Đề tài Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam

Mục lục



LỜI MỞ ĐẦU

Trang

Chương 1 Cấu trúc thị trường quyền chọn chứng khoán

1.1. Quyền chọn chứng khoán 1

1.2. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán 4

1.3. Thực hiện quyền chọn 4

1.4. Các thành phần tham gia giao dịch quyền chọn 7

1.5. Chi phí giao dịch quyền chọn 7

1.6. Một số thị trường quyền chọn chứng khoán trên thế giới 8

1.6.1 Thị trường Chicago Board Options Exchange (CBOE) 8

1.6.2 Thị trường Tokyo (TSE) 18

Chương 2 Thị trường chứng khoán Việt Nam và quyền chọn chứng

khoán

2.1 Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 22

2.2 Sự bất ổn của thị trường chứng khoán 25

2.2.1 Quan sát chung toàn thị trường 25

2.2.2 Quan sát trên một số cổ phiếu cụ thể 27

2.3 Những bất cập còn tồn tại 29

2.4 Thị trường quyền chọn Việt Nam 34

2.4.1 Thị trường quyền chọn vàng 34

2.4.2 Thị trường quyền chọn ngoại tệ 33

Chương 3 Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam

3.1 Đối với Uỷ ban chứng khoán 39

3.1.1 Hành lang pháp lý cho giao dịch quyền chọn chứng khoán 39

3.1.2 Xây dựng cơ chế giao dịch 43

3.2 Đối với Công ty chứng khoán 44

3.2.1 Một số quy định cơ bản 44

3.2.2 Cách thức giao dịch và khớp lệnh 45

3.2.3 Định giá quyền chọn 47

Kết luận 54

Phụ lục và tài liệu tham khảo

pdf70 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1938 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp quá mức của chính phủ vào thị trường chứng khoán Việc SCIC có quyền quá rộng trong việc mua cổ phiếu cũng tạo ra một khoảng trống cho sự thiên vị của SCIC với một số công ty nhất định. Nguy cơ này càng lớn khi SCIC được phép giữ bí mật về danh mục các cổ phiếu được mua, số lượng tiền bỏ ra để mua, thời gian mua v.v. Từ đây, giá cổ phiếu thay vì phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, lại phản ánh doanh nghiệp nào được chính quyền “ưu ái” bảo kê (bail out) mỗi khi gặp khó khăn. Các doanh nghiệp được “bảo kê” sẽ càng tự do hơn trong các khoản đầu tư của mình, vì biết “tội vạ đâu đã có SCIC gánh đỡ”. Việc can thiệp vào TTCK sẽ khiến các nhà đầu tư trong và ngoài nước về quan niệm thị trường của Chính phủ. Nếu như thị trường chứng khoán, nơi thông tin đầy đủ nhất, người mua bán hiểu biết và linh hoạt nhất mà còn cần điều khiển, thì tất cả các thị trường khác đều cần có sự can thiệp vào giá của Nhà nước! Hành động mà các nước phát triển coi như một cấm kị này có thể được diễn giải là một bằng chứng rằng Việt Nam chưa phải là một nền kinh tế thị trường. Và điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng bất lợi cho Việt Nam trong các vụ kiện bán phá giá, vốn đang là rào chắn ghê gớm cho việc thâm nhập các thị trường phát triển.  Thị trường dễ dàng bị chi phối TTCK đã phát triển với quy mô ngày càng lớn. Những nhà đầu tư nhỏ không thể tác động vào thị trường, kinh doanh nhờ may rủi đã phải nhường chỗ cho các đại gia mỗi lần khớp lệnh lên tới hàng chục tỷ đồng làm thay đổi cung cầu cổ phiếu của một công ty. Hiện nay các đại gia này phần lớn là các nhà đầu tư nước ngoài, họ để mắt tới cổ phiếu của công ty nào thì cổ phiếu của công ty đó tăng giá. Song các nhà đầu tư này chưa sẵn sàng vì lợi tức cổ phiếu mang lại thấp. Thực tế trong thời gian qua họ mới chuyển từ cổ phiếu này sang cổ phiếu khác, tìm cơ hội rút vốn cho đỡ thua thiệt. Nạn đầu cơ chứng khoán. Thực tế vừa qua trên TTCKVN những nhà đầu tư chân chính rất ít mà phần lớn là những nhà buôn chứng khoán. Họ có ít kiến thức về thị trường, về quản trị kinh doanh. Họ lao vào chứng khoán do thấy đã có nhiều người phất to từ thị trường này. Họ mua chứng khoán không vì mục tiêu đầu tư và hưởng cổ tức từ lợi nhuận của doanh nghiệp mà họ đầu cơ chứng khoán, mua đi bán lại hưởng chênh lệch giá. Chứng khoán đối với họ là một trò chơi như chơi xổ số, chơi hụi. Do vậy đã làm nhu cầu chứng khoán tăng lên giả tạo.  