Đề tài Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

MỤC LỤC

 

A. MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.

5. Cở sở lí luận và phương pháp nghiên cứu

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH

1. Đặc điểm nền kinh tế Việt nam trước thời kỳ đổi mới

2. Chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI

1. Thực trạng của doanh nghiệp nhà nước trước thời kì đổi mới:

1.1. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế và thực trạng của doanh nghiệp nhà nước trước thời kỳ đổi mới

1.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước

2. Quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước

1.1. Chủ trương chính sách của Đảng về đổi mới

2.2. Thành tựu bước đầu của qú trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước.

2.3. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó:

2.3.1. Hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước.

2.3.2. Nguyên nhân những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước.

2.4. Một số giải pháp, phương hướng phát triển Doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới.

3. Thách thức đối với doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

C. KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2479 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc: phát triền hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội“ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX -2001 . Như vậy, chiến lược phát triển kinh tế –xã hội cũng như đường lối của Đảng là chủ trương thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Những chủ trương chính sách của Đảng trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều hàng hoá nhiều thành phần đã góp phần phát triển nền kinh tế, khắc phục tình trạng yếu kém và giúp chúng ta chuẩn bị tốt hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng như hiện nay. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Thực trạng của doanh nghiệp nhà nước trước thời kì đổi mới: Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế và thực trạng của doanh nghiệp nhà nước trước thời kỳ đổi mới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chính vì vậy, kinh tế Nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng “ giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Tuy vậy, với nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều hình thức sở hữu đan xen thì doanh nghiệp Nhà nước phải làm gì và làm như thế nào để giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là một vấn đề cực kì quan trọng và phức tạp. Để đánh giá đúng vai trò của doanh nghiệp Nhà nước, trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu doanh nghiệp Nhà nước là gì? Và hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước như thế nào trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo luật doanh nghiệp nhà nước (4/1995 ) thì doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lưý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu thu lợi nhuận, doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Cổ phần của doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 50 % tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Từ năm 1954, sau khi dành được độc lập ở miền Bắc, Đảng và nhà nước ta đã lãnh đạo nhân nhân xây dựng kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể trên một nửa đất nước đã bị chiến tranh tàn phá. Các xí nghiệp của thực dân Pháp để lại ở hai khu vực kinh tế lớn nhất miền Bắc là thủ đô Hà nội và thành phố Hải phòng không có quá 10 xí nghiệp, trong đó máy móc, thiết bị đã bị chuyển phần lớn, chỉ có mấy nhà máy phục vụ cho nhu cầu dân sinh như : Nhà máy điện Yên phụ Hà Nội, Nhà máy điện sông Cấm- Hải Phòng, nhà máy nước Yên phụ- Hà Nội; nhà máy nước An dương Hải phòng. Với sự nỗ lực của Đảng và nhân dân ta cùng sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa anh em, chúng ta đã xây dựng hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh lơn nhỏ, cùng với cải cách dân chủ, chúng ta đã hợp doanh với các nhà tư sản dân tộc để xây dựng các xí nghiệp công tư hợp doanh. Điều đó đã tạo cho doanh nghiệp nhà nước có khả năng phát triển kinh tế nói chung trong thời kì một nửa đất nước bị chiến tranh và một nửa đất nước đang ở trong thời kì khôi phục sau chiến tranh. Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã tàn phá nhiều nhà máy lớn của ta như : nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy gang thép Thái nguyên, nhà máy cơ khí Cẩm Phả, .., đến năm1975, đất nước được giải phóng hoàn toàn, chúng ta tiếp quản được khu công nghiệp Biên hoà và các xí nghiệp khác của toàn Miền Nam. Như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên được hình thành từ việc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân hoặc tiếp quản các doanh nghiệp của chính quyền cũ để lại. Vì được hình thành và phát triển trong bối cảnh đầy khó khăn như vậy, nên dù nắm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước chỉ phát triển chậm chạp, thậm chí một số doanh nghiệp Nhà nước còn thua lỗ. Sau hơn 10 năm kể từ ngày thông nhất đất nước 1975, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì theo cơ chế quản lý cũ – cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp Nhà nước là cơ quan chủ yếu trong việc sản xuất và phân phối hàng hoá dưới sự bảo trợ của nhà nước, vì lực lượng kinh tế quốc doanh là xương sống của nền kinh tế thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập. Như vậy, doanh nghiệp Nhà nước thời kì trước đổi mới có vị trí quan trọng trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Nó được coi là “xương sống của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã làm cho nền kinh tế nước ta rơi vào trì trệ và khủng hoảng, mà doanh nghiệp Nhà nước thời kì này cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó. Điều này đã gây nên những tổn thất to lớn đối với nền kinh tế nước ta. 1. 2 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước Sau ngày hoà bình lập lại (1975), nền kinh tế nước ta vẫn được duy trì cơ chế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp, dẫn đến tình trạng suy kt, khủng hoảng vì người làm giàu thì quá ít mà trái lại, dân số ngày càng tăng, hàng năm phải đi vay nợ để mua lương thực, vốn bổ sung cho xí nghiệp quốc doanh và hỗ trợ hợp tác xã ngày càng nhiều. Từ đó gây nên sự ỷ lại, dựa dẫm vào sự bao cấp của nhà nước trong các xí nghiệp quốc doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà máy xí nghiệp không có được động lực kích thích bằng vật chất, gây nên sự thụ động trong doanh nghiệp, dẫn đến năng suất thấp, chất lượng kém. Việc đó đã dẫn nước ta vào tình trạng sa sút, kiệt quệ, năm 1985, lạm phát đã lên mức phi mã : 774 % ; quĩ dự trữ ngoại tệ không đáng kể: 1986 có hơn 1 triệu USD và bán kim cương đá quí được hơn 20 triệu USD. Như vậy, việc duy trì quá lâu cơ chế quản lưý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã khiến cho nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng và doanh nghiệp quốc doanh trở nên trì trệ, yếu kém. Thực tế đó đã đặt ra vấn đề cho Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới để khác phục tình trạng thụ động, ỷ lại, trì trệ của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng nhằm giữ vững và phát huy vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nước ta. Quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước Chủ trương chính sách của Đảng về đổi mới Trước đây, khi nước ta muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, muốn dùng kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp để thực hiện chủ nghĩa xã hội thì nó lại làm cho nền kinh tế bị sa sút, kiệt quệ, do ta chưa nắm được sự khác nhau giữa các quy luật trong chiến tranh và trong hoà bình, đặc biệt là quy luật phát triển của một nước nghèo lền một nước giàu để huy động lực lượng toàn dân cùng làm. Chính thực tế đó đã đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta yêu cầu cấp thiết đổi mới để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (05à 18/12/1986) là nhằm mục đích ấy. Đó là đại hội mở đầu cho quá trình đổi mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng chủ trương vận dụng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước thay cho cơ chế kinh tế cũ đã lạc hậu, chủ trương tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn (lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu) làm cho thành phần kinh tế - xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối. Có thể nói, việc đổi mới là một quyết định sáng suốt và hợp lý của Đảng ta trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì nếu như trước đây ta dùng kế hoạch hoá tập trung để xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không thành công, thì nay dùng cơ chế