Đề tài Đối tượng của hạch toán kế toán trong các đơn vị

Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn. Sự xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều của các tổ chức tài chính tín dụng nhằm giải quyết nhu cầu thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác các tổ chức này thực hiện tập trung, huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với chính sách lãi xuất hợp lý. Mục đích hoạt động của các tổ chức này cũng là lợi nhuận, hoặc không chỉ có lợi nhuận (Ngân hàng Nhà nước) song cái mà nó mang lại cho nền kinh tế là nó đảm bảo cung ứng đủ lượng tiền cần thiết trong lưu thông hàng hoá, hay cho nhu cầu đầu tư xây dựng. . . Sau đây, đơn vị tiêu biểu của loại hình doanh nghiệp này là ngân hàng. Xuất phát từ tính chất hoạt động đặc biệt của loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đối tượng của hạch toán kế toán ngân hàng có những đặc điểm riêng.

 

doc34 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đối tượng của hạch toán kế toán trong các đơn vị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất hữu ích để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội. Để có thể thực hiện chức năng sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội, đơn vị sản xuất cần thiết phải có một số lượng tài sản nhất định như: máy móc, thiết bị sản xuất, các phương tiện kỹ thuật, các loại nguyên, nhiên vật liệu. . . trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá, các loại tài sản trong đơn vị đều được đo lường bằng thước đo tiền tệ bên cạnh thước đo hiện vật. Biểu hiện bằng tiền của các tài sản trong đơn vị sản xuất được gọi là vốn kinh doanh của đơn vị. Tài sản trong đơn vị sản xuất có nhiều loại khác nhau, được hình thành từ các nguồn khác nhau, do vậy vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất cũng có nhiều loại khác nhau và cũng được hình thành từ các nguồn khác nhau. Như vậy các loại vốn kinh doanh và các nguồn vốn kinh doanh là hai mặt biểu hiện của cùng một lực lượng tài sản - một lượng vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất là đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong quá trình sản xuất. Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh, khai thác, huy động triệt để các nguồn vốn kinh doanh cần phải nhận biết đầy đủ các loại vốn kinh doanh (xem trong doanh nghiệp có những loại vốn cụ thể gì), các nguồn vốn kinh doanh trong đơn vị (nguồn hình thành các loại vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng), cũng có nghĩa là cần việc nghiên cứu, phân loại vốn kinh doanh trong đơn vị theo kết cấu vốn kinh doanh và theo nguồn hình thành vốn kinh doanh. I. Phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu Trong đơn vị sản xuất, vốn kinh doanh được phân loại theo kết cấu gồm: vốn lưu động và vốn cố định. 1. Vốn lưu động Vốn lưu động được biểu hiện bằng tiền (giá trị) của tài sản lưu động. Đặc điểm của vốn lưu động là thời gian luân chuyển ngắn, thường là trong vòng một chu kỳ kinh doanh hay trong vòng một năm. Trong đơn vị sản xuất, vốn lưu động bao gồm: các loại tiền, chứng khoán ngắn hạn, tài sản trong thanh toán, tài sản dự trữ trong sản xuất kinh doanh, do đó vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất cũng chia thành các loại vốn tương ứng: vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn, vốn trong thanh toán, vốn dự trữ sản xuất kinh doanh. Chúng ta hãy lần lượt xem xét từng loại vốn dưới đây. - Vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn: là trị giá của các loại tiền như tiền mặt ở quỹ (bao gồm cả tiền Việt Nam và ngoại tệ), tiền gửi ở ngân hàng kho bạc, ở công ty tài chính vàng bạc, kim khí đá quý ở quỹ hay gửi ở ngân hàng, ở kho bạc, ở công ty tài chính; trị giá các loại chứng khoán ngắn hạn, các khoản góp vốn liên doanh ngắn hạn và cho vay ngắn hạn. Thông thường các khoản đầu tư chứng khoán hay cho vay ngắn hạn có thể bán đi, nói một cách khác là chuyển đổi thành tiền trong vòng một năm. - Vốn trong thanh toán là trị giá tài sản của đơn vị đang nằm trong quá trình thanh toán như các khoản phải thu của khách hàng, khoản tạm ứng cho nhân viên, khoản phải thu khác. Đó là những tài sản của doanh nghiệp nhưng do quan hệ thanh toán những khoản vốn đó vẫn do cá nhân hay các đơn vị khác sử dụng chưa trả cho doanh nghiệp. - Vốn dự trữ sản xuất kinh doanh là trị giá tài sản của đơn vị đang trong quá trình dự trữ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, không gián đoạn như: các loại nguyên vật liệu, công cụ dự trữ trong kho chuẩn bị đưa vào sản xuất, các loại sản phẩm chế biến dở dang trên dây chuyền sản xuất, các loại sản phẩm trong kho chuẩn bị bán ra. . . 2. Vốn cố định Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền (giá trị của tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn). Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Theo quy định của nước ta hiện nay, những tài sản có trị giá 5 triệu đồng trở lên và thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên được coi là tài sản cố định của đơn vị. Tài sản cố định trong đơn vị là các cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện quan trọng đảm bảo cho đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tính chất chung của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất trong quá trình sản xuất, nó hao mòn dần và chuyển từng phần hao mòn đó vào giá trị của sản phẩm mới sản xuất ra, nhưng hình thái bên ngoài và thuộc tính của nó vẫn giữ nguyên sau mỗi chu kỳ sản xuất. Hiện nay tài sản cố định trong đơn vị sản xuất bao gồm: - Tài sản cố định hữu hình: là những tài sản có hình thái vật chất, có đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định về giá trị và thời gian sử dụng theo quy định trong chế độ quản lý tài chính hiện hành như: Nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫy. . . Tài sản cố định có thể do đơn vị tự mua sắm, xây dựng hoặc đi thuê dài hạn. - Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản cố định không có hình thức biểu hiện dưới hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị doanh nghiệp đã đầu tư hoặc đã tham gia vào hoạt động liên doanh của doanh nghiệp, nó đại diện cho một quyền hợp pháp của người chủ sở hữu nó được quyền hưởng những quyền lợi kinh tế mà nó đem lại như: chi phí thành lập doanh nghiệp, bằng sáng chế, bản quyền tác giả, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lợi thế thương mại, độc quyền nhãn hiệu. . .Tài sản này có thể do doanh nghiệp tự đầu tư xây dựng hoặc do doanh nghiệp thuê dài hạn mà có. - Tài sản cố định thuê tài chính: Là giá trị các khoản đầu tư dài hạn với mục đích kiếm lợi như: đầu tư góp vốn liên doanh dài hạn, chứng khoán dài hạn, cho thuê tài sản cố định dài hạn, cho vay vốn dài hạn hay đầu tư kinh doanh bất động sản. . . Trên đây là cách phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu được áp dụng từ năm 1995 trở lại đây (xem bảng tóm tắt số 2). Trước năm 1995, việc phân loại vốn kinh doanh cũng có tất cả các nội dung của phân loại hiện nay, chỉ khác nhau về sự sắp xếp trật tự hai loại vốn (xem bảng số 1). Trước kia, các doanh nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào nhà nước, khi mà chế độ kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã từng tồn tại trong một thời gian dài ở nước ta. Nhà nước cung cấp vốn sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vừa chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra, vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoàn toàn không được đề cao. Do vậy vốn cố định luôn chiếm một tỷ trọng lớn và yêu cầu quản lý loại vốn này luôn được đặt lên hàng đầu. Việc phân loại vốn cố định chỉ gồm có tài sản cố định hữu hình là do trong cơ chế cũ, tài sản chủ yếu của đơn vị là chỉ là tài sản cố định hữu hình như máy móc thiết bị, dụng cụ lao động. . . Tài sản cố định vô hình cũng như tài sản cố định thuê tài chính chưa được đầu tư cũng như chưa được quan tâm đúng mức. Thực tế trong cơ chế cũ hai loại tài sản cố định này không có điều kiện tồn tại và phát triển. Vốn lưu động trong doanh nghiệp ở chế độ cũ chiếm tỷ trọng nhỏ được quản lý theo định mức, các định mức sử dụng loại vốn này đều do Nhà nước quy định sẵn tuy theo mục đích chỉ đạo của Nhà nước. Chính vì vậy vốn này còn có tên gọi là vốn lưu động định mức. Mặt khác vốn lưu động này được sắp xếp theo trật tự: vốn dự trữ, vốn sản xuất, vốn thành phẩm, vốn bằng tiền và vốn thanh toán. Sắp xếp như vậy là hoàn toàn hợp lý với cơ chế quản lý cũ cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội bấy giờ. Thời đó doanh nghiệp sản xuất trên cơ sở cái mà mình có, vậy nên vốn dự trữ là cái doanh nghiệp có trước trong hoạt động sản xuất. Việc sản xuất sản phẩm theo định mức Nhà nước yêu cầu theo nguồn vốn dự trữ đã có. Tiếp đó đến vốn thành phẩm bởi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất và sẽ phân phối theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Vốn bằng tiền phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp không cần nhiều vì điều kiện trao đổi còn hạn chế. Vốn trong thanh toán chưa được quan tâm trong hoạt động của doanh nghiệp bởi trong quan hệ thanh toán này luôn có sự can thiệp tài trợ của Nhà nước. Sự thiếu hụt vốn bằng tiền hay thiếu vốn hoạt động do ứ đọng trong sản xuất hay trong thanh toán đều được nhà nước tài trợ hay cấp thêm vốn để doanh nghiệp tiếp tục hoạt động. Chính vì vậy doanh nghiệp trong cơ chế cũ không phát huy được tính năng động, tự chủ sáng tạo. Suốt một thời gian dài doanh nghiệp ở thế bị động, thậm chí có tư tưởng trông chờ vào sự can thiệp giúp đỡ của Nhà nước. * Trước năm 1995 -Nhà cửa - Vật kiến trúc - Máy móc thiết bị - Phương tiện VT TSCĐ Bảng số 1: Tài sản của đơn vị sản xuất kinh doanh theo kết cấu vốn kinh doanh - Thanh toán với người mua... Vốn trong thanh toán - Nguyên liệu - Vật liệu - Công cụ lao động thô sơ - Nửa thành phẩm tự chế - Sản phẩm dở dang - Thành phẩm - Tiền mặt - Tiền gửi ngân hàng Vốn bằng tiền Vốn thành phẩm Vốn sản xuất Vốn dự trữ Vốn lưu động Vốn cố định Sau năm 1995 Bảng số 2 - Chứng khoán dài hạn - Góp vốn liên doanh dài hạn - Đầu tư kinh doanh dài hạn - TSCĐ hữu hình - TSCĐ vô hình - TSCĐ thuê tài chính Vốn cố định - Tiền mặt ở quỹ - Tiền gửi NH, kho bạc -Chứng khoán ngắn hạn - Góp vốn liên doanh ngắn hạn Vốn bằng tiền và đầu tư ngắn hạn Tài sản cố định Đầu tư dài hạn Vốn lưu động - NVL - Công cụ dụng cụ - Sản phẩm chế dở - Thành phẩm - Khoản phải thu của khách hàng - Tạm ứng cho CNV - Khoản phải thu khác Vốn dự trữ sản xuất kinh doanh Vốn trong thanh toán Vốn kinh doanh Khi chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề cạnh tranh được đặt lên hàng đầu. Doanh nghiệp muốn khẳng định mình thì phải có một vị thế vững vàng trên thị trường, muốn vậy doanh nghiệp phải có tính tự chủ cao để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng về chủng loại mẫu mã hàng hoá, doanh nghiệp phải đảm bảo đáp ứng được một lượng vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra một cách thường xuyên liên tục và có hiệu quả theo đúng yêu cầu của sản xuất. Như vậy vốn này phải có khả năng thanh toán cao, dễ chuyển đổi. Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp mà có nền tảng là tài sản cố định không thể đáp ứng được yêu cầu này, thậm trí còn có thể dẫn đến kìm hãm, trì trệ hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ có vốn lưu động mới giải quyết được vấn đề đó, mặt khác vốn lưu động lại dễ mất mát vì thế vốn lưu động trong doanh nghiệp được nâng lên, yêu cầu đặt ra của việc quản lý của loại vốn này đòi hỏi phải tăng cường tránh mất mát, thất thoát. Ngày nay nhìn vào hoạt động của một doanh nghiệp có hiệu quả hay không người ta chỉ xem xét qui mô và giá trị của tài sản cố định, điều quan tâm hơn cả của vốn lưu động doanh nghiệp lớn hay nhỏ. Trong vốn lưu động, vốn bằng tiền là vốn có khả năng thanh toán, khả năng chuyển đổi nhanh nhất đáp ứng nhu cầu kịp thời thanh toán giao dịch phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp vì thế nó được xem xét đến trước tiên. Vốn trong thanh toán có khả năng thanh toán bằng các loại vốn bằng tiền song lại cao hơn so với vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động tự chủ, tự hạch toán, vốn trong thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc quay vòng vốn của doanh nghiệp, vốn trong thanh toán bị ứ đọng nhiều thì sẽ làm giảm tốc độ chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Ngược lại vốn trong thanh toán chuyển hoá thành tiền càng nhanh thì sẽ làm tăng tính hiệu quả của việc sử dụng vốn kinh doanh. Với vị trí quan trọng như vậy nên vốn trong thanh toán đòi hỏi phải được quan tâm để đưa ra những quyết định thích hợp chuyển hoá vốn này thành tiền, đảm bảo tốt nhất, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường vốn dự trữ sản xuất kinh doanh chiếm một tỉ trọng nhỏ vì nó luôn được chuyển hoá nhanh chóng sang một biểu hiện khác của vốn lưu động, mặt khác các sản phẩm dự trữ cho hoạt động của đơn vị có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời với điều kiện có vốn bằng tiền, do đó vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không còn vị thế như thời kỳ trước nữa. Sắp xếp thứ tự như trên là muốn nhấn mạnh sự quan trọng trong hoạt động thanh toán, chi trả của doanh nghiệp. Hoạt động này quyết định tốc độ vòng quay của vốn. Trong nền kinh tế thị trường tốc độ vòng quay của vốn nhanh hay chậm ảnh hưởng nhiều đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Vốn cố định giờ không còn là nhân tố chủ yếu trong kết cấu vốn kinh doanh, song việc phân vốn cố định theo ba loại như ở trên là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp. Nó phản ánh một cách toàn diện, cụ thể hơn các biểu hiện cụ thể của tài sản cố định trong nền kinh tế thị trường. Trong một đơn vị sản xuất, tuỳ theo các giai đoạn hoạt động khác nhau mà kết cấu của các loại vốn cụ thể như đã nêu là một sự thay đổi phù hợp tương ứng. Ví dụ như trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh: Nguyên vật liệu giảm nhưng vốn sản phẩm chế tạo dở dang, vốn thành phẩm tăng lên. Cuối kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bán sản phẩm, vốn trong thanh toán tăng lên vốn dự trữ sản xuất kinh doanh giảm. Giữa các đơn vị sản xuất khác nhau kết cấu vốn kinh doanh của chúng cũng khác nhau. Ví dụ: Có hai đơn vị: đơn vị đại lý bán hàng và đơn vị chế tạo xe đạp. Đơn vị chế tạo xe đạp yêu cầu tỉ trọng tài sản cố định trong toàn bộ giá trị tài sản của đơn vị tương đối cao, trong khi đó yêu cầu kết cấu vốn của đơn vị đại lý bán hàng lại là vốn lưu động cần phải lớn. ở đơn vị đại lý bán hàng yêu cầu về các máy móc thiết bị ít, chủ yếu là các phương tiện vận chuyển, các công cụ dụng cụ nhỏ phục vụ bán hàng, vốn bằng tiền, vốn dự trữ, vốn trong thanh toán đáp ứng nhu cầu nhập hàng hoá để bán cần nhiều. Do đó tỉ trọng vốn lưu động chiếm ưu thế là đương nhiên. Đơn vị chế tạo xe đạp đòi hỏi phải có máy móc thiết bị chế tạo nhiều. Tài sản cố định thường là có giá trị lớn. Mặt khác để xe đạp có chất lượng cao, mẫu mã đẹp cần áp dụng thành tựu khoa học công nghệ kỹ thuật mới, phương thức, tài sản cố định vô hình. Giá trị tài sản cố định trong đơn vị này so với toàn bộ tài sản của đơn vị chiếm tỉ trọng lớn. Nếu xét trong đơn vị đại lý bán hàng thì đầu mỗi chu kỳ sản xuất vốn bằng tiền chiếm tỉ trọng cao. Bắt đầu vào kinh doanh vốn bằng tiền giảm nhanh để nhập hàng hoá làm vốn dự trữ sản xuất tăng nhanh. Kết thúc chu kỳ kinh doanh hàng đem đi bán làm cho vốn dự trữ giảm, vốn trong thanh toán của doanh nghiệp tăng lên. Qua đây ta thấy muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao, cần phải nghiên cứu các đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp cụ thể hay nói một cách khác đối tượng của kế toán doanh nghiệp một cách cụ thể từ đó ra quyết định đúng, để có được kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp là hợp lý nhất, phù hợp với từng thời kỳ hoạt động cụ thể của đơn vị. II. Phân loại vốn kinh doanh theo nguồn hình thành vốn kinh doanh Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trong doanh nghiệp sản xuất nguồn hình thành vốn kinh doanh được chia thành hai loại sau: 1.Các khoản nợ phải trả. Các khoản nợ phải trả là các nguồn vốn mà đơn vị sản xuất huy động, khai thác trên cơ sở các chính sách, chế độ nhà nước qui định và các hợp đồng đã thoả thuận giữa đơn vị với các tổ chức, đơn vị, các cá nhân khác. Đơn vị có quyền sử dụng tạm thời hay một thời gian nhất định, sau thời gian đó đơn vị phải hoàn trả. Để khai thác huy động triệt để nguồn vốn này cần xem xét đến các biểu hiện cụ thể của nó trong đơn vị. a.Các khoản nợ ngắn hạn: Đây là những khoản nợ có thời hạn ngắn nhỏ hơn một năm hay chỉ trong một chu kỳ kinh doanh, những khoản nợ này bao gồm: - Vay ngắn hạn: là những khoản vay ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng như ngân hàng, các công ty tài chính. - Nợ dài hạn đến hạn phải trả: là khoản nợ vay trong thời gian dài (lớn hơn một năm) song tại thời điểm xem xét, các khoản nợ này cần phải hoàn trả cho chủ sở hữu của nó. - Nợ phải trả người bán: là khoản nợ phải trả cho người bán hay cung cấp hàng hoá dịch vụ cho doanh nghiệp. - Thuế và các khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước theo qui định chế độ đã ban hành. - Các khoản phải trả cho công nhân viên: đó là những khoản lương, phụ cấp phải trả cho công nhân viên. - Các khoản chi phí phải trả - Các khoản ký quĩ, ký cược ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn khác. B.Các khoản nợ dài hạn: Nợ dài hạn là những khoản nợ mà thời hạn trả nợ trên một năm bao gồm: - Dài hạn cho đầu tư phát triển - Nợ thế chấp phải trả - Thương phiếu dài hạn - Trái phiếu phải trả - Các khoản ký quĩ, ký cược dài hạn - Các khoản phải trả dài hạn khác. Nguồn vốn chủ sở hữu: Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của đơn vị, đơn vị có quyền sử dụng lâu dài trong suốt thời gian hoạt động của đơn vị. Tuỳ theo loại hình hoạt động của doanh nghiệp - nhà nước, tư nhân, liên doanh, công ty cổ phần. . . mà nguồn vốn chủ sở hữu được hình thành khác nhau. - Đối với doanh nghiệp nhà nước vốn hoạt động do nhà nước cấp hoặc đầu tư nên chủ sở hữu vốn là nhà nước. - Với doanh nghiệp liên doanh: vốn hình thành từ các thành viên tham gia góp vốn hoặc các tổ chức cá nhân tham gia hùm vốn. - Với công ty cổ phần vốn chủ sở hữu do hoạt động góp vốn cổ phần của các cổ đông. - Với doanh nghiệp tư nhân vốn chủ sở hữu được hình thành từ sự bỏ vốn đầu tư của cá nhân hay hay một hộ gia đình. Tuy nhiên thông thường vốn chủ sở hữu bao gồm: a.Vốn góp: là vốn do các chủ sở hữu các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc mở rộng kinh doanh và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ xung, làm tăng thêm hoặc rút bớt đi trong quá trình kinh doanh. b.Lãi chưa phân phối (lãi lưu dữ) đây là kết quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh số lãi này trong khi chưa được phân chia được sử dụng cho mục đích hoạt động kinh doanh và coi như vốn chủ sở hữu. c.Vốn chủ sở hữu khác: là vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi nhuận để lại (các quĩ xí nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ, dự trữ theo luật định.) hoặc các loại vốn khác (vốn xây dựng cơ bản, vốn kinh phí cấp phát). - Việc phân loại vốn kinh doanh theo nguồn hình thành như trên được áp dụng từ năm 1995 trở lại đây (bảng tóm tắt số 4). Việc phân loại như vậy là hoàn toàn hợp lý trong cơ chế kinh tế hiện nay. Ngay nay để có thể hoạt động doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như vay nợ các tổ chức tài chính, tín dụng. Trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế kinh tế mới, khối lượng vốn cần nhiều để lưu chuyển hàng hoá. Vốn của chủ sở hữu khó có thể đáp ứng thường xuyên và đầy đủ lượng tiền đó. Vốn huy động có thể huy động cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. - Nợ ngắn hạn là những khoản vay nhằm thoả mãn những nhu cầu vốn ngay lập tức một cách kịp thời nhu cầu vốn hay ứ đọng ở khâu nào đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thế nó được quan tâm trước tiên. - Trở về những năm trước 1990 vốn kinh doanh phân loại theo nguồn hình thành cũng gồm hai loại về bản chất không có sự phân biệt về nội dung thể hiện cách phân biệt về sau. Chỉ khác nhau ở cách gọi tên và trật tự sắp xếp (xem bảng 3). Doanh nghiệp thời kỳ đó hoạt động nhờ vốn cấp phát của nhà nước hoặc vốn được tăng thêm từ hoạt động nhờ số vốn ban đầu được cấp phát. Việc huy động vốn của doanh nghiệp từ các hoạt động khác rất hạn chế. - Nguồn vốn nghiệp vụ cơ bản là nguồn vốn quan trọng nhất của doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn cơ bản và nguồn cấp phát, vốn cơ bản giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động một cách bình thường. Tiền cấp phát cũng do nhà nước cấp để bổ xung vốn cho doanh nghiệp trong trường hợp vốn cơ bản hiện có không đủ để tiến hành sản xuất do xí nghiệp được giao thêm nhiệm vụ mới. - Nguồn vốn chuyên dùng của xí nghiệp cũng được nhà nước cấp phát với tên gọi nguồn vốn chuyên dùng hoặc do doanh nghiệp lập ra do việc khấu hao của tài sản hoặc do việc phân phối lợi nhuận hình thành nên các quĩ xí nghiệp. Thực tế lợi nhuận của các đơn vị thời kỳ ấy không được quan tâm, mặt khác đa số lợi nhuận của doanh nghiệp đều không cao vì tính hiệu quả của doanh nghiệp thường không được đề cao. Tính tự chủ của xí nghiệp còn hạn chế. Nguồn vốn sử dụng tạm thời gồm nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn trong thanh toán. * Trước năm 1995 Bảng số 3 Nguồn vốn chủ sở hữu - Vay ngắn hạn NH - Vay dài hạn NH - Vay đối tượng khác - Nguồn vốn xây dựng cơ bản - Các quỹ xí nghiệp - Thanh toán với Ngân sách - Thanh toán với người bán - Thanh toán với công nhân viên - Nguồn vốn cố định - Nguồn vốn lưu động - Thu nhập chưa phân phối Nguồn vốn tự có Nguồn vốn sử dụng tạm thời Nguồn vốn tín dụng Nguồn vốn chuyên dùng Nguồn vốn kinh doanh cơ bản Tài sản của đơn vị SXKD theo nguồn vốn hình thành * Sau năm 1995 - Vay ngắn hạn - Phải trả cho người bán - Phải trả cho công nhân viên - Thuể và các khoản phải nộp nhà nước - Phải trả người nộp khác Bảng số 4 Nợ ngắn hạn Nợ phải trả - Vay dài hạn - Nợ dài hạn khác Nợ dài hạn - Nguồn vốn kinh doanh - Lãi phải trả chưa phân phối - Quỹ đầu tư phát triển - Quỹ khen thưởng phúc lợi - Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản Nguồn vốn chủ sở hữu Vốn kinh doanh Vốn tín dụng từ vay ngắn hạn hay dài hạn tại ngân hàng nhà nước trong thời hạn nào đó với lãi suất theo chế độ qui định. Nguồn vốn trong thanh toán: Là phần tiền mà doanh nghiệp phải trả cho các cá nhân hay đơn vị khác do quan hệ thanh toán mà các khoản tiền này hình thành nguồn vốn tạm thời của xí nghiệp như: phải trả cho người bán, khoản phải trả công nhân viên. Như đã biết, vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh là hai mặt biểu hiện của tài sản trong đơn vị sản xuất kinh doanh. Do vậy về mặt lượng, tổng số tiền theo kết cấu vốn kinh doanh bằng tổng số tiền theo nguồn hình thành vốn kinh doanh tại một thời điểm nhất định. Hạch toán kế toán phản phản ánh các loại vốn kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh mới chỉ phản ánh tài sản ở trạng thái tĩnh. Thực tế trong quá trình