Quan niệm sai lầm Cung-Cầu chứng khoán Dường như có một sai lầm cơ bản nhưng phổ biến của nhiều nhà đầu tư Việt Nam và cả của nhà quản lý (cụ thể là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) là áp dụng “quy luật” cung cầu cho TTCKVN. Khái niệm “cầu” của hàng hoá thông thường được xây dựng dựa trên ích lợi mà chúng mang lại cho người tiêu dùng: Đứng trước một chiếc xe máy, mỗi người sẽ tính xem mình đỡ được bao nhiêu thời gian và sức lực dành cho việc đi lại. Nhu cầu tiêu dùng xe máy của mỗi người là tự thân và ổn định, mặc dù ích lợi thu được với từng người là khác nhau. Mỗi người sẽ chỉ mua xe máy nếu phần tiết kiệm thời gian và sức lực lớn hơn số tiền mà anh ta phải bỏ ra. Với mỗi mức giá, sẽ có một số người thấy đáng mua và một số người không. Giá càng rẻ thì càng nhiều người thấy đáng mua. Khi xe máy đi nhanh hơn, tiện lợi hơn thì nhiều người muốn mua hơn (cầu tăng). Ngược lại, người mua và bán chứng khoán không có ích lợi tự thân nào từ “tiêu dùng” cổ phiếu (vì thế, “cầu” cổ phiếu theo đúng nghĩa là bằng không). Lý thuyết cung cầu không áp dụng được cho chứng khoán. Thay vì cung cầu, lợi nhuận kì vọng chính là quy luật vận hành của TTCK. Nhà đầu tư cổ phiếu chỉ có một quan tâm duy nhất, là làm sao số tiền thu về từ cổ phiếu (cổ tức và giá bán lại) lớn hơn số tiền mua. Mỗi người chỉ mua cổ phiếu khi tin rằng giá hiện tại của nó nhỏ hơn thu nhập kì vọng (giá cổ phiếu cộng với cổ tức) (tức là giá cổ phiếu đang “rẻ”), và bán ra trong trường hợp ngược lại. Vì kì vọng của mỗi người lại khác nhau, nên họ mua bán với nhau trên TTCK. Khi số người tin rằng cổ phiếu đang “đắt” nhiều hơn số người cho rằng cổ phiếu đang “rẻ” thì giá cổ phiếu đi xuống, và ngược lại. Nếu không bị giới hạn về thanh khoản, việc có thêm nhiều cổ phiếu của các doanh nghiệp mới trên thị trường chứng khoán sẽ không thể ảnh hưởng đến giá trị của các cổ phiếu của các doanh nghiệp khác, bởi vì mỗi loại cổ phiếu đều có thu nhập kì vọng riêng của nó, không liên quan nhiều đến các cổ phiếu của doanh nghiệp khác.  Thị trường phụ thuộc vào các công ty có giá trị vốn hóa lớn Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, do quy mô của TTCKVN còn nhỏ, cơ chế hoạt động chưa thật sự hoàn chỉnh nên những diễn biến trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào những công ty niêm yết có giá trị vốn hóa lớn. Lúc thị trường mới thành lập, chỉ số VN-Index phụ thuộc vào giá trị cổ phiếu SAM, REE. Hiện nay, việc biến động các cổ phiếu như FPT, VNM, STB lại dẫn đến sự biến động của thị trường. Việc phân tích kỹ thuật hay phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như sử dụng những mô hình định lượng khác trong việc phân tích và dự báo giá cổ phiếu trở nên không hữu ích đối với các nhà đầu tư riêng lẻ. Thực tế thời gian qua cho thấy, câu hỏi: “Tại sao giá cổ phiếu tăng hay giảm một cách đột ngột trong khi tình hình kinh doanh của chính công ty đó chẳng có gì đột biến?” được các nhà đầu tư quan tâm, nhưng ít khi họ biết đến thực chất của vấn đề vì họ không nắm được thông tin từ thị trường. Việc biến động của thị trường chứng khoán thời gian qua không phản ánh tình hình kinh tế. Chỉ số VN-Index biến động, tăng cao rồi giảm mạnh và lại tăng cao, dù nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng, lạm phát được kiểm soát...  