của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để xây dựng xã hội chủ nghĩa là việc bình thường. Hai mô hình này chỉ là phương tiện để chúng ta có thể đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” mà thôi. Việc sử dụng phương tiện kinh tế thị trường sẽ phát huy được yếu tố chủ động, tích cực cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế Nhà nước, trong đó có doanh nghiệp nhà nước, từ đó sẽ đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng và đi đến phát triển cả về thể và lực. Như vậy, từ việc nhận thức đúng đắn thực trạng của nền kinh tế trong thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời có những chủ trương, chính sách để đổi mới nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng (Đổi mới cơ chế quản lý, sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước). Như trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (19-4-2001) đã nhận định: “Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và các quyền kinh doanh của doanh nghiệp, của các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty Trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty Cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, xoá bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá nhưng doanh nghiệp mà Nhà nước không cần năm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các đầu tư trong nước và ngoài nước. Thực hiện giao, bán, khoán cho thuê các doanh nghiệp nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện ược các biện pháp trên”. Qúa trình đổi mới nhờ những chủ trương và chính sách của Đảng là cơ sở để doanh nghiệp Nhà nước tiến hành cải cách một cách toàn diện, nhằm khắc phục tình trạng yếu kém, trì trệ trong cơ chế cũ trước đây. 2.2. Thành tựu bước đầu của qú trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Sau đại hội VI (1986), kinh tế nước ta chuyển sang thời kỳ đổi mới toàn diện, doanh nghiệp Nhà nước đã được củng cố và đã đạt được những thành tựu bước đầu, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Về tổng thể: mặc dù số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm đáng kể (từ 12.300 doanh nghiệp, nay còn trên 5655 doanh nghiệp - tính đến 5-2001) và danh nghiệp dân doanh tăng từ chỗ có vài nghìn đến 60.000 đơn vị, số lượng công nhân điều chỉnh mạnh (600.000 người ra khỏi doanh nghiệp Nhà nước, và có bổ sung thêm lực lượng mới), quá trình đổi mới vừa thay đổi cơ chế quản lý, vừa tổ chức sắp xếp lại nhiều đợt trong điều kiện chuyển đổi kinh tế, nhưng doanh nghiệp Nhà nước vẫn nghiên cứu tốc độ tăng trưởng cao và giữ vị trí đáng kể, đóng góp vào ngân sách và xuất khẩu, cụ thể: Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong tổng sản phẩm quốc nội GDP tăng từ 35,6% (1991) lên đến 40,7% (1998). Tỷ lệ nộp ngân sáh trên vốn nhà nước tăng tương ứng từ 14,7%đến 27,89%. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước năm 1993 là: 6,8% và năm1998 là: 12,31%. Năm 1999, các doanh nghiệp nhà nước làm ra 40,2% GDP, hơn 50% giá trị xuất khẩu, đóng góp 39,25% tổng nộp ngân sách nhà nước. Nhờ những thành tựu chung đó, doanh nghiệp Nhà nước đã góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế (GDP năm 2000 gấp hai lần năm 1990). Về cụ thể: . Cơ chế tài chính đã có sự thay đổi đối với doanh nghiệp Nhà nước, điều này có tác dụng xoá bỏ bao cấp (trợ cấp trực tiếp) cho doanh nghiệp Nhà nước từ ngân sách Nhà nước (1988 - 1998: Tỉ lệ tài trợ trực tiếp từ ngân sách Nhà nước dưới tất cả các hình thức đầu tư, cấp vốn lưu động, bù lỗ, bù giá đã giẳm từ 8,5% GDP xuống còn 0,5% GDP). Như vậy, doanh nghiệp Nhà nước đã được “thương mại hoá” và Ngân sách Nhà nước sẽ có đượ điều kiện tập trung cho các mục tiêu khác trong khi vẫn duy trì được vai trò, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước có thể được coi là những tổ chức kinh tế hạch toán độc lập. . Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước về cơ bản đã được nâng lên so với trước ở tất cả các mặt. So với các khu vực khác, các chỉ số về hiệu suất vốn, lãi tuyệt đối, tỷ lệ nộp ngân sách Nhà nước, tuy còn thấp nhưng so với thời kỳ trước đổi mới đã có sự cải thiện đáng kể. . Trong đổi mới quản lý, mô hình tổng công ty đã bước đầu phát triển, đã phân định được các chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan Nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, việc chủ sở hữu vốn, mức độ tự hủ của doanh nghiệp đã được làm rõ. Ý thức được chức năng, nhiệm vụ ấy, doanh nghiệp Nhà nước sẽ chủ động, tích cực hơn trong việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh sản xuất, hoạch định phát triển. . Từ khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò then chốt cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển mạnh mẽ. Sau 15 năm đổi mới (1986 - 2001) doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm gần 40% GDP và đóng góp hơn 40% vào ngân sách quốc gia. Thực hiện luật doanh nghiệp năm 2000, các doanh nghiệp đăng ký tăng gấp 3 lần so với trước và đã góp vốn 38.000 tỷ đồng. Hiện nay, chúng ta đã có hàng tỷ USD dự trữ, gấp nhiều lần trước đây, xuất khẩu hơn 4 triệu tấn gạo, đứng thứ hai trên thế giới và đã đạt được nhiều thành tựu khác. . Trong việc thực hiện đa dạng hoá sở hữu:cổ phần hoá, tư nhân hoá, giao khoán, giải thể, phá sản tuy tiến hành chậm nhưng sau 6 năm thí điểm thực hiện đến năm 1998 - 1999, chúng ta đã có sự thống nhất và triển khai mạnh cá giải pháp chuyển đổi sở hữu, dặc biệt là việc cổ phần hoá các doanh nghiệp đã huy động được vốn từ các nhân viên trong các công ty, xí nghiệp thu được những kết quả nhất định. Công cuộc đổi mới đã đem lại những kết quả bước đầu cho doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, kết quả đó vẫn chưa mang lại hiệu quả thiết thực, chưa xứng với nguồn nhân lực, chính sách và điều kiện có của nước ta trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, bên cạnh những thành tựu, doanh nghiệp Nhà nước còn có những hạn chế nhất định. 2.3. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó: 2.3.1. Hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước. - Doanh nghiệp Nhà nước tuy đã được củng cố và đang tìm nhiều hình thức đề phát triển, nhưng kết quả chưa đồng đều, rõ nét, những sai lầm trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, đặc biệt việc chuyển đổi cách quản lý doanh nghiệp còn chậm chạp, để một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ kéo dài trong lúcchúng ta có đủ điều kiện chủ quan, khách quan để cho doanh nghiệp Nhà nước phát triển nhanh và mạnh. Theo sự điều tra của một số cơ quan chức năng có liên quan thì sựphát triển của doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn chậm, hiệu quả chưa cao. Cụ thể: - Theo Bộ Tài chính - 1997. Trong tổng số 5429 doanh nghiệp Nhà nước thì số kinh doanh có hiệu quả chỉ có 40,4%. - Theo Ban Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trung ương(2-2000): số doanh nghiệp có lãi thực sự là: 40% và số doanh nghiệp lỗ là 20%; tốc độ tăng bình quân của doanh nghiệp Nhà nước: Sau một thời gian dài đạt liên tục tăng 13%/năm, đến năm 1998 - 1999 chỉ còn 8 - 9%; Hiệu quả sử dụng vốn giảm: Năm 1995: 1 đồng vốn tạo được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, năm 1998: 1đồng vốn tạo được 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Khả năng cạnh tranh còn yếu: doanh nghiệp Nhà nước có nhiều ngành sản phẩm được bảo hộ tuyệt đối hoặc bảo hộ qua hàng vào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế) nhưng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa chứng tỏ khả năng của mình. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã không tận dụng được nguồn lực mà doanh nghiệp Nhà nước mà lại thụ động, không bắt kịp với nhịp độ phát triển chung, để một số doanh nghiệp nước ngoài và một số doanh nghiệp tư bản tư nhân chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh ưu thế. Vì vậy, nếu không có chiến lược phát triển phù hợp, không có những chính sách, những biện pháp tích cực thì doanh nghiệp Nhà nước sẽ dần đánh mất đi vai trò, vị trí trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước còn bất hợp lý, quy mô vẫn chưa lớn. Tỉ trọng doanh nghiệp Nhà nước ở khu vực nông nghiệp là 25%, ở khu vực thương mại - Dịch vụ là 40%, tỷ trọng này là không hợp lý, vì doanh nghiệp Nhà nước phải tập trung trong công nghiệp là chủ yếu (nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo). quy mô vẫn chưa lớn (1999: số doanh nghiệp có quy mô dưới 5 tỉ đồng chiếm 65%, trong đó gần 3/4 là doanh nghiệp địa phương, 1314 doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng chiếm 23%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng chiếm 21%). Nói tóm lại, mặc dù vị trí, vai trò then chốt của doanh nghiệp Nhà nước không hề bị thay đổi, nó đã đóng góp tích cực vào nền kinh tế, đã khắc phục được sự yếu kém của thời kỳ trước công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước đã cho thấy thực trạng của doanh nghiệp này đã ảnh hưởng không ít đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung. 2.3.2. Nguyên nhân những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước. Quá trình đổi mới đã đem lại những thành tựu nhất định cho doanh nghiệp Nhà nước và trong quá trình thực hiện đổi mới ấy, doanh nghiệp Nhà nước đã khôngtránh khỏi những hạn chế. Sự yếu kém thua lỗ của doanh nghiệp do những nguyên nhân sau gây nên. . Đầu tư sai: Trong quá trình đổi mới và cải tạo doanh nghiệp Nhà nước, đã có không ít các doanh nghiệp đầu tư không hợp lý, có khi quá chú trọng vào một lĩnhvực nào đó mà bỏ quên đi các lĩnh vực khác. Khi đầu tư, các doanh nghiệp Nhà nước đã không chú trọng đến sự biến động của thị trường, và việc đầu tư sai này bắt nguồn từ những quyết định thời bao cấp. Tuy nhiên, sau nhiều năm đổi mới theo cơ chế thị trường, tình trạng này vẫn tiếp diễn. Sự quản lý của Nhà nước không đủ hiệu lực để ngăn chặn tình trạng trên. có những địa phương, những ngành luôn muốn tranh thủ càng nhiều vốn Nhà nước để xây dựng cho được những doanh nghiệp không thật cần thiết của ngành mình, của địa phương mình, hay nếu có xây dựng được thì hoạt động không hiệu quả, điều này do bắt bnguồn từ công tác quy hoạch, thường là quy hoạch theo ý muốn chủ quan, có những ngành chỉ cần đầu tư theo mũi nhọn thì lại đầu tư đồngbộ ở tất các ngành. Như vậy, đầu tư sai ngay từ những chủ trương ban đầu, rồi lại giao công việc, xây dựng cho ban quản lý kém năng lực và không có chất lượng, gây ra chất lượng xây dựng thấp, hiệu quả kém, gây thất thoát không nhỏ đến Nhà nước. . Thiếu vốn phổ biến là tình trạng chung của doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước là cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp. Nhưng chỉ cấp vốn ở một mức nhất định, còn lại doanh nghiệp Nhà nước phải tự đi vay với lãi suất ngân hàng. Nói chung, doanh nghiệp Nhà nước chỉ được cấp vốn khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó, các tổng công ty 91 là 75%, tại các doanh nghiệp do Bộ, ngành quản lý là 45% và do các địa phương quản lý là 50%. Do vậy, thiếuvốn cũng là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước. . Trình độ kỹ thuật, công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước còn lạc hậu: Các doanh nghiệp Nhà nước được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nguồn khác nhau, có những thiết bị đã lạc hậu, già cỗi, được sản xuất từ những năm 50, 60. Theo Viện Bảo hộ lao động, năm 1999: hơn 70% thiết bị lao động đã hết khấu hao, gần 50% đã được tân trang. Còn theo Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường thì cho rằng: Công nghệ của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50%, thậm chí 38% trong số này ởdạng thanh lý. Đây là tình trạng còn tồn tại ở rất nhiêu doanh nghiệp, gây nên việc sản phẩm làm ra kém chất lượng, năng suất thấp. . Số lao động dư thừa đang rất lớn. Đây là tình trạng chung của nền kinhtế Việt Nam và trong doanh nghiệp Nhà nước cũng không tránh khỏi điều này. Theo báo cáo của Ban Đổi mới doanh nghiệp trung ương (2-2000): có khoảng 4% tổng số lao động dư thừa trong các nhà máy, xí nghiệp của doanh nghiệp Nhà nước. Có một số địa phường, ngành, số lao động dư dôi khá lớn: Hải Dương (33%), Nam Định (27%); Nghệ An (16%), Hải Phòng (15%), Thanh hoá (10%), Tổng công ty thép (12%), Bộ Thủy Sản có 14% lao động dư dôi. Việc giải quyết sao cho hợp lý số lao động này quả là một vấn đề không nhỏ mà các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng và xã hội nói chung cần phải làm. . Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính: Có thể coi đây là trở ngại rất lớn đối với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này đã hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp Nhà nước vì không thể tự chủ kinh doanh, những ràng buộc về các khoản chi phí, những bất hợp lý đã ró như khoản thu về sử dụng vốn, trong đó kể cả những tài sản do doanh nghiệp tự đầu tư từ nguồn vay ngân hàng hoặc tích luỹ đều bị coi là tài sản của Nhà nước và buộc doanh nghiệp chịu thuế vốn. Đại diện chủ sở hữu của tài sản nhà nước tại doanh nghiệp là ai còn chưa được làm rõ, gây lúng túng, khó khăn trong việc sử dụng tài sản đó. . Hệ thống chính sách, thể chế đối với doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn nhiều bất cập. Vẫn còn lối tư duy cũ, nặng cơ chế “xin - cho”, ban phát, bảo trợ. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường cần phải có những chính sách phù hợp, nhằm thích ứng doanh nghiệp Nhà nước trong sự biến động của nền kinh tế ấy. Một số chính sách, thể chế đã thể hiện rõ ý chí chủ quan của một bộ phận lãnh đạo, làm cho quyền tự chủ, tự quyết của doanh nghiệp trên thương trường bị tước bỏ, quyền tự chủ trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định, quyết đoán của doanh nghiệp không còn. Quyền lợi, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước chưa được luật hoá đầy đủ. . Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu lực. Với bộ máy quản lý hiện nay, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước phải chịu hai gọng kìm: Một là bộ, ngành, cấp chủ quản của doanh nghiệp và hai là các tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản lý chuyên ngành với hệ thống ngành từ trên xuống dưới. Điều đó có nghĩa là, tất cả các bộ, ngành với hệ thống dọc, ngang đều có quyền thực hành chức năng của mình tại doanh nghiệp để hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát, thanh tra, kiểm tra nhưng trên thực tế là sự nhũng nhiễu phiền hà, gây tổn thất cho doanh nghiệp, còn hiệu quả thì rất ít và không rõ rệt. . Đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước. Tuy có rất nhiều người giỏi, tốt, trung thực nhưng lại không phát huy được, còn một bộ phận không nhỏ những thành phần không đủ năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ mà vẫn được giữ vai trò lãnh đạo. Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay, còn có không ít giám đốc chưa đọc và chưa phân tích được hệ thống các số liệu thống kê, trình độ hiểu biết và năng lực sử dụng các loại thiết bị khoa học, công nghệ, phương tiện thông tin hiện đại còn rất yếu kém. Trong khi đó, một số người với lòng tham không đáy cả danh vọng và tiền tài đã bất chấp mọi thủ đoạn để có thể gian lận, bòn rút tiền của Nhà nước để lưu lợi cho riêng mình. .Cơ chế lãnh đạo của Đảng trong doanh nghiệp Nhà nước chưa phù hợp với cơ chế mới trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,chưa phát huy được tính tự chủ,tự chịu trách nhiệm. Với cơ chế “Đảng lãnh đạo toàn diện,tuyệt đối và trực tiếp”trong doanh nghiệp, có không ít trường hợp đã phát sinh mâu thuẫn giữa giám đốc va bí thư Đảng uỷ về xác định phương án sản xuất, kinh doanh,về cơ cấu tổ chức và bố trí nhân sự...Bởi vì giám đóc muốn thực hiện những vấn đề đó phải được sự nhất trí của Thường vụ Đảng uỷ doanh nghiệp. Để tiến trình cải cách kinh tế thành công với việc hình thành nền kinh tế hỗn hợp thì điều quan trọng là phải giảm sự bất ổn định của môi trường thị trường ,và lãnh đạo Đảng cần phải xác định rõ ràng cái gì được phép làm và cái gì không được phép làm,hay cần phải xác định cho được số doanh nghiệp nhà nước cần tồn tại bao nhiêu và phát triển như thế nào, thêm ngành gì trong các lĩnh vực then chốt ấy. Với những nguyên nhân trên đây, đã làm rõ được phần nào tình trạng trì trệ, kém phát triển của doanh nghiệp Nhà nước và từ đó cho thấy, việc thua lỗ triền miên, kém hiệu quả, thậm chí phá sản không phải do thuộc tính, bản chất của doanh nghiệp nhà nước mà chủ yếu do con người, do cán bộ - từ khâu hoạch định thể chế chính sách, cơ chế quản lý bộ máy cho đến việc điều hành trong các doanh nghiệp Nhà nước đã khiến cho sự phát triển của doanh nghiệp Nhà nước không phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật đó để điều chỉnh, khắc phục tình trạng của doanh nghiệp Nhà nước. 2.4. Một số giải pháp, phương hướng phát triển Doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. Có rất nhiều giải pháp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém của doanh nghiệp và phát triển hơn nữa nhằm giữ đúngvị trí, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các giải pháp này không chỉ trực tiếp tác động đến các doanh nghiệp Nhà nước mà còn đòi hỏi đổi mới cả ở các cơ quan chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. + Các giải pháp sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước: Những giải pháp này đã được chính phủ Việt Nam đưa ra trong “Đề án sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước” cho giai đoạn 2000 - 2005: Cần

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCNXH19.DOC
Tài liệu liên quan