hoạt động của đơn vị, các hoạt động kinh tế nảy sinh gây ra sự biến đổi chuyển hoá của các loại vốn kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh. Trong các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh gây ra thường xuyên liên tục qua các giai đoạn khác nhau của quá trình tái sản xuất diễn ra trong đơn vị: Giai đoạn mua hàng (chuẩn bị cho hoạt động sản xuất), giai đoạn bán hàng (lưu thông sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội). Trong giai đoạn mua hàng vốn bằng tiền được chuyển hoá thành vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh của đơn vị, vốn chủ sở hữu chuyển thành phải trả cho người bán. Trong giai đoạn bán hàng vốn dự trữ sản xuất kinh doanh giảm, chuyển hoá thành vốn dự trữ trong thanh toán, vốn trong thanh toán chuyển hoá thành tiền... hay nguồn vốn kinh doanh chuyển hoá thành lãi chưa phân phối, quỹ đầu tư phát triển. Tóm lại, các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh ra sự biến động, thay đổi sự chuyển hoá hình thái giữa các loại vốn kinh doanh và các nguồn vốn kinh doanh, gây nên sự vận động tài sản - không chỉ là những biến động đơn thuần gắn liền với các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra trong đơn vị sản xuất. Từ việc nghiên cứu các quá trình sản xuất kinh doanh, hạch toán thu nhận được những thông tin về sự vận động của tài sản trong quá trình đó, từ đó có sự kiểm tra thúc đẩy sự vận động của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị đảm bảo tính hiệu quả cho đơn vị và xã hội. Qua toàn bộ những phân tích ở trên, một lần nữa khẳng định đối tượng của hạch toán kế toán trong đơn vị sản xuất là các loại vốn kinh doanh, các nguồn vốn kinh doanh (hai mặt biểu hiện của tài sản) và các giai đoạn của (quá trình) kinh doanh (biểu hiện sự vận động của tài sản). Từ việc nghiên cứu đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong đơn vị sản xuất kinh doanh, kết hợp với phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cơ sở khoa học của kinh tế chính trị Mác - Lênin ta có thể nhận biết được đối tượng của hạch toán kế toán trong các đơn vị khác: đơn vị thương mại, dịch vụ các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị, tổ chức tín dụng. Chương III Biểu hiện của đối tượng kế toán trong các đơn vị khác I. Biểu hiện của đối tượng hạch toán kế toán trong đơn vị thương mại dịch vụ 1. Đối tượng của thương mại dịch vụ Cùng với hoạt động dịch vụ, thương mại ngày nay có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế thị trường. Chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao thì của cải vật chất, sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra ngày càng nhiều, khối lượng lớn. Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, phân phối sản phẩm tới tay người tiêu dùng càng nhanh càng tốt. Mặt khác nhu cầu được cung ứng sản phẩm của người tiêu dùng cũng không ngừng tăng theo thời gian. Thương mại có thể thoả mãn những nhu cầu ấy. Việc trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, và thương mại trở thành môi giới tích cực giữa sản xuất và tiêu dùng ngày nay tạo điều kiện cho doanh nghiệp thương mại phát huy tính năng động sáng tạo quá trình hoạt động. Trong quản lý tài chính ở đơn vị dịch vụ cũng như ở đơn vị thương mại, hạch toán kế toán giữ vai trò quan trọng vì nó là công cụ không thể thiếu được để thu nhận, xử lý và thông tin về toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của các đơn vị này, phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh doanh, bảo vệ tài sản, thực hiện hạch toán kế toán xã hội chủ nghĩa ở các đơn vị. Đối tượng của hạch toán kế toán trong đơn vị thương mại là tài sản và các quá trình kinh doanh. Tài sản trong đơn vị thương mại nếu xét nội dung biểu hiện cụ thể thì không có gì khác so với tài sản tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT1142.doc
Tài liệu liên quan