Hệ thống giao dịch chưa hoàn thiện Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán gồm năm thành phần quan trọng cùng tương tác, phụ thuộc và ảnh hưởng với nhau. Đó là: (i) Hệ thống thanh toán, lưu ký và bù trừ chứng khoán. (ii) Hệ thống giao dịch của sở giao dịch chứng khoán. (iii) Hệ thống thông tin giao dịch tại công ty chứng khoán. (iv) Hạ tầng truyền thông kết nối giữa các bên tham gia thị trường chứng khoán. (v) Hệ thống giám sát và công bố thông tin của sở giao dịch chứng khoán. Điều quan trọng nhất của TTCKVN hiện nay là hệ thống giao dịch chưa hoàn thiện, mà cụ thể là hệ thống thanh toán, lưu ký và bù trừ chứng khoán. Tất cả thông tin khách hàng, lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng khoán cho công ty niêm yết, hoặc chưa niêm yết, khách hàng của các công ty chứng khoán đều nằm ở đây. Các công ty chứng khoán chỉ là các thành viên của hệ thống thông tin này mà thôi. Chính vì sự yếu kém mà thời gian thanh toán chưa thể giảm từ T+3 xuống T+1. Việc rút ngắn thời gian thanh toán sẽ giúp tăng cung cầu chứng khoán trên thị trường và việc phân tích, dự báo giá chứng khoán (bằng phương pháp phân tích kỹ thuật) sẽ có khả năng chính xác hơn. Điều đó sẽ giúp nhà đầu tư tự bảo vệ mình hơn là những cảnh báo từ các nhà điều hành thị trường. Với mô hình hiện tại của TTCKVN, các công ty chứng khoán phải chuyển lệnh vào cho các đại diện giao dịch tại sàn, trước khi lệnh được chuyển vào hệ thống giao dịch của Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Với cơ chế khớp lệnh định kỳ, nhà đầu tư lại luôn có xu hướng tranh mua, tranh bán vào thời điểm khớp lệnh, khiến nhiều lúc các đại diện giao dịch không thể nhập lệnh vào hệ thống kịp lúc. Tất cả các vấn đề trên làm cho các nhà đầu tư khó dự đoán được diễn biến thị trường trước khi quyết định đầu tư. 2.4 Thị trường quyền chọn Việt Nam 2.4.1 Thị trường quyền chọn vàng Được sự cho phép của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ngày 15/12/2004, Ngân hàng TMCP Á Châu chính thức cho ra đời một sản phẩm hay công cụ phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng: quyền chọn vàng. Thời điểm hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ cho phép cá nhân và tổ chức mua quyền chọn mua hoặc mua quyền chọn bán. Tuy nhiên, khách hàng có thể bán lại hợp đồng Quyền chọn đã mua trước đó với ngân hàng. Nếu thực sự có nhu cầu mua quyền chọn vàng, khách hàng cần trực tiếp đến ngân hàng để được thông báo phí và các điều kiện khác chính xác bằng văn bản trước khi ký hợp đồng. Mức phí được tính toán dựa trên nhiều tham số: giá giao ngay tại thời điểm giao dịch, giá thực hiện hợp đồng quyền chọn, thời hạn hợp đồng, chênh lệch lãi suất của vàng và VNĐ, độ biến động của giá vàng… Quá trình giao dịch cũng tương tự như giao dịch quyền chọn tiền tệ Quy mô giao dịch Quy mô giao dịch của một hợp đồng Quyền chọn giữa ACB với khách hàng tối thiểu là 100 lượng vàng, tối đa là 5.000 lượng vàng đối với cá nhân và 10.000 lượng đối với các tổ chức. Thời hạn giao dịch của mỗi hợp đồng quyền chọn vàng giữa ACB với khách hàng tối thiểu 2 tuần, tối đa là 3 tháng. Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể yêu cầu thực hiện hợp đồng có giao nhận vàng thực tế hoặc không muốn giao nhận vàng thực tế. Ngân hàng sẽ thực hiện chi trả khoản tiền chênh lệch giá dựa trên giá vàng do ACB niêm yết hai chiều (gồm giá mua và giá bán) tại thời điểm đáo hạn hợp đồng để bù trừ giao dịch vàng cho khách hàng. Khách hàng có thể yêu cầu bán lại hợp đồng quyền chọn trước hạn. Khi đó ngân hàng sẽ tính toán mức trả phí cho khách hàng. Sản phẩm quyền chọn vàng sẽ giúp khách hàng có thêm một công cụ tài chính hữu hiệu để quản lý tài sản của mình một cách linh hoạt và hiệu quả. Được biết sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép triển khai dịch vụ này, ACB đã giao dịch với khách hàng về quyền chọn vàng với khối lượng 20 tấn vàng chỉ trong 6 tháng qua. Đến ngày 02/07/2005 Ngân hàng Eximbank cho ra đời sản phẩm: quyền chọn vàng. Ra đời cũng được hơn 4 năm nhưng thật sự các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công cụ này rất ít. Và đến thời điểm này chỉ có 2 Ngân hàng cung cấp sản phẩm quyền chọn vàng. 2.4.2 Thị trường quyền chọn ngoại tệ Ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh mới bắt đầu được sử dùng từ đầu những năm 2000. Tuy nhiên, các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Ngày 12/2/2003 Ngân hàng nhà nước Việt Nam (SBV) chấp nhận đề nghị thí điểm nghiệp vụ quyền chọn trong kinh doanh ngoại hối của Eximbank, tiếp theo là đến BIDV, kế tiếp là Agribank được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ đối với khách hàng. Nghiệp vụ này được áp dụng với các ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối, vốn tự có ít nhất 200 tỷ đồng Việt Nam; kinh doanh ngoại tệ có lãi trong năm gần nhất; doanh số mua bán ngoại tệ/VND năm 2002 tối thiểu 1 tỷ USD; có đề án chi tiết và qui định của ngân hàng về quy trình nghiệp vụ quyền chọn trong đó gồm các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Để được thí điểm nghiệp vụ quyền chọn, các ngân hàng phải có quy định về quy trình thực hiện, trong đó bao gồm các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Quá trình giao dịch chỉ dùng ngoại tệ tự do chuyển đổi, không được giao dịch bằng VND. Giới hạn số dư cao nhất là 500.000 USD hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương, chỉ thực hiện với các doanh nghiệp đóng tại Việt Nam. Trường hợp thanh toán ngoại tệ cho nước ngoài, doanh nghiệp phải xuất trình cho ngân hàng chứng từ theo các quy định quản lý ngoại hối hiện hành. Thời hạn của giao dịch từ 7 ngày đến tối đa 3 tháng. Ngày 15/07/2003, Citibank là ngân hàng đầu tiên trong số hơn 20 ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước (SBV) cho phép thực hiện nghiệp vụ quyền chọn. Trên thực tế, số lượng giao dịch của các công cụ này còn hết sức khiêm tốn. Một số tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện giao dịch các công cụ phái sinh như: Chi nhánh Ngân hàng Citibank, Ngân hàng Standard Chartered, BIDV, Vietconbank, HSBC, nhưng doanh số và số khách hàng tham gia còn hết sức khiêm tốn. Về quyền chọn ngoại tệ (ngoại tệ/VND): Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thực hiện thí điểm đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương; Ngân hàng ACB, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương, Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, nhưng doanh số về hoạt động này vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt động truyền thống. Quyền chọn ngoại tệ giúp doanh nghiệp ngăn ngừa rủi ro khi tỉ giá biến động mạnh. Ngân hàng Nhà nước vừa cho phép 2 ngân hàng thương mại là ACB và Techcombank được mở dịch vụ quyền chọn ngoại tệ (quyền chọn ngoại tệ) giữa tiền VNĐ và ngoại tệ. (5/2005) và đến ngày 02/07/2005 Eximbank cũng cho ra đời “quyền chọn ngoại tệ/VNĐ”. Mức độ áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam Nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam. Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của ngân hàng nhà nước. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5- 7% khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các ngân hàng thương mại dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND. Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở Việt Nam và được các ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các ngân hàng thương mại nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. Ngân hàng nhà nước đã cho phép các ngân hàng thương mại thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng các doanh nghiệp được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Từ khi ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ 01/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 01/03/2005 tới 02/2006. Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần đây. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Sau BIDV là hàng loạt các ngân hàng thương mại khác, bao gồm cả ngân hàng thương mại cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này. Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Điểm lại nhưng mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở VN, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các doanh nghiệp chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro? Phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các doanh nghiệp và các công cụ phái sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của các doanh nghiệp đối với các Công cụ phái sinh, từ đó là những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải chăng điều kiện kinh tế, đặc biệt là sự phát triển ở Việt Nam còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ ngoại bảng này còn nhiều bất cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển khai các dịch vụ phái sinh ? Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt động của các công cụ phái sinh. Chương 3 Giải Pháp Cho Thị Trường Quyền Chọn Chứng Khoán Việt Nam 3.1 Đối với Uỷ ban chứng khoán 3.1.1. Hành lang pháp lý cho giao dịch quyền chọn chứng khoán. Trước những bất cập của thị trường chứng khoán như đã nêu trên, trước hết Uỷ ban chứng khoán nhà Nước cần giải quyết tình trạng thông tin bất cân xứng khi thông tin không được công bố cho nhà đầu tư không đồng nhất về mặt thời gian. Uỷ ban chứng khoán cần cho phép các công ty niêm yết được quyền công bố thông tin đến nhà đầu tư cùng lúc với Uỷ ban chứng khoán nhà Nước. Giảm bớt những khâu trung gian trong việc công bố thông tin sẽ giảm bớt tình trạng thông tin nội gián hiện nay. Hiện nay luật chứng khoán có tất cả 136 điều, theo như khoảng 9 điều 71 quy định cho công ty chứng khoán: “Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính”. Như vậy luật chứng khoán của Việt Nam hiện nay không cấm hình thức bán khống, tuy nhiên cơ cấu và hệ thống luật vẫn chưa có những quy định cụ thể cho hoat động này. Thị trường quyền chọn không thể hoạt động nếu như chưa có những quy định chặc chẽ trong hệ thống luật. Để có thể cho ra đời thị trường quyền chọn, hệ thống luật chứng khoán cần có những quy định chặc chẽ đối với hai đối tượng là các thành viên tham gia vào thị trường quyền chọn và tiêu chuẩn để cổ phiếu cơ sở được giao dịch quyền chọn: Công ty chứng khoán được phát hành quyền