp phần quan trọng vào việc đổi mới tư duy kinh tế Lợi ích nó là vậy nhưng thực trạng cổ phần hóa DNNN hiện nay ra sao? trong gần 20 năm tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đến nay (bắt đầu từ năm 1991), dù đã cổ phần hóa được trên 4.000 doanh nghiệp, song đại đa số vẫn là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ,và còn tới hơn 1.700 doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, sắp xếp lại (chiếm khoảng 75% tổng nguồn vốn, giá trị tài sản của khối DNNN), trong đó có tám tập đoàn và khoảng 80 tổng công ty lớn. Tuy là cổ phần hóa là việc nên làm nhưng vẫn nên giữ lại những tổng công ty,tập đoàn chủ chốt có vị trí chiến lược trong nền kinh tế như xăng dầu,viễn thông làm mũi nhọn để bứt phá nền kinh tế nước ta.Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước trong điều kiện mà chúng ta đã để các nước khác vượt lên về kinh tế,khoa học, kĩ thuật,mà muốn đuổi kịp thì phải mất cả chục năm (Thái Lan), thậm chí là trăm năm (Singapore).Những tập đoàn này được coi là những bước “đi tắt,đón đầu” giúp cho nước ta không bị tụt hậu về công nghệ,kinh tế…và tạo ra bước đột phá đã giúp chúng ta rút ngắn thời gian Xuất phát từ điều này nên những DNNN đã được nhà nước ta đặc biệt “ưu ái”,hằng năm,hàng nghìn tỉ đồng từ tiền thuế của người dân chảy vào các tập đoàn,tổng công ty nhà nước để họ “đầu tư” cho các dự án của mình.Nhưng những khoản đầu tư này đáng tiếc là không được các DNNN tập trung đầu tư vào lĩnh vực chuyên môn của mình mà lại ra sức đầu tư dàn trãi ra rất nhiều lĩnh vực,gây ra sự lãng phí lớn, làm giảm đi sức mạnh của chính các DNNN này, như Vinashin đầu tư xây dựng tới 110 nhà máy nhưng có đến 70% trong số đó là đầu tư vào những lĩnh vực chẳng có liên quan gì đến đóng tàu như đầu tư chứng khoán,bảo hiểm,thậm chí là garage bán ô tô! Nó chẳng phục vụ được gì cho ngành tàu biển.Thực tế ở nước ngoài cho thấy các tập đoàn lớn khi họ đầu tư thì luôn có một tầm nhìn,một chiến lược dài hạn.Đơn cử như công ty sắt thép Pohang (POSCO),Hàn Quốc dưới sự điều hành của ông Tae-Joon Park – chủ tịch công ty,khi đầu tư vào lĩnh vực giáo dục một lĩnh vực mà mới nghe qua chúng ta cho rằng không liên quan gì đến sản xuất thép cả,đã sáng lập ra trường ĐH Khoa học và Công nghệ Pohang, (Postech),sau 24 năm nó đã là trường đại học tốt nhất Hàn Quốc hiện nay và đứng thứ 28 trên thế giới.Hằng năm,họ thu hút hằng ngàn sinh viên giỏi trên toàn đất nước Hàn Quốc cũng như nước ngoài và dễ nhiên những sinh viên tốt nhất sẽ được họ ưu ái trao học bổng và có thể kí hợp đồng để sau này có thể ra làm luôn cho chính tập đoàn của mình.Ngoài ra,những ngiên cứu, ứng dụng công nghệ mới được sáng tạo tại những phòng ngiên cứu hiện đại tại đây, nếu thấy hữu ích họ sẽ áp dụng luôn vào trong quá trình sản xuất của công ty mình.Đó mới gọi là đầu tư “đa ngành ,đa lĩnh vực” và đạt được mục tiêu là sinh lợi. Đối với thực trạng của Việt Nam hiện nay,công tác quản lí còn lỏng lẻo, việc sử dụng vốn nhà nước một cách tràn lan vô tội vạ như hiện nay tại các DNNN là một điều khó tránh khỏi bởi “Cha chung đâu ai khóc”, theo kiến nghị của nhóm chúng tôi nên có những biện pháp siết chặt lại việc đầu tư theo cách này bằng cách cụ thể hóa thành những văn bản luật với những biện pháp chế tài mạnh tay.Bên cạnh đó nên hướng các DNNN tập trung các nguồn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDoanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khuc vực công, nhưng một số quan điểm khác thì ngược lại Hay giải thích và trình bày quan điểm.doc
Tài liệu liên quan