Đề tài Đồng tiền chung châu Âu Euro- Được và mất trong tình hình tài chính quốc tế hiện tại và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN

- Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra đời. Điều đó làm tăng sự mất cân bằng kinh tế giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển khác.

- Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư. bằng đồng tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO.

 

doc76 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 13238 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đồng tiền chung châu Âu Euro- Được và mất trong tình hình tài chính quốc tế hiện tại và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Chi phí thời kỳ quá độ Khi quyết định sử dụng đồng tiền chung các quốc gia thành viên phải chịu chi phí gọi là chi phí thời kì quá độ bao gồm chi phí thu hồi đồng bạc hiện hành, in đồng bạc chung ,thay đổi hệ thống thông tin phù hợp với đồng tiền chung. Như vậy, có thể thấy Liên minh tiền tệ vẫn có những hạn chế riêng của nó. Chính sự gắn kết này làm cho khủng hoảng từ nội bộ một hoặc vài nước lan rộng ra toàn khu vực liên minh và đem lại hậu quả khủng khiếp. Minh chứng rõ nhất cho điều này chính là cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2008, đã tác động tiêu cực đến không chỉ nội bộ các nước thành viên EU mà còn đến cả các nền kinh tế thế giới. Bài học từ Hi Lạp Qua cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp, ta thấy rằng việc thống nhất sử dụng chung một đồng tiền không phải luôn đem lại lợi ích nếu không biết hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Theo tờ New York Times, giáo sư kinh tế học đoạt giải Nobel, ông Paul Krugman nhận định rằng, đồng Euro chính là một trở ngại đối với sự tăng trưởng của kinh tế Hy Lạp, vì việc sử dụng đồng tiền chung không cho phép Athens phá giá đồng tiền để nâng sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Minh chứng là tuy nợ công của Hy Lạp khá cao, tương đương 113% GDP, nhưng trên thực tế, nhiều quốc gia khác cũng đã từng gánh những mức nợ tương tự mà không hề lâm vào khủng hoảng. Chẳng hạn, vào năm 1946, nước Mỹ có mức nợ liên bang tương đương 122% GDP. Nhưng các thập kỉ sau, tỷ lệ nợ công so với GDP của Mỹ đã giảm xuống tới mức đáy 33% vào năm 1981, nhờ GDP tăng. Mà sự gia tăng GDP này hầu như là kết quả của sự tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Không may là Hy Lạp không thể kỳ vọng điều tương tự. Việc trở thành một thành viên của Eurozone giúp đem tới cho Hy Lạp những khoản vay lãi suất thấp và những dòng vốn khổng lồ. Nhưng những dòng vốn này cũng đồng thời dẫn tới lạm phát và rốt cục, Hy Lạp phải đương đầu với tình trạng leo thang của giá cả mạnh hơn ở các nền kinh tế lớn của châu Âu. Dần dần, Hy Lạp buộc phải áp dụng chính sách tiền tệ giảm phát (tăng lãi suất trái phiếu, giảm cung tiền) để đưa tỷ lệ lạm phát về với mức “hợp chuẩn” với các quy định của khu vực đồng Euro. Sự giảm phát sẽ làm cho gánh nặng nợ nần của Hy Lạp thêm tồi tệ, gây nhiều tác động bất lợi cho nền kinh tế, làm giảm sút tăng trưởng và việc làm. Do đó, cách duy nhất để Hy Lạp khắc phục khó khăn là cắt giảm chi tiêu và tăng thuế - những biện pháp có thể làm tỷ lệ thất nghiệp của nước này thêm đáng ngại. Và khi đó, chắc chắn là niềm tin của thị trường trái phiếu vào Hy Lạp càng bị xói mòn, đẩy quốc gia này vào tình trạng tồi tệ hơn. Cơn bão khủng hoảng lan tràn Khủng hoảng nợ công Khủng hoảng nợ của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản trị tài chính công yếu kém của nước này với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn và vượt kiểm soát. Tiếp đó là khủng hoảng nợ ở Ireland, và lần lượt là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,… Biểu đồ 7: Nợ chính phủ /GDP năm 2009 của một số nước Eurozone Nguồn: Eurostat Theo dự báo của EC, năm 2011, nợ của Bồ Đào Nha sẽ tăng tới 101,7% GDP, trong khi nợ của Ireland sẽ lên tới 112% GDP. Hình 2: Tỉ lệ nợ công của các nước so với GDP năm 2009 Nguồn: BBC Năm 2010, thâm hụt của Hy Lạp vẫn ở mức 10,5% GDP và được dự báo sẽ giảm xuống 9,5% GDP trong năm 2011 và 9,3% trong năm 2012, vẫn còn rất xa mục tiêu đặt ra của EU là 3%. Cuộc khủng hoảng nợ đã mang lại hiệu ứng domino cho khu vực châu Âu. Nếu Tây Ban Nha, nền kinh tế lớn thứ tư và đóng góp 12% GDP trong khu vực, gặp rắc rối, EU sẽ lún sâu hơn vào cuộc khủng hoảng. Lạm phát Theo Eurostat, năm 2010, chỉ số lạm phát của Eurozone đã tăng đến 1.9% và gần chạm chỉ tiêu của ECB là 2%. Tháng 3/2011, chỉ số lạm phát trung bình đã tăng từ 2,4 lên 2,7%. Sự gia tăng lạm phát tại EU vượt xa dự đoán của các nhà phân tích. Theo thống kê mới nhất của Eurostat, lạm phát không chỉ xảy ra ở Eurozone mà trên toàn châu Âu nói chung mà hệ quả của nó và việc giá thành sản phẩm tăng 13,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Bảng 3: Tỉ lệ lạm phát ở châu Âu vào tháng 3/2010 và tháng 3/2011 3/2010 3/2011 3/2010 3/2011 Rumany 4,2 % 8,0 % Bỉ 1,9 % 3,5 % Estonia 1,4 % 5,1 % Áo 1,8 % 3,3 % Hungary 5,7 % 4,6 % Tây Ban Nha 2,7 % 3,3 % Hy Lạp 3,9 % 4,3 % Ý 1,4 % 2,8 % Ba Lan 2,9 % 4,0 % Đức 1,9 % 2,3 % Anh 3,4 % 4,0 % Hà Lan 0,7 % 2,0 % Bồ Đào Nha 0,6 % 3,9 % Séc 0,4 % 1,9 % Slovakia 0,3 % 3,8 % Thụy Điển 2,5 % 1,4 % Phần Lan 1,5 % 3,5 % Ai-len -2,4 % 1,2 % Nguồn: Eurostat Biểu đồ 8: Tỉ lệ lạm phát và lãi suất của khu vực Euro từ tháng 1/2008 đến tháng 3/2011 Nguồn: Eurostat Sự suy giảm niềm tin của giới đầu tư và người tiêu dùng Từ đầu năm 2010, đồng Euro luôn ở trong xu thế mất giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác, đặc biệt là USD. Cuộc khủng hoảng nợ của Eurozone mà tâm điểm là Hy Lạp, đã khiến giới đầu tư toàn cầu lo ngại và ồ ạt rút vốn khỏi đồng Euro. Tỷ giá Euro/USD có lúc xuống tới 1,22 USD/Euro. Tờ Time cho biết, trong 5 tháng đầu năm 2010, Euro đã mất giá khoảng 16% so với USD. Những diễn biến xấu của đồng Euro đã khiến thị trường chứng khoán lao dốc trầm trọng. Thêm nữa là sự thiếu đoàn kết và không nhất quán của các nước Eurozone trong việc chi viện trợ cho các nước khủng hoảng nợ công càng làm cho nhà đầu tư mất dần niềm tin vào sự hồi phục của khu vực kinh tế này và vào đồng Euro. Bên cạnh đó, người dân một số nước trong Eurozone đã bắt đầu quay sang sử dụng, thanh toán bằng đồng tiền của riêng mình trong các giao dịch hàng ngày, thay vì sử dụng Euro, vì mối lo ngại đồng tiền này sẽ sụp đổ. Tác động về mặt chính trị Liên minh tiền tệ châu Âu được xây dựng dựa trên một nền tảng còn khiếm khuyết về pháp lý và chính trị. Hiệp ước Lisbon chưa được xem là bản Hiến pháp hoàn chỉnh mà EU kỳ vọng. EU đã đặt ra các mục tiêu và thời hạn hoàn thành mục tiêu trong quá trình hình thành đồng tiền chung nhưng lại thiếu hệ thống giám sát nghiêm ngặt các chuẩn mực của đồng tiền chung. Theo New York Times, về cơ bản, sự ra đời của đồng Euro mang nhiều màu sắc chính trị . Bi kịch ngày nay của Hy Lạp có một phần là do tham vọng nhất thể hóa bằng mọi giá của các nhà lãnh đạo châu Âu - những người bị cho là đặt vấn đề chính trị lên trên thực lực kinh tế. Với lập luận rằng việc kết nối các quốc gia có nền dân chủ mong manh như Hy Lạp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha vào Cộng đồng châu Âu sẽ là cách tốt nhất để cải thiện nền dân chủ ; Hy Lạp đã được gia nhập khi chưa đáp ứng các quy định cơ bản về lãi suất, lạm phát, thâm hụt ngân sách,... Tuy vậy, từ trước tới nay, chưa một quốc gia nào trong khối Eurozone bị phạt, dù những quy định của khối vẫn thường xuyên bị hầu hết các nước thành viên vi phạm. Chính sự vượt rào “tập thể” này là một nguyên nhân quan trọng khiến châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ hiện nay. Tác động về mặt văn hóa – xã hội Để thoát khỏi khủng hoảng và gánh nặng nợ nần cũng như hoàn thành mục tiêu đưa thâm hụt ngân sách về mức quy định của Liên minh châu Âu, chính phủ các nước lần lượt tuyên bố cắt giảm chi tiêu, trong đó gồm tiền lương lao động, trợ cấp nghỉ hưu, thất nghiệp, y tế, giáo dục,… gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng đời sống người dân. - 2/5/2010 : Hy Lạp quyết định giảm chi tiêu 30 tỷ Euro trong 3 năm tới. - 25/5/2010 Nội các Italia thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ Euro - 27/5/2010 Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách nhằm tiết kiệm 15 tỷ Euro tương đương 18,4 tỷ USD - 7/6/2010: Đảng của Thủ tướng Đức chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách và thuế. - 24/11/2010: Chính phủ Ireland công bố giảm ít nhất 10% mức lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng, cắt giảm 25.000 biên chế trong các cơ quan nhà nước… Chính các chính sách thắt chặt đó đã làm người dân bất bình. Tại Hy Lạp, hơn 30.000 người biểu tình chen lấn bên ngoài đã hô vang khẩu hiệu phản đối quyết định thắt chặt chi tiêu của chính phủ. Hệ thống ngân hàng tài chính của Hy Lạp đã bị tê liệt khi hàng chục nghìn nhân viên ngân hàng xuống đường biểu tình, bao vây nhiều tuyến phố suốt hàng giờ. Bạo lực tại Athens đã khiến 3 nhân viên làm việc trong một ngân hàng bị thiệt mạng, khi những người biểu tình ném bom xăng vào trụ sở nhà băng này. Ở Tây Ban Nha, 75% người lao động trong lĩnh vực công không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của chính phủ. Ngoài ra, dân chúng tại nhiều nước châu Âu cũng tỏ ra bất bình về việc chính phủ nước họ sử dụng công quỹ để cứu cấp các nước “bê bối” trong khu vực đồng Euro, đào sâu vết rạn nứt giữa các quốc gia phương Bắc và phương Nam. Người dân e ngại rằng các phúc lợi xã hội sẽ bị cắt giảm dành cho việc cứu trợ, trong khi cuộc sống ngày một khó khăn hơn, lạm phát leo thang, mất việc làm, thu nhập giảm sút, kinh tế phát triển trì trệ và họ cần sự trợ giúp của chính phủ. Thủ đô của các quốc gia đầu tàu kinh tế khác của châu Âu như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Áo, I-ta-li-a cũng ngập trong cờ và biểu ngữ phản đối của lực lượng biểu tình. Cuộc khủng hoảng tài chính tiếp tục gây ra chuỗi ngày khó khăn trên thị trường việc làm tại Cựu lục địa. Tính đến tháng 3/2011, tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực Eurozone đạt 10%. Tây Ban Nha là quốc gia khó tìm việc nhất cho giới trẻ khi tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm này lên tới 40%. Tỷ lệ này cũng lên tới 2 con số tại Slovakia, Cộng hòa Ireland, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và Pháp. Hà Lan là quốc gia có thị trường lao động dễ chịu nhất với mức thất nghiệp chỉ là 4,1%. Đối với nền kinh tế thế giới Trên thị trường tài chính Sự ra đời của đồng Euro đã tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới và tạo ra rủi ro về tỉ giá. Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua sẽ bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng EURO chi phối. Với một nền kinh tế phát triển của 27 nước châu Âu với hơn 500 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm 30% (18,4 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP danh nghĩa và khoảng 22% (15,2 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua tương đương của thế giới, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối thủ đáng gờm đối với đồng USD. Nếu đồng EURO giữ được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày càng bị suy giảm mạnh. Điều này khiến cho một số lớn các nước trên thế giới đang sử dụng đồng USD là ngoại tệ chính sẽ gặp không ít khó khăn trong việc cơ cấu lại công cụ thanh toán quốc tế và nếu như không có những điều chỉnh kịp thời thì có thể sẽ gây ra những rắc rối nhất định cho hệ thống giao dịch quốc tế. Tác động đến hoạt động thương mại quốc tế Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ USD, chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với GDP là 8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Cũng như trên thị trường tài chính, ngoài những tác động tích cực thì đồng Euro cũng có những tác động tiêu cực đối với hoạt động thương mại quốc tế. Việc chuyển đổi từ USD sang EURO đối với hầu hết các nước là một điều hết sức khó khăn và ảnh hưởng đến trở ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu. Rủi to tỉ giá cũng là một vấn đề đáng quan tâm nếu như đồng EURO không được giữ ổn định. Tác động đến các hoạt động kinh tế quốc tế khác - Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra đời. Điều đó làm tăng sự mất cân bằng kinh tế giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển khác. - Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư... bằng đồng tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO. - Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển. Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân tích, đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO ổn định và vững mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ cần phải có những chính sách bảo vệ và khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn. CHƯƠNG III: KHẢ NĂNG HÌNH THÀNH MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG ASEAN 1. Bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội đối với việc hình thành đồng tiền chung ASEAN Trong vài thập kỉ trở lại đây, xu hướng khu vực hóa toàn cầu hóa đang nổi lên như là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Cùng với đó, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi lớn nếu các quốc gia biết tranh thủ tận dụng và phát huy. Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng gia tăng mạnh mẽ cũng đã và đang khuyến khích sự ra đời của các liên minh tiền tệ. Sau sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu, lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy rằng ở ASEAN có thể và có đủ khả năng hình thành một liên minh tiền tệ của khu vực. Nhận thức được điều đó, các nước trong khu vực Đông Nam Á đã và đang từng bước thực hiện những bước đi vững chắc tạo tiền đề cho sự hình thành một liên minh tiền tệ của khu vực: 1.1. Về kinh tế: Các chương trình hợp tác kinh tế đã có là những nền tảng tốt cho những bước tiến xa hơn trong tiến trình liên kết kinh tế và liên minh tiền tệ: - “Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung” (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) về việc giảm thuế và tiến tới xóa bỏ hàng rào phi thuế nhằm thúc đẩy phát triển và tăng trưởng sản xuất và thương mại. - “Hiệp định khung về khu vực đầu tư AIA” khẳng định lại tầm quan trọng của việc giữ vững sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở tất cả các Quốc gia thành viên bằng những nỗ lực chung nhằm tự do hoá thương mại, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN. - “Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ” sẽ đảm bảo một khuôn khổ thương mại tự do cho thương mại dịch vụ, củng cố và đẩy mạnh thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN; nhằm cải thiện hiệu quả và khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực công nghiệp dịch vụ của các nước. - “Hiệp định khung e – ASEAN” nhằm tiếp cận những công nghệ mới, tạo thuận lợi cho các giao dịch điện tử và thương mại qua biên giới và nâng cao khả năng của ASEAN trên thị trường thế giới. - Hội nghị cấp cao ASEAN 14 cam kết thúc đẩy hợp tác và tăng cường phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô và về Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. - Sự ra đời của “ Sáng kiến ChiengMai” đã tạo nền tảng vững chắc cho việc thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá, một trong những điều kiện tiên quyết cho việc hình thành một liên minh tiền tệ. 1.2. Về an ninh - chính trị: Các tranh chấp song phương và đa phương giữa các nước thành viên đã được giải quyết phần nào, và các quy tắc ứng xử được trải nghiệm trong thực tế phát triển của Hiệp hội là những cơ sở vững chắc tiến tới một liên kết an ninh. 1.3. Về văn hóa – xã hội: Các chương trình hợp tác và liên kết đã tạo điều kiện để các quốc gia thành viên hiểu biết sâu sắc hơn về bản sắc và truyền thống văn hóa của các dân tộc, đó là thuận lợi căn bản cho việc xây dựng liên kết văn hóa - xã hội ASEAN. Ngoài ra, sự biến động của nền kinh tế thế giới mà đặc biệt là khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - tài chính thế giới nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Điều đó cho thấy sự ra đời của một đồng tiền chung cho các nước Đông Nam Á một liên minh tiền tệ ASEAN là rất khả thi. 2. Bài học rút từ Khu vực đồng tiền chung Châu Âu cho khu vực ASEAN 2.1. Liên minh kinh tế tiền tệ ASEAN Đầu tiên và trước nhất, quá trình hợp nhất tài chính khu vực ASEAN phải lệ thuộc vào mức độ ảnh hưởng của các thể chế tài chính khu vực. Quá trình xuất hiện các định chế tài chính đa dạng tỏ ra quá chậm chạp so với nhu cầu đang không ngừng gia tăng của các tầng lớp trung lưu đang già cỗi dần. Khu vực ASEAN vốn luôn tự hào về sự tăng trưởng mà không chịu sức ép về tài chính, theo nghĩa là dù lạm phát gia tăng liên tục trong nhiều năm qua nhưng người gửi tiền chỉ phải chịu một lãi suất thực tế âm không đáng kể trong khi khu vực xuất khẩu và sản xuất nhận được rất nhiều lợi ích. Có thể giai đoạn hợp nhất tài chính khu vực ASEAN tiếp theo mang định hướng thị trường do những rào cản cho quá trình hội nhập của các thể chế tài chính ASEAN được dỡ bỏ. Việc có ngày càng nhiều thể chế tài chính xuất hiện ở thị trường mỗi quốc gia thành viên là một bước đi vững chắc hướng đến sự hợp nhất mang tầm khu vực, thay vì những phát ngôn hão huyền. Lấy Malaysia làm ví dụ, quốc gia này đã cho phép các thể chế tài chính từ Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và cả Trung Đông xuất hiện ở thị trường nội địa. Nếu quá trình này tăng tốc và lan rộng, một sự hợp nhất tài chính ở khu vực này sẽ xuất hiện nhờ sự liên kết mật thiết giữa các thể chế tài chính ấy. Sai lầm về mặt cấu trúc của khu vực đồng Euro thể hiện ở chỗ dù có một Ngân hàng trung ương châu Âu và hệ thống giám sát tài chính châu Âu nhưng cả khu vực này vẫn không có một hệ thống tài chính thống nhất. Vì thế, khi một quốc gia thành viên có khoản thâm hụt tài chính lớn, không một tổ chức nào có thể đứng ra điều phối chính sách tài chính một cách hiệu quả. Do đó, một liên minh kinh tế tiền tệ ASEAN ra đời cần lưu ý đến việc xây dựng một sự thống nhất về mặt chính trị, chính sách tài chính hay tiền hệ, cũng như chính sách giám sát. Tuy vậy, hiện nay hầu như chưa có bất kỳ thảo luận nào về các chính sách tài chính chung tại châu Á. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra về tính bất hợp lý trên bình diện cấu trúc của khu vực Euro khi cố gắng kết hợp nhiều nền kinh tế chênh lệch về lượng, và khác nhau về chất thành một khối. Do vậy, một liên minh kinh tế tiền tệ ASEAN muốn thành công phải giải quyết được vấn đề chênh lệch về tiềm lực kinh tế của các nước thành viên. 2.2. Tính minh bạch trong hệ thống tài chính, đặc biệt là minh bạch trong chi tiêu ngân sách 2.2.1. Thực trạng tính minh bạch trong hệ thống tài chính của cộng đồng EU Khi một số nước Châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ, các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau được lộ rõ, thì sức mua của Euro suy giảm sút mạnh. Tính đến tháng 7/2010, Euro đã giảm giá khoảng 15,7% so với USD, 8,5% so với GBP và 20% so với JPY… Những gì đang diễn ra bên trong Eurozone, khiến nhiều người phải đặt câu hỏi về sự gắn kết ở khu vực này. Biểu đồ 9: Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010 Nguồn: RatesFX Gắn kết về mặt kinh tế tài chính được xem là mối liên kết chặt chẽ nhất giữa các nước trong cộng đồng EU. Với những tiêu chí và tiêu chuẩn chặt chẽ của Eurozone, Euro đã tạo được sự tin cậy khá cao. Nhưng nguyên nhân gây bất ổn, thậm chí gây nguy cơ khủng hoảng Eurozone cũng lại chính ở khía cạnh này. Biểu đồ 10: Nợ công/GDP của một số nước Châu Âu (10 nước có nợ công ở mức nguy hiểm) Nguồn: Tạp chí Business Week 5/2010 Do việc nhất thể hóa chính trị không theo kịp nhất thể hóa tiền tệ, mà quan trọng hơn là sự chậm trễ trong nhất thể hóa kinh tế, nhất là nguyên tắc phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, trong khi giao quyền về chính sách tiền tệ cho ECB, nhưng mỗi thành viên vẫn hoạch định chính sách tài khóa riêng. Vì thế, khi thâm hụt ngân sách, chính phủ các nước thành viên không thể phát hành thêm tiền để bù đắp thiếu hụt, mà buộc phải tăng vay nợ và tìm mọi cách che dấu. Biểu đồ 11: Thâm hụt Ngân sách khu vực sử dụng Euro từ năm 1995-2009 Nguồn: website của Ngân hàng trung ương châu Âu - ECB Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã làm rung động thị trường tài chính châu Âu và toàn cầu. Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng đến không chỉ một vài nước trong khu vực châu Âu (Ailen, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…) mà liên quan đến hầu hết các nền kinh tế thế giới. Tham gia khu vực Eurozone, các nước thành viên đã tự tước bỏ khả năng sử dụng các công cụ lãi suất và tỉ giá như một động lực kích thích tăng trưởng kinh tế. Họ chỉ còn sự lựa chọn duy nhất là tăng chi tiêu công trong bối cảnh lan tỏa toàn cầu của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính từ Mỹ những năm 2007 - 2008. Sự thái quá và lạm dụng chi tiêu công trong các nước vốn có chính sách an sinh xã hội cao này đã trực tiếp dẫn đến gánh nặng nợ công và thâm hụt NSNN, thậm chí đã trở thành cơn dịch đe dọa sự an toàn và lành mạnh của khu vực kinh tế được nhất thể hóa cao nhất thế giới này. Biểu đồ 12: Cân đối ngân sách của một số nước EU từ năm 2006-2009 Nguồn: Eurostat Bài học rất có giá trị đối với khu vực ASEAN chính là việc minh bạch tài chính nói chung, minh bạch về chi tiêu công nói riêng nếu muốn hướng đến hội nhập khu vực. Trong khi các vấn đề về minh bạch tài chính, minh bạch nợ công và hiệu quả của chi tiêu công và kỷ luật tài khóa ở ASEAN còn hạn chế hơn nhiều so với Châu Âu. Vì vậy, vấn đề tạo sự cân bằng giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa lợi ích ngắn hạn với phát triển bền vững trong dài hạn cùng các cơ chế điều hành chính sách tài khóa – tiền tệ hợp lý là rất cấp thiết cho ASEAN cũng như các khu vực khác trên thế giới.  2.2.2. Bài học rút ra Trước sự việc hệ thống Eurozone như thế, trên con đường tiến đến thành lập một đồng tiền chung cho các nước ASEAN, chúng ta cần phải có một số biện pháp để tránh đi vào vết xe đổ ấy. 2.2.2.1. Phát triển các hệ thống dịch vụ công minh bạch và hiệu quả Tính liêm chính trong Dịch vụ công Xây dựng các hệ thống tuyển dụng công chức đảm bảo tính công khai, công bằng và hiệu quả, khen thưởng tuyển dụng các cá nhân có trình độ năng lực và đạo đức thông qua: Sự phát triển của các hệ thống lương bổng đủ để đảm bảo mức sống tương xứng và phù hợp với trình độ của nền kinh tế. Sự phát triển của các hệ thống tuyển dụng và khen thưởng công chức một cách minh bạch nhằm tránh tình trạng lạm dụng chức quyền để bảo trợ, thiên vị cho người thân hay chủ nghĩa gia đình trị; thúc đẩy việc tạo ra một dịch vụ công độc lập và sự cân bằng hợp lý của việc bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo. Phát triển các hệ thống giám sát hiệu quả các quyết định cá nhân và người có thẩm quyền đưa ra các quyết định đó. Phát triển hệ thống nhân sự trong đó có sự bổ nhiệm luân phiên và thường xuyên nhằm giảm những suy nghĩ thiển cận có thể dẫn đến tham nhũng. Xác lập các quy tắc ứng xử và đạo đức trong quản lý hành chính để ngăn ngừa các xung đột lợi ích, đảm bảo sử dụng hợp lý các nguồn lực công và khuyến khích tính chuyên nghiệp và liêm chính ở mức cao nhất thông qua: Cấm hoặc hạn chế các xung đột lợi ích trong quản lý hành chính Các hệ thống tăng cường tính minh bạch thông qua công khai và giám sát tài sản và chi tiêu cá nhân. Hệ thống bộ máy hành chính thích hợp có thể đảm bảo không có tiêu cực trong các cuộc tiếp xúc giữa quan chức và doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực thuế, hải quan và các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng khác. Tăng cường xây dựng các quy tắc ứng xử trên cơ sở chuẩn mực quốc tế hiện có cũng như các tiêu chuẩn văn hoá truyền thống. Thường xuyên giáo dục, đào tạo và giám sát quan chức nhằm giúp họ ý thức đúng đắn hơn về trách nhiệm của mình. Có các biện pháp đảm bảo, khuyến khích cán bộ thực hiện nghiêm túc việc tố giác các hành vi tham nhũng, đồng thời có cơ chế đảm bảo bí mật và an toàn cho những cá nhân làm việc này. Trách nhiệm giải trình và tính minh bạch Duy trì trách nhiệm giải trình của khu vực dịch vụ công thông qua các khung pháp lý hiệu quả, các thủ tục quản lý và kiểm toán. Xây dựng các biện pháp và hệ thống tăng cường sự minh bạch trong chính sách chi tiêu. Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành và thực tiễn điều tiết, giám sát các thể chế tài chính. Các thủ tục kiểm toán phù hợp và có thể áp dụng đối với khu vực hành chính và dịch vụ công; các biện pháp và hệ thống cung cấp báo cáo công khai về quá trình ra quyết sách và thực thi quyết sách. Các thủ tục công khai phù hợp trong mua bán dịch vụ công nhằm khuyến khích cạnh tranh công bằng và ngăn ngừa hành

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐồng tiền chung châu Âu Euro- Được và mất trong tình hình tài chính quốc tế hiện tại và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN.doc
Tài liệu liên quan