chọn: cần đáp ứng những tiêu chuẩn về khả năng tài chính, bên cạnh đó cơ sở hạ tầng cũng cần thiết cho những công ty chứng khoán khi tham gia vào thị trường quyền chọn này. Cổ phiếu được phép niêm yết được giao dịch quyền chọn: để tránh những hiện tượng “làm giá” ảnh hưởng tới quyền chọn, Ủy ban chứng khoán cần quy định: Quy định đối với cổ phiếu của công ty tham gia niêm yết quyền chọn: Luật bổ sung cho việc xem xét tiêu chuẩn của cổ phiếu niêm yết để giao dịch quyền chọn: Dựa trên một số kinh nghiệm có được trên thị trường CBOE và TSE, đồng thời căn cứ vào điều kiện cụ thể ở thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay  Số lượng cổ phiếu niêm yết giao dịch trên sàn phải ít nhất từ 80 triệu cổ phiếu trở lên.  Số lượng cổ phiếu lưu hành ngoài thị trường ít nhất phải đạt từ 90% số lượng cổ phiếu đăng ký niêm yết giao dịch.  Số lượng cổ đông đến thời điểm niêm yết quyền chọn của cổ phiếu cơ sở phải từ 2000 cổ đông trở lên. Sự hợp lý của việc quản lý trong tập đoàn, doanh nghiệp phải quản lý việc kinh doanh của doanh nghiệp sao cho công bằng và trung thực.  Doanh nghiệp không có những khoảng lợi nhuận phi pháp từ hoạt động của doanh nghiệp và bất kỳ hoạt động nào khác.  Quan hệ qua lại giữa cơ quan hành chính, đối thủ cạnh tranh, hoặc đối với những văn phòng của những công ty khác. Không đuợc ngăn cản từ phía các cơ quan chức năng tìm trung thực, công bằng và hiệu quả, hoặc từ phía kiểm toán. Sự thích hợp và chính xác của sự minh bạch trong công việc, doanh nghiệp phải công bố thông tin, về những thành viên một cách chính xác và hợp lý.  Các văn bản phải gắn liền với những hoạt động trong tập đoàn, tuân theo pháp luật và điều lệ của công ty… Và mô tả những khoản mục và những khoản mục này có sự ảnh hưởng ban đầu đến quyết định của nhà đầu tư dể hiểu.  Doanh nghiệp phát triển và điều hành hệ thống kế toán thích hợp theo tiêu chuẩn kế toán mới nhất.  Doanh nghiệp không được bóp méo sự minh bạch thông tin của tập đoàn qua những hoạt động như là tổ chức những buổi party đặc biệt, đánh giá tỷ số cổ phần và các thành viên. Doanh nghiệp phải có khả năng quản lý những thông tin tập đoàn bao gồm các sự kiện có ảnh hưởng tới việc quản lý, phải minh bạch thông tin này một cách kịp thời và hợp lý. Độc lập từ công ty gia đình, doanh nghiệp phải đảm bảo độc lập từ công ty gia đình.  Công ty gia đình không được niêm yết, không có quyền hoặc xui khiến các hoạt động mà nó không thuận lợi cho công ty niêm yết hoặc công ty gia đình.  Công ty niêm yết hoặc công ty gia đình phải quản lý hoạt động kinh doanh hoặc những hoạt động khác phải có những điều kiện khác biệt quan trọng hơn so với hoạt động thông thường.  Doanh nghiệp niêm yết không được xem xét những nhân tố trong đơn vị kinh doanh của doanh nghiệp gia đình.  Cố phiếu phát hành bởi công ty gia đình… phải được niêm yết trong sở giao dịch chứng khoán nội địa. Sự kiện trong công ty gia đình không theo cách giải quyết trên mà được Uỷ ban chứng khoán xử lý riêng. Những vấn đề mà Uỷ ban chứng khoán cho là cần thiết đối với lợi ích công cộng và bảo vệ các nhà đầu tư.  Quyền các cổ đông và việc thực hiện không được vượt quá mức giới hạn.  Sự kiện mà doanh nghiệp đưa ra tiếp tục được bảo vệ, nó tôn trọng các khoản mục bên dưới: o Khả năng công bố o Minh bạch o Ảnh hưởng đến thị trường thứ cấp o Tôn trọng quyền các cổ đông  Doanh nghiệp nhìn nhận sự hợp lý trong khi xem xét lợi ích công cộng và bảo vệ các nhà đầu tư. Quy định đối với hoạt động của công ty niêm yết quyền chọn:  Công ty có lịch sử hoạt động ít nhất từ 5 năm trở lên và tham gia niêm yết giao dịch cổ phiếu từ 3 năm trở lên.  