Đề tài Đổi mới kinh tế Việt Nam với phép phủ định biện chứng

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

A. CƠ SỞ LÝ LUẬN

Phần I. Quy luật phủ định của phủ định

I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó

1. Khái niệm

2. Đặc điểm

II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức “xoáy ốc” của sự

Phát triển

1. Nội dung

2. Ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định

Phần II. Những lý luận về thị trường

I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc

II. Nền kinh tế hàng hoá

III. Nền kinh tế thị trường tự do

IV. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp

B. PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ

định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã khôngcòn phù

hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu

bao cấp ở Việt Nam

2. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản

lý của nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan

II. Tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam

1. Đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự

quản lý của nhà nước ở Việt Nam

2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

Sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước ở Việt Nam

3. Những thành tựu và thành công đổi mới

III. Xu hướng phát triển trong quy luật phủ định của phủ định

C. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ

VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

I. Xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong

giai đoạn thiếp theo

II. Một số vấn đề cần nghiên cứu và các giải pháp thực hiện

KẾT LUẬN

 

 

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới kinh tế Việt Nam với phép phủ định biện chứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông tiền tệ, giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự bảo hộ của nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính sách bù lỗ của nhà nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào. Đồng thời do chủ quan cúng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước ngoài. Để cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thái nền kinh tế là do áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới. 2. sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là một xu hướng phát triển yếu khách quan. Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng VI (1996) đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinhtế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại. Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong gia đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta, những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai. Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế – xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như hiện tượng XH khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng, vì vậy, sự tác động của nhà nước một chủ đề có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế XH. Thiếu sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế chẳng khác nào khi vỗ tay mà chỉ dùng một tay. Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình” của thị trường, cơ chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950 – 1979 và đã có tác dụng đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song cơ cấu này đã được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung ở mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi cách mạng đã chuyển giai đoạn và trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều thay đổi, đồng thời nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu khách quan ra đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới, điều chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định: “ tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu qủa cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Những thay đổi chính sách quan trọng đã được đề ra trong đường lối mới là. Khẳng định sự phát triển lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này có ý nghĩa là xoá bỏ sự kỳ thị trước đây đối với kinh tế tư nhân, đồng thời đặt kinh tế nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng. Khẳng định các quan hệ thị trường có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đổi mới chính sách cơ cấu theo hướng tập trung các nguồn lực gia và ba mục tiêu lớn: phát triển nông nghiệp phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, đẩy mạng xuất khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, ổn định môi trường kinh tế và xã hội thông qua việc cố gắng đạt các mục tiêu: cắt giảm lạm phát, giảm thiếu hụt ngân sách, giảm mức bộ chi tiền mặt và ngân cao mức sống của nhân dân. Những thay đổi có tính chất chiến lược về chính sách theo tinh thần các kết luận của đại hội VI diễn ra kể từ năm 1998, và sau đó tiếp tục thúc đẩy của các nghị quyết đại hội lần VII của Đảng cộng sản Việt Nam. Định hướng lớn trong chính sách kinh tế mà đại hội VII đề ra. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có chủ, mọi đơn vị kinh tế đều có chủ. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế – xã hội. Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khái quát đường lối đổi mới kinh tế sau đại hội VII, tiếp tục đổi mới kinh tế với điểm trung tâm là hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện quan điểm chiến lược đó, Đảng và nhà nước Việt Nam đã có những chủ trương cần thiết để từng bước chuyển nền kinh tế tự nhiên, lực lượng sản xuất bị vô chủ ở nhiều cấp độ khác nhau sang nền kinh tế thị trường qua ba bước cơ bản. - Cải cách cơ cấu sở hữu, biến nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể đối với tư liệu sản xuất thành nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên đa dạng hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. - Đổi mới kinh tế chuyển từ trạng thái nhà nước, chỉ huy nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, bằng kế hoạch hoá tuyệt đối và tập trung cao sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. - Từng bước chuyển sang nền kinh tế tự cấp, tự túc, ưu tiên công nghiệp nặng sang nền kinh tế hàng hoá và hình thành một hệ thống kinh tế mở. Tóm lại, kể từ khi đại hội VI đến đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam, hướng phát triển kinh tế ở Việt Nam cơ bản là chuyển từ nền kinh tế hiện vật, tự túc với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. II. Tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam 1. Đặc trưng của nền kinhtế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam a. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinhtế kém phát triển, mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường. Thật vậy, đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN nên nước ta thiếu cái “ cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển, cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém, phân công lao đọng xã hội chưa sâu sắc, các mối quan hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn đơn điệu. Đồng thời chúng ta còn mắc phải những sai lầm, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân thủ theo “ quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong nền kinh tế nói riêng. Điều này đòi hỏi phải có một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện cho phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với xu thế thời đại ngày nay. b. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liêụ sản xuất. Đại hội đảng VII đã khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tình chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay có là: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân, TBCN và tư bản nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần đang trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng XHCN. Do đó, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng phương hứng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, đại hội đảng VII nhấn mạnh: nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác. c. Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức. Biệt lập trong trong sự phát triển kinh tế là cha đẻ của đói nghèo. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta như là một tất yếu trong sự phát triển. Tất yếu là vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu vượt khỏi phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đông thời đó cũng là tất yếu của sự phát triển nhu cầu nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nhịp điệu của nền kinh tế thế giới. d. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống KT –XH đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, ô nhiễm môi trường.... cũng như hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy, sự tác động của nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu để làm cho nền kinh tế lành mạng hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó. 2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước ở Việt Nam. Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, nhà nước ta đã xây dựng một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hạch hoá tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không chú ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự phát triển kinh tế. Do đó, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời mang tính khách quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà một sự chuyển đổi có tính chất kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sử đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau. Trước hết đó là việc công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế khác bên cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành phần kinh tế: thành phần kinh tế tư bản tư nhân... Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ những mặt yếu kém của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn diện tốt hơn. Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vẫn giữa vai trò chủ đạo trong đường lối phát triển kinh tế. Nhưng bước đổi mới quan trọng của Đảng và Nhà nước là việc thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế khác như kinh tế tư bản tư nhân. Với sự chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. Bên cạnh những ngành nghề mới ra đời và phát triển đó, những ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, địa phương, phân công lao độngngày càng chi tiết hơn. Điều đó được phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn của sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành quốc tế. Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là sự đa dnạg hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản nhà nước, công ty cổ phần. Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại. Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới ở nước ta còn được thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy công cụ kế hoạch một cách linh hoạt bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “ bàn tay hữu hình”. Nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý của nhà nước đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tôn trọng những quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... nhưng không phải để cho những quy luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở đây có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể kinh tế hoạt động kinh doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể qủan lý, bằng những chính sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động thị trường. Nhà nước không còn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiều mà vấn đề này sẽ được thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết triên cơ sở đưa ra các kế hoạch dài hạn. Như vậy, nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò chủ thể kinh tế của các công ty, xí nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của nhà nước trong cơ chế quản lý tập chung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại vịn vào việc xây dựng và phát triển vận động của các quy luật khách quan mà lại bỏ vai trò quản lý kinh tế của nhà nước cũng không đúng. ở Việt Nam hiện nay để xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN tức là một mặt phải tiếp tục củng cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý của nhà nước, mặt khác phải không ngừng phát huy vai trò của nhà nước, của đảng, luôn bảo đảm niềm tin của người dân lao động. Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Việc bổ sung pháp luật tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá, về giá, tỉ giá, tài chính, ngân hàng, lao động, tiền công, đất đai... đang tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. 3. Những thành tựucủa công cuộc đổi mới. Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã d đạt giả quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như: - Thúc đầy quá trình XH hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác ngày càng chặt chẽ. - Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cái tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển sản xuất với thị trường. - Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế trong nước và hoà nhập nền kinh tế thế giới. - Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép kín với kìm hãm sự phát triển cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế ở trình độ cao thực hiện với hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta sau công cuộc đổi mới không những đứng vững mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục nhiều mặt đình đốn, suy thoái, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục, điển hình là: Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Đến nay lạm phát của nước ta chỉ còn 0,1% .Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2% sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, vấn đề lương thực được giải quyết tốt, sản lượng lương thực năm 1993 xấp xỉ 25 triệu tấn, vượt mức đề ra trong năm 1995. Cơ cấu kinh tế đang biến đổi, một số ngành sản xuất kinh doanh mới xuất hiện. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá. Để khắc phục được hầu hết hậu quả do thị trường truyền thống bị giảm sút đột ngột; mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàn mới, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 20%. Tính đến năm 1993 đã cấp 836 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 7,5 tỉ USD nhưng tới năm 1996 đã cấp 16454 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đã là 21,8 tỉ USD, bước đầu thu hút thêm viện trợ phát triển và vốn vay ưu đãi từ các chính phủ; lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Tuy vậy theo nhận định của Đảng ta thì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang trong giai đoạn hình thành, các doanh nghiệp nhà nước đều được xắp xếp và đăng ký lại. Đã giảm bớt một số lượng lớn nhưng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Số đơn vị kinh doanh có hiệu quả tăng lên. Khu vực kinh tế nhà nước nhìn chung vẫn phát triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc doanh, tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên 39,9% năm 1992. V. Xu hướng phát triển trong quy luật phủ định của phủ định Với xu hướng phát triển lên nền kinh tế thị trường làm con người trở nên năng động hơn thái độ dựa dẫm, ngồi chờ ỷ lại vào cấp trên và nhà nước đã mất đi đáng kể. Các chính sách kinh tế mới với cơ chế thị trường thực sự đã khơi dậy và nâng cao vai trò chủ động, kích thích sự sáng tạo của người quản lý, người điều hành lẫn người trực tiếp sản xuất. Tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh được quan tâm đặc biệt, được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành sản xuất hoặc kinh doanh nào đó. Nền kinh tế được cởi trói đã làm sống dậy biết bao tiềm năng vật chất và trí tuệ, giải phóng được lực lượng sản xuất đã khơi dậy được các động lực cho chính nó. Nhờ vậy mà đời sống của nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện rõ rệt, điều quan trọng nhất là đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, đã tích lỹ từ nội bộ nền kinhtế cái thời mà nhiệm vụ thường trực số một của chính phủ là lo điều hoà lương thực giữa các vùng, các miền để cho dân có gạo ăn ở mức quy định, còn người dân muốn mua từ cái kim, sợi chỉ, lạng đường cũng phải chen chúc xếp hàng và theo tem phiếu đã qua rồi để nhường chỗ cho những lo toan mới là làm sao tiêu thụ các sản phẩm đã làm ra có đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại, chen chân vào được và hơn nữa trụ lại được ở thị trường các nước khác. Từ khi bắt đầu đổi mới, lĩnh vực đạt được những thành tựu lớn nhất, nổi bật nhất là vững chắc nhất là nông nghiệp. Trước đây sau khi giành được thắng lợi vĩ đại trong chiến tranh chống pháp chúng ta đã thực hiện chính sách công hữu hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân phân phối sản phẩm bình quân, xây dựng các hợp tác xã quy mô lớn chính sách trên đã đi đến thất bại từ khi thực hiện khoán 10 (tháng 4/1988) đã có sự thay đổi đáng kể trong nền nông nghiệp với việc xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ đã từng bước khôi phục lại và tạo nên sức bật bất ngờ. Cũng nhờ đổi mới chính sách kinh tế mà nhiều ngành nghề và nhiều vùng nghề thủ công truyền thống có một thời bị thu hẹp, lại bị teo đi, thậm chí có nguy cơ mai một này đã sống lại và phát triển mạnh hơn. Kinh tế hộ tư nhân đã phục hồi và phát triển đã làm xuất hiện nhiều hàng hoá phát triển mà đã xuất hiện nhiều triệu phú và số này đã chiếm từ 10 – 15% tổng số hộ nông dân. Đối với kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp đặc biệt là công nghiệp quốc doanh do nhiều nguyên nhân khó khăn hơn, mặc dầu vậy, kết quả thu nhập được là tốc độ tăng trưởng cũng đạt trên dưới 15% năm và hiện nay đang có xu hướng tăng cao hơn. Bên cạnh đó luật đầu tư nước ngoài mà các chuyên gia phương Tây đánh giá là tự do nhất so với các nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, là luật cởi mở nhất ở châu á.Chính vì vậy ngày nay thị trường nước ta thu hút thêm nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài trực tiếp được ban hành ngày 29/12/1987 đến tháng 5/1996 những kết quả đạt được là khả quan. Tính từ năm 1988 đến 22/5/1996 đã có gần 1.644 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là gần 21,8 tỷ USD. Chắc chắn rằng với chính sách đổi mới kinh tế như hiện nay đã có thể khẳng định được rằng những thành tựu thu được đã đem lại niền tin cho mọi người trong việc thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60273.doc
Tài liệu liên quan