Đề tài Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6

MỤC LỤC

 

BẢN TÓM TẮT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1,2

A. PHẦN MỞ ĐẦU 3

-Lí do chọn đề tài 3

-Mục đích nghiên cứu 3

-Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3

-Giả thuyết khoa học 4

-Nhiệm vụ nghiên cứu 4

-Phạm vi nghiên cứu 4

B. NỘI DUNG 4

-Cơ sở lí luận 4

-Cơ sở thực tiễn 5

-Nội dung vấn đề 5

1. Các biện pháp thực hiện 5

1.1/ Dạy học hợp tác theo nhóm 5

1.2/ Sử dụng phương pháp trực quan 7

1.3/ Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề 8

1.4/ Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các thí nghiệm chứng minh trên lớp:. 11

1.5/ Xây dựng hệ thống câu hỏi, hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng 11

1.6/ Tăng cường luyện tập độc lập cho học sinh trên lớp 12

1.7/ Sử dụng “phiếu học tập” cho mỗi học sinh 12

-Một số ví dụ minh họa 12

2. Kết quả thực hiện 16

C. KẾT LUẬN 17

-Bài học kinh nghiệm 17

-Hướng phổ biến, áp dụng đề tài 18

D. MỤC LỤC 19

 

E. PHIẾU ĐIỂM 20

 

F. Ý KIẾN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC 21

 

doc22 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 14753 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập...Từ đó học sinh dần hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Đó là điều kiện cần thiết cho bản thân học sinh và cho sự phát triển của xã hội. Đổi mới phương pháp dạy học các môn học nói chung và môn Vật lý nói riêng ở trường THCS xuất phát từ các quan niệm sau: -Mục tiêu của ngành giáo dục, trong đó hoạt động cơ bản là dạy học, là hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được, mà phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo. Học sinh càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì phẩm chất và năng lực của cá nhân càng sớm được hình thành phát triển và hoàn thiện. Tính năng động, sáng tạo là những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại, phải được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. -Trước đây, trong giảng dạy các môn học, người giáo viên chỉ chú trọng truyền đạt các tri thức khoa học của bộ môn mà coi nhẹ phương pháp học tập và nghiên cứu mang tính đặc thù của môn học đó (gọi là phương pháp bộ môn). Ngày nay, cùng với tri thức khoa học của môn học, giáo viên phải làm cho học sinh nắm vững và sử dụng các phương pháp bộ môn. Điều đó có ý nghĩa to lớn với nhiệm vụ học tập trước mắt và cả trong tương lai. -Việc đổi mới phương pháp dạy học phải góp phần thực hiện sự phân hóa trong dạy học. Năng lực của học sinh trong một lớp học không hoàn toàn giống nhau, việc phân hóa tiến tới cá nhân hóa trong dạy học là xu hướng tất yếu để đảm bảo sự phát triển tối ưu cho mỗi học sinh. -Mỗi môn học có các đặc trưng riêng, Vật lí học là môn koa học thực nghiệm. Đổi mới phương pháp phải xuất phát từ đặc trưng này của bộ môn. Tóm lại, dạy học không chỉ là “dạy chữ” mà phải qua dạy chữ mà “dạy người”. Tất nhiên, hình thành và phát triển nhân cách không chỉ có nhà trường. Trong nhà trường cũng không chỉ có hoạt động dạy học, tuy nhiên dạy học là hoạt động chủ yếu. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: -Trong những năm thực hiện cải cách giáo dục chúng ta có nhiều cố gắng đổi mới và đa dạng hóa cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới nội dung giáo dục trong nhà trường. Tuy nhiên, về phương pháp giáo dục và dạy học thì chưa có sự quan tâm đầy đủ, phương pháp dạy học chưa được đổi mới tương xứng. -Những năm gần đây, do nhiều tác động khách quan, phương pháp và chất lượng dạy học đã có sự phân hóa và đã có không ít giáo viên giỏi, học sinh giỏi. Ở những giáo viên này phương pháp dạy học có nhiều cải tiến theo hướng hiên đại. Về cơ bản giảng dạy bộ môn Vật lí ở trường THCS hiện nay, trình độ chung của học sinh còn thấp, học sinh chưa biết vận dụng linh hoạt các kiến thức đã được học vào cuộc sống hoặc chỉ vận dụng kiến thức một cách đơn giản, máy móc… III. NỘI DUNG VẤN ĐỀ: 1. Các biện pháp đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Vật lí 6: Trong quá trình giảng dạy, cùng với việc sử dụng đổi mới phương pháp dạy học trong trường THCS, bộ môn Vật lí nói chung và Vật lí 6 nói riêng phải thực hiện kết hợp một số giải pháp sau đây: 1.1/ Dạy học hợp tác theo nhóm: Dạy học hợp tác theo nhóm là một thuật ngữ để chỉ cách dạy học trong đó học sinh trong lớp được tổ chức thành các nhóm một cách thích hợp, được giao nhiệm vụ và được khuyến khích thảo luận, hướng dẫn hợp tác làm việc với nhau giữa các thành viên để cùng đạt được kết quả chung là hoàn thành nhiệm vụ của cả nhóm. Hoạt động dạy học hợp tác theo nhóm thường bao gồm các bước: Bước 1: Làm chung cho cả lớp Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức; tổ chức nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn cách làm việc theo nhóm. Bước 2: Hoạt động nhóm Từng nhóm làm việc riêng trong không khí thi đua với các nhóm khác. Thành viên trong mỗi nhóm trao đổi ý kiến , phân công nhóm sau đó từng thành viên làm việc theo sự phân công đó và có thể bàn bạc, trao đổi với nhau khi cần thiết. Giáo viên giám sát sự hoạt động của nhóm và của từng cá nhân học sinh. Bước 3:Thảo luận, tổng kết trước cả lớp Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả, giáo viên tổ chức cho học sinh ở các nhóm khác nhận xét, đánh giá và giáo viên xác nhận lại khi cần thiết. Giáo viên tổng kết, chốt lại những điểm quan trọng sau khi các nhóm đã báo cáo xong. Cuối cùng giáo viên động viên, khen ngợi các nhóm cũng như các cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ, phê phán những cá nhân và nhóm chưa hoạt động tích cực. Trong quá trình thực hiện dạy học hợp tác theo nhóm, giáo viên cần làm các công việc sau: *Tổ chức nhóm: +Quy mô nhóm: Mỗi nhóm nên có từ 3 đến 6 học sinh. Nhóm 3 đến 4 học sinh là nhóm nhỏ, thích hợp với các hoạt động giải bài tập rèn luyện kĩ năng hay thực hành trong lớp. Với nhóm nhỏ, các em thảo luận, đề ra được quyết định nhanh hơn, giáo viên quản lí các thành viên trong nhóm dễ dàng hơn, nhưng việc bao quát các nhóm phức tạp hơn, việc theo dõi hoạt động và thời gian để các nhóm trình bày kết quả phải nhiều hơn vì có nhiều nhóm hơn. Nhóm từ 5 đến 6 học sinh là nhóm lớn, chủ yếu thích hợp với những công cụ lớn, phức tạp như thực hành thí nghiệm. Các nhóm lớn dễ tạo cho học sinh cảm giác vui, hồ hởi và niềm tin vào sự thành công. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm là phức tạp hơn, khó đạt được sự đồng thuận hơn. Giáo viên khó khăn hơn trong việc quản lí các thành viên trong nhóm lớn nhưng dễ dàng bao quát chung các nhóm hơn và thời gian để các nhóm trình bày kết quả cũng ít hơn. +Phân công nhiệm vụ trong nhóm: Trong các nhóm thường có các thành phần: Trưởng nhóm, thư kí nhóm, báo cáo viên và các thành viên còn lại. Trưởng nhóm chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều khiển nhóm, thư kí có trách nhiệm ghi chép lại các kết quả công việc của nhóm. Các thành viên còn lại trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào hoạt động của nhóm theo sự phân công của nhóm trưởng. Sự phân công nhiệm vụ trong nhóm cần linh hoạt, không phải luôn cần có đầy đủ các thành phần như trên. Tuy nhiên một nhóm nhất thiết nên có trưởng nhóm để triển khai hoạt động của nhóm. Các thành phần trong một nhóm cũng cần thực hiện luân phiên, các em trong nhóm lần lượt trao đổi với nhau thực hiện các vai trò đó để đều có cơ hội rèn luyện về mọi mặt như nhau. *Các kiểu chia nhóm: Chia nhóm theo trình độ học sinh. Khi đó, học sinh trong lớp được chia vào các nhóm thường theo một số kiểu sau: Nhóm nhiều trình độ (trong nhóm có cả học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu); nhóm cùng trình độ (các em học sinh trong một nhóm có khả năng học tập tương đối như nhau). Với nhóm nhiều trình độ các em học yếu có cơ hội học hỏi các em học khá, giỏi. Ngoài những cách chia nói trên, vẫn có thể có những cách chia nhóm dựa trên sự tương đồng với dụng cụ thực hành thí nghiệm, đảm bảo đầy đủ các dụng cụ cho các nhóm thực hành có hiệu quả. *Giao nhiệm vụ cho nhóm: Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm thực hiện. Sau khi giao nhiệm vụ cho các nhóm, giáo viên cần kiểm tra xem từng nhóm, từng học sinh đã hiểu được nhiệm vụ của mình chưa. Có thể thực hiện đều này bằng cách hỏi một vài nhóm trưởng cũng như một vài em khác, yêu cầu các em đứng lên nói rõ nhiệm vụ của mình. Giáo viên cũng cần quy định rõ thời gian yêu cầu phải hoàn thành hoạt động nhóm, thường với mọi hoạt động, thời gian từ 5 đến 7 phút. *Giáo viên quản lí hoạt động nhóm: Trong khi các nhóm hoạt động, giáo viên cần bao quát, chỉ đạo học sinh theo các chú ý sau: -Quan sát tất cả các nhóm, phát hiện và hỗ trợ các nhóm có khó khăn thông qua các câu hỏi dẫn dắt, các hướng dẫn thích hợp. -Phát hiện các nhóm làm việc chưa tích cực, mất trật tự…để nhắc nhở, uốn nắn. Các nhóm tích cực khuyến khích, động viên kịp thời. Dù là khuyến khích hay nhắc nhở học sinh, cử chỉ của giáo viên phải thể hiện thái độ thân mật, hợp tác, tạo niềm tin cho học sinh. *Tổ chức hoạt động thảo luận, tổng kết trước toàn lớp: Khi các nhóm đã hoàn thành hoạt động, giáo viên yêu cầu mỗi nhóm cử đại diện lên trình bày trước toàn lớp và nêu rõ quy định về cách trình bày như đứng tại chỗ hay lên bảng, chỉ diễn đạt bằng lời nói hay kết hợp với viết bảng…Sau khi giáo viên yêu cầu một vài nhóm lên trình bày, các nhóm khác quan sát, nhận xét, bổ sung. Sự nhận xét, bổ sung lẫn nhau giữa các nhóm là rất quan trọng, nó thể hiện sự tương tác giữa các nhóm và sự gắn kết của cả lớp trong mục tiêu chung của nhiệm vụ học tập. Sau khi mỗi nhóm đã trình bày và có sự nhận xét, bổ sung của các học sinh ngoài nhóm, giáo viên đưa ra ý kiến của mình, thể thức hóa kết quả của mỗi nhóm trước cả lớp. Cuối cùng, sau khi các nhóm được chỉ định đều đã trình bày xong, giáo viên tổng kết, chốt lại những điểm quan trọng trong kết quả của tất cả các nhóm và nhận xét, động viên, khen ngợi các nhóm hoàn thành tốt nhiệm vụ, phê phán những khiếm khuyết đã mắc phải của một số nhóm hay cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động nhóm. 1.2/ Sử dụng phương pháp trực quan trong tiết học: Phương pháp trực quan hay nói chính xác hơn là nhóm các phương pháp sử dụng các vật thực, mô hình, tranh vẽ… để minh họa cho các bài học nhằm cụ thể hóa cái nhìn trừu tượng trong đối tượng và hiện tượng giúp học sinh khắc phục khó khăn ban đầu, tiếp thu và vận dụng được các kiến thức một cách hiệu quả, nhanh chóng. Phương pháp trực quan thường được sử dụng trong việc dạy và học môn Vật lí. Nhất là đối với bậc trung học cơ sở, giáo viên cần sử dụng các vật thật, mô hình hay tranh vẽ để minh hoạ cho các bài học thêm sinh động. Ví dụ 1: Khi dạy bài 5 “ Khối lượng – đo khối lượng” trong chương trình Vật lí 6, để giúp học sinh hiểu thêm một số dụng cụ dùng để đo khối lượng thường dùng trong đời sống, giáo viên cần dùng một số tranh vẽ sau: Cân y tế Cân tạ Cân đòn Cân đồng hồ Ví dụ 2: Bài 13: “Máy cơ đơn giản”. khi dạy bài học này, giáo viên cần đưa một số tranh ảnh minh họa cho học sinh thấy được một số máy cơ đơn giản thường dùng là mặt phẳng nghiêng, đòn bẩy và ròng rọc. 1.3/ Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề: Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là cách thầy tổ chức tạo ra một tình huống hấp dẫn gợi sự tìm hiểu của học sinh, gợi ra những vướng mắc mà học sinh chưa giải đáp ngay được, nhưng có liên hệ với tri thức đã biết, khiến họ thấy có triển vọng tự giải đáp được nếu tích cực suy nghĩ. Trong dạy học và giải quyết vấn đề, thầy giáo tạo ra những tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề, thông qua đó mà kiến tạo tri thức mới, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục tiêu học tập khác. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề thường có những đặc điểm sau đây: -Học sinh được đặt vào tình huống gợi vấn đề chứ không phải là được thông báo tri thức dưới dạng có sẵn. Học sinh hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tận lực huy động tri thức và khả năng của mình để phát hiện và giải quyết vấn đề chứ không phải là nghe thầy giảng một cách thụ động. -Mục tiêu dạy học không chỉ là làm cho học sinh lĩnh hội kết quả của quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, mà còn ở chỗ làm cho học sinh phát triển khả năng tiến hành khám phá và lĩnh hội tri thức mới. Trong dạy học và phát hiện vấn đề là việc điều khiển học sinh tự thực hiện hoặc hòa nhập vào quá trình nghiên cứu vấn đề, quá trình này có thể chia làm các bước sau: Bước 1: Phát hiện và thâm nhập vấn đề -Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề thường do thầy tạo ra. Học sinh có thể liên tưởng, dự đoán, suy nghĩ, tìm tòi tình huống gợi vấn đề. -Giải thích và chính xác hóa tình huống khi cần thiết để hiểu đúng vấn đề được đặt ra. -Phát hiện vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó. Bước 2:Tìm giải pháp -Học sinh tìm một cách giải quyết vấn đề, cần làm rõ mối liên hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm. Trong Vật lí thường liên tưởng tới những khái niệm, đặc điểm hoặc tính chất thích hợp. -Tổ chức thu thập dữ liệu, học sinh tiến hành suy luận tìm ra hướng giải quyết vần đề một cách hiệu quả. Bước 3: Trình bày giải pháp Khi giải quyết được vấn đề đặt ra, học sinh trình bày lại toàn bộ từ việc phát biểu vấn đề cho tới giải pháp. Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát biểu lại vấn đề. Trong khi trình bày, học sinh phải trình bày rõ ràng, mạch lạc, logic. Ví dụ: Biết 10dm3 có khối lượng 15kg a) Tính thể tích của 1 tấn cát. b) Tính trọng lượng của một đóng cát 3m3 Hoạt động của giáo viên và học sinh Thực hiện lời giải Giáo viên đặt một số câu hỏi dẫn dắt học sinh làm bài tập theo trình tự các bước sau: Bước 1: Phát hiện và thâm nhập vấn đề Giáo viên hướng dẫn câu a của bài toán Em hãy cho biết đề bài đã cho những đại lượng nào? +HS: Đề bài cho biết khối lượng và thể tích của cát. -GV: Bài toán yêu cầu tính những đại lượng nào? +HS: Bài toán yêu cầu tính thể tích và trọng lượng của cát -GV yêu cầu học sinh tóm tắt đề bài, giáo viên theo dõi Bước 2:Tìm giải pháp -GV: Bài toàn cho biết thể tích và khối lượng của cát, ta tính được đại lượng liên quan nào? +HS: Ta tính được khối lượng riêng của cát -GV: Em hãy cho biết công thức tính khối lượng riêng? +HS: Khối lượng riêng được xác định theo công thức -GV: Sau khi tính được khối lượng riêng của cát, các em tính thể tích của cát dựa vào công thức biến đổi với m = 1tấn = 1000kg Giáo viên hướng dẫn câu b của bài toán -GV: Em hãy cho biết công thức tính trọng lượng của cát? +HS: Công thức tính trọng lượng là P = 10m -GV: Muốn tính được trọng lượng của một đóng cát có thể tích 3m3, trước hết ta phải tính được khối lượng của cát. Vậy khối lượng của cát được tính theo công thức nào? +HS: Khối lượng của cát được tính theo công thức m = D.V -GV: Sau khi các em tính được khối lượng của cát, ta áp dụng lại công thức P=10m sẽ tính được trọng lượng của cát. Bước 3: Trình bày giải pháp Bằng các gợi ý và hướng dẫn của giáo viên, học sinh trình bày bài toán một cách chi tiết, cụ thể. -GV theo dõi, uốn nắn, sữa sai kịp thời. Cho biết V = 10dm3 = 0,01m3 m = 15kg V = ? Khi m = 1tấn = 1000kg P = ? Khi V = 3m3 Khối lượng riêng của cát là a) Thể tích của một tấn cát là: b)Trọng lượng của một đóng cát 3m3 là: Khối lượng của 3m3 cát là: m = D.V = 1500.3 = 4500 (kg) Trọng lượng của 3m3 cát là: P = 10.m = 10.4500 = 45000 (N) Đáp số: a) V = 4500 (kg) b) P = 45000 (N) 1.4/ Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các thí nghiệm chứng minh trên lớp: Vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm. Các tri thức Vật lí là sự khái quát hóa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng xảy ra trong đời sống. Không có thí nghiệm, học sinh không có cơ sở để thực hiện các thao tác tư duy để tiếp nhận tri thức mới. Do đó mọi tri thức mà giáo viên truyền đạt đến học sinh về bản chất là áp đặt. Chính cách dạy chay là một trong những nguyên nhân của tình trạng chất lượng học tập bộ môn còn thấp và cũng đồng thời là sự tách rời giữa học và hành, giữa nhà trường và cuộc sống. Trong học tập, nếu sử dụng các đồ dùng dạy học thực hiện các thí nghiệm chứng minh trên lớp ta dễ dàng nhận thấy học sinh học tập hứng thú hơn, sinh động hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trang thiết bị trong nhà trường còn hạn chế. Để thực hiện các thí nghiệm trong các tiết dạy đạt hiệu quả, giáo viên bộ môn trực tiếp giảng dạy cần thực hiện các bước sau: + Chủ động và có kế hoạch làm đồ dùng dạy học ngay từ đầu năm học: Cùng với việc lập kế hoạch dạy học, giáo viên phải tính đến các điều kiện cụ thể trong nhà trường mà xây dựng kế hoạch làm và sử dụng trang thiết bị dạy học phù hợp. + Giáo viên bộ môn phối hợp với nhóm bộ môn, tập thể tổ rèn kĩ năng thực hiện các thí nghiệm chứng minh. 1.5/ Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng, phân tích các kết quả thí nghiệm, vận dụng các kiến thức có liên quan…để đi đến tri thức mới. Để tổ chức tốt cho học sinh làm việc trên lớp một cách chủ động, tích cực, đúng hướng…vai trò tổ chức của giáo viên thể hiện chủ yếu qua hệ thống câu hỏi: + Các câu hỏi phải được sắp xếp thành hệ thống, đảm bảo tính lôgic và theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ khái quát đến cụ thể… + Các hiện tượng mà học sinh quan sát được là một chỉnh thể, các em cần tự mình phân tích để lí giải từng bộ phận, từng khía cạnh, từng giai đoạn…để nắm vững được bản chất và quy luật của chúng. Nếu học sinh không tự làm được theo các yêu cầu đó, giáo viên mới tách ra thành những câu hỏi nhỏ, cụ thể và chi tiết hơn. + Học sinh quan sát hiện tượng, phân tích kết quả phát huy được năng lực của mọi đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá - giỏi trả lời những câu hỏi chung, khái quát; học sinh trung bình và yếu trả lời các câu hỏi cụ thể, chi tiết hơn. Có thể trong thời gian đầu, học sinh chưa quen với cách làm này nhưng giáo viên cần phải làm như vậy để rèn luyện thói quen cho học sinh. + Câu hỏi mà giáo viên đặt ra cho học sinh phải được chuẩn bị trước, kể cả các câu hỏi gợi ý chi tiết. Diễn đạt phải rõ ràng, ngắn gọn. 1.6/ Tăng cường luyện tập độc lập cho học sinh trên lớp: Luyện tập là khâu quan trọng trong mỗi tiết học. Nó giúp học sinh hoàn thiện tri thức mới và biết vận dụng tri thức đó để giải quyết các nhệm vụ thực tiễn. Qua luyện tập, giáo viên tiếp nhận thông tin ngược từ học sinh để bổ sung những tri thức còn thiếu, uốn nắn những sai lầm thường mắc phải. Nội dung luyện tập phải được lựa chọn ưu tiên cho học sinh trung bình: Tương ứng với yêu cầu tối thiểu của bài học, có tác dụng chuẩn bị cho học sinh học bài và làm bài ở nhà. Tuy vậy, không thể bỏ qua những đối tượng khá, giỏi. Nên có những bài tập có yêu cầu cao hơn cho các em này. Khâu luyện tập cần được dành thời gian hợp lí, tốt nhất là khoảng 10 phút cho mỗi tiết học. Coi trọng những bài tập có nội dung thực tế, gắn với đời sống để giúp học sinh biết vận dụng kiến thức giải quyết những nhiệm vụ hàng ngày. Nói chung học sinh phải được tạo điều kiện để làm việc một cách độc lập, đặc biệt trong giai đoạn luyện tập, củng cố kiến thức sau mỗi bài học. Mọi cuộc trao đổi thảo luận, mọi chỉ dẫn hay nhận xét, đánh giá của giáo viên, chỉ có hiệu quả cao khi học sinh đã được chuẩn bị và có sự chứng kiến của giáo viên. 1.7 / Sử dụng “phiếu học tập” cho mỗi học sinh: Để hỗ trợ và thực hiện tốt các giải pháp trên. Phiếu học tập được thiết kế cho từng tiết học. Nội dung của phiếu bao gồm: -Các câu hỏi hoặc những chỉ dẫn cho học sinh quan sát và ghi lại các kết quả thí nghiệm. -Hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích hiện tượng, vận dụng các kiến thức có liên quan…để đi đến tri thức mới. -Các bài luyện tập. Sử dụng phiếu học tập cho mỗi bài dạy cụ thể sẽ có tác dụng: -Tiết kiệm được thời gian để giáo viên truyền đạt các yêu cầu hoặc hướng dẫn đối với học sinh. -Tăng cường tính độc lập trong khi làm việc của mỗi học sinh. -Nhịp độ và khối lượng công việc làm được tùy thuộc vào năng lực của mỗi học sinh. Bằng cách này quá trình học tập của học sinh từng bước được cá nhân hóa. -Trong thời gian đầu, giáo viên có thể thu “phiếu học tập” sau tiết học để xem xét, đánh giá hoạt động của từng học sinh và của tập thể học sinh. Từ đó có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh hoặc điều chỉnh cho hợp lí và có hiệu quả hơn. Tóm lại, Các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học vật lí nêu trên nhằm đạt được ba yêu cầu sau: - Học sinh phải được quan sát các hiện tượng vật lí một cách trực tiếp đúng theo nguyên tắc sư phạm. - Giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho các em tự phân tích, lí giải…để qua đó nắm được bản chất, quy luật của hiện tượng. - Học sinh được luyện tập vận dụng phương pháp và tri thức mới vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể - trước hết là trong các bài tập, sau đó là trong đời sống. Chính trong quá trình hoạt động một cách tích cực, chủ động để chiếm lĩnh tri thức trên, các năng lực và phẩm chất nhân cách của các em được hình thành và phát triển. MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HỌA Sau đây là một số ví dụ minh họa việc vận dụng kết hợp một số giải pháp trên vào trong bài dạy cụ thể của chương trình Vật lí 6 Ví dụ 1: Bài lực đàn hồi * Mục tiêu bài học: 1. Kiến thức: -Nhận biết được vật đàn hồi (qua sự đàn hồi của lò xo). -Trả lời đặc điểm của lực đàn hồi. -Rút ra được nhận xét về sự phụ thuộc của lực đàn hồi vào độ biến dạng của vật đàn hồi. 2. Kỹ năng: -Lắp được thí nghiệm chứng minh lò xo là một vật có tính chất đàn hồi. -Nghiên cứu hiện tượng để rút ra quy luật về sự biến dạng và đặc điểm của lực đàn hồi. 3. Thái độ: Có ý thức tìm tòi quy luật vật lý qua các hiện tượng tự nhiên. *Thí nghiệm: Dụng cụ: Chuẩn bị cho mỗi nhóm học sinh Một giá treo, một lò xo, một thước có độ chia đến mm Ba quả nặng giống nhau, mỗi quả có khối lượng 50g Bước 1: Đo chiều dài tự nhiên của lò xo khi chưa kéo dãn (chiều dài tự nhiên của lò xo): l0 Bước 2: Móc quả nặng vào đầu dưới của lò xo. Đo chiều dài l1 của lò xo khi bị biến dạng. Bước 3: Tính trọng lượng của quả nặng và ghi vào ô tương ứng. Bước 4: Đo lại chiều dài của lò xo khi bỏ quả nặng ra. So sánh l0 và l1. Bước 5: Móc thêm 2, 3 quả nặng 50g vào vào đầu dưới của lò xo và làm tương tự như trên. *Hệ thống câu hỏi: Từ kết quả thí nghiệm hãy cho biết chiều dài của lò xo khi bỏ hết quả nặng ra và so sánh với chiều dài tự nhiên của lò xo? Giáo viên đặt các câu hỏi hướng dẫn học sinh: -Trọng lượng của các quả nặng tương ứng được móc vào lò xo được xác định như thế nào? -Đặt thước đo như thế nào để đo chiều dài của lò xo chính xác? -Số chỉ trên thước đo khi móc các quả nặng tương ứng vào lò xo có giá trị như thế nào so với chiều dài tự nhiên ban đầu của lò xo? -Khi bỏ các quả nặng ra chiều dài của lò xo như thế nào so với chiều dài ban đầu của lò xo? Học sinh làm thí nghiệm, thu thập kết quả ghi vào ô tướng ứng trong phiếu học tập của nhóm: Số quả nặng 50g được móc vào lò xo Tổng trọng lượng của các quả nặng Chiều dài của lò xo Độ biến dạng của lò xo 0 0 (N) l0 =……(cm) 0 (cm) 1 quả nặng ………..(N) l =……(cm) l - l0 =……(cm) 2 quả nặng ………..(N) l =……(cm) l - l0 =……(cm) 3 quả nặng ………..(N) l =……(cm) l - l0 =……(cm) Sau khi học sinh thảo luận, tính toán chiều dài của lò xo tương ứng trong từng bước thí nghiệm cụ thể, ghi vào phiếu học tập của nhóm, giáo viên chốt lại cho học sinh thấy được rằng khi bỏ các quả nặng ra khỏi lò xo thì chiều dài của lò xo trở lại vị trí ban đầu. Từ đó có thể kết luận rằng, lò xo là một trong những vật có tính chất đàn hồi. *Củng cố và luyện tập: Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi cho học sinh tham gia trả lời 1. Lực đàn hồi là gì? Đặc điểm của lực đàn hồi? 2. Nêu ví dụ về một số vật có tính chất đàn hồi? 3. Lực đàn hồi phụ thuộc như thế nào vào độ biến dạng của lò xo? 4.Các lực nào sau đây là lực đàn hồi? A. Lực hút của trái đất lên các vật B. Lực hút của mặt trời lên trái đất. C. Lực kéo của một sợi dây khi treo một vật nặng vào D. Lực mà cung tác dụng lên mũi tên. Ví dụ 2: Bài đòn bẩy *Mục tiêu của bài: 1. Kiến thức: -Nêu được các ví dụ về sử dụng đòn bẩy trong cuộc sống. -Xác định điểm tựa 0, các lực tác dụng lên đòn bẩy. -Biết sử dụng đòn bẩy trong các công việc thích hợp (biết thay đổi vị trí của các điểm 0, 01, 02 cho phù hợp với yêu cầu sử dụng). 2. Kĩ năng: Biết đo lực ở mỗi trường hợp 3.Thái độ: Cẩn thận, trung thực nghiêm túc. *Dụng cụ và cách tiến hành thí nghiệm: -Dụng cụ: Lực kế có GHĐ 2N, khối trụ kim loại có móc, một giá đỡ -Tiến hành: Bước1: Tính trọng lượng của quả nặng P = F1 Bước 2: Mắc dụng cụ thí nghiệm như hình vẽ sao cho khoảng cách 002 > 001, dùng lực kế đo cường độ lực F2. Bước 3: Dịch chuyển điểm 0, sao cho khoảng cách 001 = 002, dùng lực kế đo cường độ lực F2. Bước 4: Tiếp tục dịch chuyển 0, sao cho khoảng cách 002 < 001, dùng lực kế đo cường độ lực F2. *Hệ thống câu hỏi: Trước khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên đặt vấn đề: Muốn lực nâng nhỏ hơn trọng lượng của vật thì các khoảng cách 001 và 002 phải thỏa mãn điều kiện gì? Để giúp học sinh trả lời được câu hỏi mà giáo viên đặt ra, học sinh phải thực hiện được thí nghiệm, ghi lại kết quả thí nghiệm trong từng trường hợp cụ thể. Do đó giáo viên đặt một số câu hỏi gợi ý: -Muốn xác định độ lớn của lực F1, ta dùng dụng cụ gì? -Cho biết độ lớn của lực F2 ứng với từng trường hợp (001 = 002 ; 001 > 002 ; 001 < 002)? -So sánh cường độ lực F2 và F1 trong từng trường hợp? -Muốn lực nâng vật nhỏ hơn trọng lượng của vật (F2 < F1) phải thỏa mãn điều kiện gì? -Từ kết quả thí nghiệm, em rút ra được kết luận gì? Sau khi học sinh làm thí nghiệm, quan sát kết quả và ghi vào phiếu học tập của nhóm, giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận. Giáo viên cũng cần chú ý cho học sinh trước khi làm thí nghiệm, cần kiểm tra lại các dụng cụ thí nghiệm để trong quá trình thực hành ta thu được kết quả tốt nhất. Phiếu học tập của nhóm Lực Cường độ Trọng lượng của vật ………(N) Tổng 2 lực dùng để kéo vật lên ………(N) *Củng cố và luyện tập: Giáo viên có thể sử dụng phiếu học tập cho cá nhân học sinh trả lời. Họ và tên:……………

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6.doc
Tài liệu liên quan