Công ty đạt lợi nhuận trong 3 năm gần nhất ( từ 80 tỷ đồng trong năm 1, 96 tỷ đồng trong năm 2, 120 tỷ đồng trong năm 3).  Báo cáo tài chính của công ty phải được kiểm toán chặt chẽ của các tổ chức kiểm toán có uy tín cao. Quy định mức ký quỹ tối thiểu: Đảm bảo luôn đảm bảo mức ký quỹ tối thiểu là 20% giá trị của hợp đồng quyền chọn trong tài khoản giao dịch của khách hàng. Quy định quy mô một hợp đồng quyền chọn: Một hợp đồng quyền chọn giao dịch trên sàn gồm 100 cổ phiếu cơ sở. Trường hợp ngoại lệ, khi công ty tiến hành chia tách cổ phiếu hoặc chia cổ tức qua cổ phiếu thì hợp đồng sẽ được điều chỉnh để phản ánh mức thay đổi vốn hóa của công ty. Nếu một cổ phiếu được chia tách thành hai cổ phiếu, người mua và người bán sẽ nhận được hai hợp đồng tương ứng với hợp đồng cũ, bên cạnh đó giá thực hiện sẽ được giảm xuống phân nửa so với trước đây. Quy định cách thức khớp lệnh: Quy trình khớp lệnh của quyền chọn cũng có thứ tự ưu tiên như trong quy trình khớp lệnh chứng khoán. Quy định các thành viên tham gia trên sàn giao dịch:  Nhân viên môi giới: tách biệt giữa nhân viên môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới quyền chọn. Nhân viên môi giới phải đảm bảo những tiêu chuẩn nghiêm khắc của Ủy ban chứng khoán.  Nhà tạo lập thị trường: chịu trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của công chúng đối với quyền chọn. Nhà tạo lập thị trường phải có tư cách pháp nhân và được sự cho phép của Ủy ban chứng khoán. Nhà tạo lập thị trường là các tổ chức phát hành quyền chọn.  Nhân viên giữ sổ lệnh: đảm bảo cho lệnh giới hạn của công chúng được thực hiện trước lệnh của nhà tạo lập thị trường. Quy định huỷ bỏ giao dịch quyền chọn đối với cổ phiếu Bên cạnh quy định những điều kiện đối với cổ phiếu niêm yết giao dịch quyền chọn, Uỷ ban chứng khoán quy định điều kiện để huỷ bỏ giao dịch quyền chọn đối với cổ phiếu niêm yết. Ủy ban chứng khoán nhà nước có thể hủy niêm yết quyền chọn cổ phiếu cơ bản của một cổ phiếu chắc chắn nếu không có hoạt động nhiều vể hợp đồng quyền chọn trong suốt năm tài chính. Quy định cho trung tâm thanh toán bù trừ Là nơi thực hiện việc thanh toán các hợp đồng quyền chọn cho 2 bên mua và bán. Trung tâm này do Ủy ban chứng khoán nhà nước quản lý, các công ty phát hành quyền chọn phải ký quỹ tối thiểu là 5% trên vốn điều lệ, khi giá trị hợp đồng giao dịch quyền chọn tại công ty chứng khoán vượt quá 50% vốn điều lệ của công ty thì đòi hỏi công ty chứng khoán phải ký quỹ bổ sung để duy trì mức ký quỹ là 10% tại trung tâm thanh toán bù trừ. Căn cứ trên: mức độ biến động của các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, minh bạch thông tin của các công ty niêm yết, vốn điều lệ, ngành nghề hoạt động và một số tiêu chuẩn khác thì hiện nay, trên thị trường chứng khoán Việt Nam có được 14 mã cổ phiếu có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn giao dịch quyền chọn, bảng 3.1.1.1 sẽ thể hiện vốn điều lệ và số lượng cổ phiếu đang lưu hành của từng cổ phiếu. Bảng 3.1.1.1 Các mã cổ phiếu có thể giao dịch quyền chọn Mã CK Tên Công Ty Vốn điều lệ (tỷ đồng) Số cổ phiếu đang lưu hành STB NHTMCP Sài Gòn Thương Tín 4,449 444,881,417 DPM CTCP Phân đạm và Hóa chất Dầu khí 3,800 380,000,000 PPC CTCP nhiệt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCông cụ phòng ngừa cho thị trường chứng khoán Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan