Đề tài Giải pháp chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam

Hàng giả không chỉ tác hại đến quyền lợi của người tiêu dùng, đến sức khoẻ tính mạng của nhân dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh đến uy tín của những nhà sản xuất kinh doanh. Bởi vậy công tác đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh tiêu thụ hàng giả phải là nhiệm vụ bức thiết của toàn xã hội.

Cũng cần khách quan mà nhận định rằng chống sản xuất và buôn bán hàng giả thực sự là một cuộc chiến cam go, lâu dài và do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, ban ngành chức năng, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2969 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến tình trạng nạn sản xuất và buôn bán hàng giả ngày một gia tăng, bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là cơ bản nhất. 1. Nguyên nhân khách quan. Do cơ chế thị trường phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu mà nó đem lại cho nền kinh tế nước ta thì nó ngày càng bộc lộ những hạn chế, những hậu quả to lớn cho nền kinh tế mà không phải một sớm một chiều mà khắc phục được. Hàng giả là một trong những hạn chế đó. Do trình độ dân trí nước ta còn thấp cộng thêm lối suy nghĩ cá nhân hẹp hòi chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà dẫn đến động cơ làm hàng giả. Do cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta nói chung là thấp kém, những thiết bị, máy móc chuyên dụng cho công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá là không có. Các công nghệ tiên tiến để bảo vệ hàng hoá như mã số, mã vạch, nhãn hiệu... hầu như chưa phát triển. 2. Nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất, do hệ thống pháp luật của nhà nước ta về công tác đấu tranh chống sản xuất kinh doanh buôn bán hàng giả còn tản mạn, một số quy định chưa chặt chẽ, thậm chí còn chồng chéo gây khó khăn, cản trở công tác kiểm tra xử lý. Thứ hai, do việc quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các cấp các ngành quản lý sản xuất kinh doanh có liên quan còn lỏng lẻo thiếu sự kiểm tra kiểm soát hoặc kiểm tra kiểm soát không chặt chẽ không khách quan, không chính xác... Hơn nữa cá doanh nghiệp chưa có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ cho sản phẩm của mình. Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ người tiêu dùng, một phần do họ không có đủ những thông tin về sản phẩm của các doanh nghiệp, một phần do họ chưa có ý thức cao trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Người tiêu dùng ít liên hệ với các cơ quan chức năng như cục quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế... để cung cấp những thông tin về hàng giả. Tất cả những nguyên nhân trên đã chứng tỏ vì sao nạn sản xuất và buôn bán hàng giả vẫn không hề giảm bất chấp mọi nỗ lực, cố gắng của Nhà nước, của các cơ quan chức năng trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. I.2. Thực trạng gian lận thương mại ở nước ta hiện nay Hiện nay hành vi gian lận thương mại phát sinh phát triển đa dạng, phức tạp với những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, nổi bật là tình hình nhập hàng sai khai báo như có ít khai nhiều không có hàng xuất vẫn khai có hàng hoặc khai tăng giá để hưởng nhiều kim ngạch xuất khẩu, tình hình nhập thừa, nhập hàng đã qua sử dụng trốn thuế; phát hiện nhiều vụ vận chuyển chứa hàng ngoại, không có chứng từ nhập, bán hàng không lập hoá đơn xuất khẩu, vi phạm chế độ chứng từ hoá đơn sổ sách trốn thuế. Thị trường trong nước xuất hiện nhiều hàng hoá vi phạm nhãn hiệu sản phẩm, không có giấy phép không đăng ký chất lượng, không có giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm... Hàng ngoại thông qua hành vi gian lận thương mại và buôn lậu đang tràn ngập thị trường nội địa Việt Nam, bao gồm đủ loại từ hàng cao cấp đắt tiền cho đến những hàng tiêu dùng bình thường, từ xe hơi, xe máy, ti vi, máy đông lạnh... cho đến rượu, bia, thực phẩm, thuốc lá... Một số ví dụ điển hình: - Mặt hàng giấy in báo, giấy thường thuế suất 30-40% chủ hàng khai báo giấy cao cấp (thuế suất chỉ 10%). - Mặt hàng ôtô: có trọng tải từ 5 đến dưới 10 tấn khi nhập khẩu phải chịu thuế suất 50%, chủ hàng man khai thành xe chuyên dùng đông lạnh, xe có trọng tải trên 10 tấn chỉ chịu mức thuế suất 10-30% v.v... - Một số doanh nghiệp lợi dụng quy chế cho phép không phải nộp thuế nhập khẩu đối với các loại hàng "Nhập nguyên liệu, tái sản xuất sản phẩm" để nhập khẩu hàng gia công xuất khẩu nhưng lại tiêu thụ nội địa. - Lợi dụng chính sách khuyến khích phát triển "nội địa hoá xe máy" để nhập phụ tùng rời, phụ tùng đã đăng ký sản xuất trong nước kèm theo để về lắp ráp. - Nhiều doanh nghiệp còn lợi dụng cơ chế "hàng đổi hàng" giữa ta và lào tạo dựng hồ sơ xuất khẩu đổi hàng giả, vận chuyển trái phép ngoại tệ qua biên giới để buôn lậu hàng hoá mà điển hình là vụ Công ty TNHH Bình Minh (Nghệ An) cấu kết với một số cá nhân, doanh nghiệp ở Hà Nội làm hồ sơ mua bán giả, nhập lậu từ Lào về 357 xe máy Dream trị giá gần 500.000 USD. Thủ đoạn gian lận thương mại ngày càng tinh vi và phức tạp hơn đã làm thất thu ngân sách rất nhiều. Theo đánh giá của chính phủ, thất thu thuế mà gian lận thương mại gây ra là vào khoảng 25% trong tổng số thuế xuất nhập khẩu (theo chỉ thị số 426-TTg ngày 16/8/1994 của thị trường chính phủ về tăng cường công tác Hải quan). Tuy con số 25% đã là rất lớn nhưng so với thực tế của thực trạng gian lận thương mại hiện nay thì nó vẫn chưa thể phản ánh hết được những khoản thất thu thuế mà những đường dây gian lận thương mại ngầm chưa bị chúng ta phát hiện vẫn ngang nhiên đục khoét ngân sách nhà nước. I.2.1.1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới khai báo sai chủng loại hàng hoá, khai tăng giảm trị giá hàng hoá 1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới. Hiện nay tình trạng buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc qua khỏi sự kiểm soát của hải quan (có thể gọi là buôn lậu) đang diễn ra rất phổ biến ở hầu hết các cửa khẩu trên cả nước, số vụ vi phạm không ngừng tăng lên đặc biệt tình trạng buôn lậu, vận chuyển trái phép ma tuý, vũ khí, chất cháy nổ, cổ vật, ngoại tệ, động vật quý hiếm vẫn còn diễn ra trên các tuyến biên giới. Một số số liệu cụ thể: - 1991-1995: Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất thu giữ hàng nghìn cổ vật quy định vận chuyển trái phép ra nước ngoài gồm gốm sứ, tiền cổ, trống đồng... - Tháng 5/1998 lực lượng cảnh sát kinh tế cả nước kiểm tra và bắt giữ 3.3.54 kg động vật hoang dã định buôn bán ra nước ngoài. - Đầu tháng 3/2000 Chi cục kiểm lâm đã cùng với cảnh sát kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phát hiện một ôtô tải chở động vật quý hiếm: 222 kg rùa, 150 kg rắn, 26 kg kỳ đà... 2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá, khai tăng giảm trị giá hàng hoá. Đây là hành vi gian lận phổ biến nhất thường gặp ở Việt Nam hiện nay. - Khai báo sai chủng loại hàng hoá là việc khai báo với cơ quan hải quan mặt hàng này nhưng thực tế lại xuất nhập khẩu mặt hàng khác để tránh những hàng hoá có thuế suất cao hoặc hàng hoá thuộc diện cấm hoặc hàng thuộc danh mục nhà nước quản lý, những mặt hàng hay gian lận là ôtô, xe máy... như những ví dụ trước đã nêu. - Khai tăng giảm trị giá hàng hoá Việc xác định trị giá hàng hoá là một trong những yếu tố quan trọng để tính thuế xuất nhập khẩu. Luật thuế xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay quy định giá tính thuế hàng xuất nhập khẩu để xác định căn cứ theo giá ghi trên hợp đồng và hoá đơn thương mại hợp lệ và phù hợp với các chứng từ hợp lệ khác có liên quan tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn gian lận bằng cách hai bên mua bán thông đồng với nhau ghi giá trên hoá đơn thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế của hàng hoá đó. Đây là hành vi gian lận tinh vi và khó phát hiện nhất hiện nay. I.2.1.2. Hiện tượng lậu thuế, chứng từ giả Trong tất cả các hoạt động gian lận thương mại có lẽ gian lận thương mại qua lợi dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu là loại hình gian lận đặc thù nhất ở Việt Nam bởi vì động cơ chủ yếu của bọn gian lận thương mại là trốn thuế, lậu thuế. Chúng lợi dụng đặc điểm khung thuế suất của ta có nhiều bất hợp lý. Ví dụ một số mặt hàng như ôtô du lịch, xe đạp, rượu bia, hàng điện tử... Có mức thuế suất cao nhưng một số mặt hàng tương tự mang tính chất chuyên dụng thì thuế suất lại rất thấp và bọn gian lận thương mại tìm mọi thủ đoạn để hưởng mức chênh lệch này. Ví dụ: - Xe ôtô du lịch loại 12 chỗ ngồi có thuế suất là 160% nhưng vẫn chiếc xe đó, nếu thay đổi đi một vài chi tiết phụ như. tháo hết ghế để thành xe tải thì thuế suất chỉ còn 60%, như vậy đã giảm được 100% thuế. Lại vẫn chiếc xe đó thêm bớt vài chi tiết khác như tháo bớt ghế, lắp thêm còi, hiệu cứu thương trở thành xe cứu thương thì thuế suất chỉ còn 0%. - Trong kinh doanh nội địa, vấn đề đáng quan tâm và thủ đoạn trốn thuế bằng con đường mua bán, sử dụng hoá đơn đang diễn ra nghiêm trọng. Một số doanh nghiệp mua hoá đơn VAT nhưng không sử dụng, mang bán lại cho doanh nghiệp khác với giá bằng 6% doanh số ghi trên hoá đơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp "đối tác" tạo dựng hồ sơ giả để trốn thuế, xin hoàn thuế. Cạnh đó, tình trạng bán hàng không xuất hoá đơn, ghi hoá đơn với số tiền ở các liên khác nhau, sử dụng hai loại sổ sách kế toán ghi giá bán trên hoá đơn thấp hơn so với giá thực thanh toán diễn ra khá phổ biến (điển hình là mặt hàng xe máy, khoản chênh lệch này lên tới 6-10 triệu đồng/1 chiếc xe bán ra). I.2.2. Những thủ đoạn thực hiện gian lận thương mại Mỗi một loại hình gian lận thương mại có nhiều thủ đoạn gian lận khác nhau cốt để trốn thuế thu lợi bất chính. Tuy nhiên ở đây ta không nhắc lại những thủ đoạn như ở trên đã nói mà ta chỉ đề cập đến một thủ đoạn hết sức nguy hiểm, đang là vấn đề nổi cộm, khó khăn và phức tạp nhất. Đó là sự cấu kết giữa bọn gian lận thương mại và một số những cán bộ Hải quan thoái hoá biến chất. Thực trạng này đang diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay và rất khó phát hiện ra nó. Bọn gian thường chỉ cần thông đồng, móc ngoặc với cán bộ Hải quan, cán bộ giám định kê khai sai từ xe ôtô du lịch 12 chỗ ngồi thành xe cứu thương như ví dụ trên là đã ngang nhiên cướp không của nhà nước 160% thuế suất. Sự cấu kết này là thực sự nguy hiểm bởi các cán bộ Hải quan là cái bình phong núp bóng an toàn nhất cho bọn gian lận thương mại và nếu chẳng may bị phát hiện thì mức độ xử lý cũng "thoáng hơn" "dễ chịu hơn". Như vậy có thể nói gian lận thương mại gắn với tệ tham nhũng và nếu tệ tham nhũng vẫn còn thì gian lận thương mại không thể giảm được. I.2.3. Nguyên nhân Thứ nhất, một số Bộ, ngành, địa phương buông lỏng quản lý đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, cá biệt có nơi cơ quan quản lý Nhà nước cơ quan chức năng đã làm ngơ hoặc tạo điều kiện cho bọn buôn lậu và gian lận thương mại hoạt động. Nhiều công ty kinh doanh xuất nhập khẩu trong đó có cả của công an, quân đội, đơn vị kinh tế, Đảng, đoàn thể do xuất phát từ lợi ích cục bộ dã trực tiếp tham gia hoặc tạo điều kiện cho bọn gian lận thương mại sử dụng làm bình phong núp bóng. Các ngành chức năng chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa có sự phối hợp chặt chẽ, có nơi, có lúc còn chồng chéo lấn sân nhau, thậm chí vô hiêu hoá hoạt động của nhau. Thứ hai, tệ tham nhũng ngày càng nhiều, bọn buôn lậu và gian lận thương mại trong nước và nước ngoài móc nối với các phần tử thoái hoá biến chất trong các lực lượng chống gian lận thương mại để lũng đoạn, vô hiệu hoá hoạt động của các cơ quan này, trong khi đó lãnh đạo cấp trên lại thiếu sự kiểm tra, giám sát cấp dưới, một số trường hợp vi phạm chưa được xử lý nghiêm, vẫn còn hiện tượng cán bộ làm công tác chống gian lận thương mại "bảo kê" cho hoạt động gian lận thương mại. Thứ ba, chính sách thuế xuất nhập khẩu của ta hiện nay bộc lộ nhiều vấn đề bất hợp lý, tạo kẽ hở cho công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát rất dễ bị bọn xấu lợi dụng. II. Thực tiễn đấu tranh chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam II.1. Thực tiễn đấu tranh chống hàng giả ở Việt Nam 1. Những biện pháp chủ yếu hiện nay. Hàng giả không chỉ tác hại đến quyền lợi của người tiêu dùng, đến sức khoẻ tính mạng của nhân dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh đến uy tín của những nhà sản xuất kinh doanh. Bởi vậy công tác đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh tiêu thụ hàng giả phải là nhiệm vụ bức thiết của toàn xã hội. Cũng cần khách quan mà nhận định rằng chống sản xuất và buôn bán hàng giả thực sự là một cuộc chiến cam go, lâu dài và do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, ban ngành chức năng, các doanh nghiệp và người tiêu dùng. a) Các biện pháp đấu tranh chống hàng giả của nhà nước và các cơ quan ban ngành chức năng. * Thấy rõ mức độ nguy hại của loại tội phạm này, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến hàng giả và đặc biệt là những quy định về kiểm tra, xử lý, xử phạt tội làm hàng giả. Cụ thể: - Pháp lệnh về các hành vi phạm tội đầu cơ, buôn lậu, tàng trữ hàng cấm, sản xuất buôn bán hàng giả. Ngày 30-6-1982 (4 hình thức phá rối thị trường). - Điều 167, Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 27/6/1985. - Ngày 28/12/1989, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi bổ sung điều 167 và đã nâng mức hình phạt tới mức tối đa là tử hình. - Nghị định số 140-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 25/4/1991. Về việc kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả. - Thông tư liên bộ số 1254-TT/LB của Uỷ ban khoa học Nhà nước và Bộ thương mại và du lịch: Hướng dẫn thực hiện nghị định số 140-HĐBT. - Nghị định 57/CP của Chính phủ ngày 31/5/1997 quy định xử phạt hành chính về đo lường chất lượng. - Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng được Ban Thường vụ quốc hội thông qua ngày 27/4/1999. - Chỉ thị số 31/1999/CT/TTg về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Qua một loạt các văn bản pháp luật trên ta có thể thấy rõ quan điểm và ý chí quyết tâm ngăn chặn tệ nạn này của Nhà nước ta. * Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an các cấp tập trung kiểm tra, khám phá các đường dây, các ổ nhóm sản xuất buôn bán hàng giả, đặc biệt là giấy tờ, hoá đơn, tem, tiền và các ấn phẩm giả có giá trị như tiền; chủ động, bố trí lực lượng tham gia phối hợp các Bộ, ngành khác. * Bộ khoa học, Công nghệ và môi trường chủ trì cùng với các Bộ, ngành liên quan công bố danh mục hàng hoá Nhà nước quản lý chất lượng, gắn công tác bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với việc quản lý chất lượng hàng hoá. Cụ thể: - Cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng ở trung ương và địa phương: + Tiến hành đăng ký chất lượng và nhãn sản phẩm cho những sản phẩm, hàng hoá theo danh mục Nhà nước công bố. + Tiến hành chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) cho những sản phẩm, hàng hoá trước hết là những sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước bắt buộc chứng nhận. + Thanh tra giám sát chất lượng sản phẩm hàng hoá, phát hiện xử lý các vi phạm về sản xuất buôn bán hàng không đăng ký chất lượng, hàng hoá chất lượng. - Cơ quan Nhà nước về sở hữu công nghiệp: + Tiến hành công nhận việc bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ; * Bộ y tế chủ trì cùng với Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan trong công tác kiểm tra, kiểm soát chống sản xuất và buôn bán hàng giả trong lĩnh vực y tế, dược phẩm, dược liệu, an toàn vệ sinh thực phẩm. * Bộ Nhà nước và phát triển nông thôn chủ trì cùng với Bộ Thuỷ sản, Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan tổ chức kiểm tra chống sản xuất, buôn bán hàng giả trong lĩnh vực nông lâm - ngư nghiệp: nhận bán thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật, cây giống, con giống, thức ăn gia súc, làm đầu mối thu gom các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật giả. * Bộ Văn hoá - Thông tin chủ trì với sự tham gia của Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan tổ chức kiểm tra chống sản xuất, buôn bán các loại ấn phẩm giả và sản phẩm văn hoá khác. Tăng cường thời lượng thông tin cho việc giáo dục nhập luật, phổ biến kiến thức liên quan đến việc phòng, chống hàng giả, đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát khâu in ấn. Vì các loại mẫu mã, bao bì bắt chước kiểu dòng phần lớn đều phải qua khâu in ấn... * Tổng cục Hải quan cùng với Bộ đội biên phòng tăng cường kiểm tra, ngăn chặn việc vận chuyển, buôn bán qua biên giới các loạt hàng giả, ngăn chặn hàng giả hoặc bao bì mẫu mã giả in từ nước ngoài nhập vào. * Ngành thương mại tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm tra phát hiện những trường hợp kẻ gian tuồn hàng giả vào trà trộn trong hàn thật bày bán tại các cửa hàng quốc doanh. * Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc để lại và sử dụng tiền thu được từ hoạt động chống sản xuất và buôn bán hàng giả (tiền phạt, tiền bán tang vật tịch thu được phép lưu thông) cho địa phương và đơn vị để phục vụ cho hoạt động chống sản xuất và buôn bán hàng hoá. * Chủ tịch UBND các cấp có kế hoạch cụ thể chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả, tổ chức tốt phối hợp các lực lượng trong các chiến dịch kiểm tra, truy quét hàng giả trên từng địa bàn. * Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, Hội Luật gia Việt Nam, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các cấp, các tổ chức sở hữu trí tuệ vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phát hiện tố giác, đấu tranh với nạn sản xuất và buôn bán hàng giả. Nói tóm lại, các ngành các địa phương có 4 phương pháp chống hàng giả chủ yếu sau: 1. Lập và triển khai kế hoạch chống hàng giả trong địa bàn mình quản lý. 2. Hướng dẫn người tiêu dùng và các hội quần chúng dưới mọi hình thức về sự nguy hại của tệ sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm tạo nên một phong trào quần chúng thường xuyên chống tệ hàng giả. 3. Tập trung kiểm tra, xử lý các vụ sản xuất, buôn bán hàng giả có tổ chức, có quy mô lớn, vào các mặt hàng quan trọng có liên quan tới điều kiện vệ sinh, an toàn của người tiêu dùng và môi trường. Điều tra, trinh sát, phát hiện nhanh chóng kịp thời phải bố trí bắt quả tang trên đường vận chuyển đi tiêu thụ hoặc đang sản xuất. Phải đưa ra truy tố, xét xử nghiêm khắc và công khai các vụ điển hình về sản xuất, buôn bán hàng giả để giáo dục chung. 4. Tổ chức các hòm thư thu thập tố cáo của người tiêu dùng về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. b) Biện pháp chống hàng giả của các doanh nghiệp. Sự tham gia tích cực của chính các nhà sản xuất kinh doanh là một biện pháp rất cần thiết góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh hàng giả. Thực tiễn khẳng định rằng, chỉ khi nào doanh nghiệp với tư cách là người bị hại, chủ động sử dụng công nghệ hiện đại và hợp tác toàn diện đầy đủ với các cơ quan chức năng thì hàng giả, hàng kém chất lượng mới thực sự bị đẩy lùi. Hiện nay đi đôi với việc tăng cường cải tiến mẫu mã, quy trình công nghệ nâng cao chất lượng hàng hoá hạ giá thành. Các doanh nghiệp luôn chú trọng đầu tư thích đáng cho việc chống hàng giả. Nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã quan tâm đầu tư chiều sâu; có ý thức chủ động chống sản xuất và buôn bán hàng giả bằng nhiều biện pháp như dán tem chống hàng giả, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, cải tiến mẫu mã nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng nhằm giúp họ phân biệt hàng thật - hàng giả, phối hợp chặt chẽ và cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng chống hàng giả. Nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế đã được tổ chức với sự tham gia đông đảo của các quan chức doanh nghiệp, nhà quản lý, nhà khoa học, báo giới trong nước và quốc tế, nhằm trao đổi, cung cấp cho nhau những kinh nghiệm và cùng nhau tìm ra những biện pháp để chông sản xuất và buôn bán hàng giả. VD: Mới đây, trong "Hội chợ hàng tiêu dùng 99" được tổ chức tại Hà Nội, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam đã tổ chức trưng bày gồm 40 loại hàng giả bên cạnh hàng thật cùng loại để người tiêu dùng có thể đối chiếu mà phân biệt được hàng thật hàng giả. VD khác: Xà phòng giặt OMO cải tiến mẫu mã liên tục hay như giầy dép Bitis, nước giải khát Lavie dùng các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là Tivi để giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng thật, hàng giả... c) Biện pháp chống hàng giả của người tiêu dùng Người tiêu dùng kiên quyết đấu tranh và tố cáo kịp thời nếu mua phải hàng giả hoặc phát hiện ra nơi sản xuất, tiêu thụ hàng giả để các cơ quan chức năng xử lý, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá giá cả và các hành vi lừa dối khác của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng theo quy định của pháp luật. Một biện pháp khác để chống hàng giả của người tiêu dùng mà tưởng chừng như hết sức đơn giản nhưng hiệu quả lại rất lớn. Biện pháp hữu hiệu đó là "không ham rẻ". Xuất phát từ thực tế là hàng giả thường rẻ hơn hàng thật do đó khi mua hàng nếu thấy hàng rẻ bất ngờ thì hãy coi chừng kẻo lại mua phải hàng giả. 2. Kết quả đạt được trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Những năm gần đây đặc biệt là sau Nghị định 140 - HĐBT ngày 25/4/1991 được ban hành, các lực lượng cảnh sát kinh tế (CSKT), công an, lực lượng quản lý thị trường (QLTT) đã thu được những kết quả khả quan trong công tác chống hàng giả. - Lực lượng CSKT cả nước: Chỉ tiêu Năm 1995 1996 1997 1998 6 tháng 1999 Số vụ đã khởi tố điều tra 309 256 306 217 264 Số bị can 624 369 437 396 426 Nguồn: Tạp chí TM số 13-1998 và số 18-1999 - Lực lượng QLTT cả nước: + Năm 1996: phát hiện xử lý 961 vụ + Năm 1997: phát hiện xử lý 4500 vụ + Năm 1998: phát hiện xử lý 2000 vụ Còn về phía các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh do đã có ý thức chủ động chống sản xuất và buôn bán hàng giả, quan tâm đầu tư chiều sâu cho nên đã hạn chế được rất nhiều hiện tượng sản xuất kinh doanh hàng giả. Chẳng hạn như việc sản xuất bia chai Hà Nội, Sài Gòn, 333... trước kia chỉ có dán nhãn, đóng nút chai, việc làm quá đơn giản nên bọn làm hàng giả chỉ cần 1 máy dập nút chai thủ công là làm được bia giả. Sau đó ngành sản xuất bia đã cải tiến có giấy kim loại phủ kín nắp và cổ chai, đã hạn chế gần như cơ bản nạn sản xuất bia chai giả. Rồi việc sản xuất thuốc tiêm nước, trước kia sản xuất loại thuốc bổ B12 đựng trong ống thuỷ tinh nhọn hai đầu, bọn làm hàng giả chỉ cần bộ đen khô, mua ống thuỷ tinh là có thể sản xuất ra thuốc bổ B12 từ nước máy và phẩm hồng. Sau đó các xí nghiệp dược phẩm đã cải tiến làm loại ống thắt cổ bồng đòi hỏi phải có thiết bị chuyên dùng mới sản xuất được. Từ đó hiện tượng sản xuất thuốc bổ B12 giả giảm hẳn. Một số mặt hàng có chất lượng cao như bóng điện, phích nước Rạng Đông đồ nhựa, khoá Minh Khai. Do chú ý đầu tư kỹ thuật nên đã hạn chế nhiều tệ nạn sản xuất kinh doanh hàng giả các loại mặt hàng nói trên. Trong công tác chống hàng giả, nhiều doanh nghiệp khẳng định: chống hàng giả là trách nhiệm của chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng đứng trên tuyến đầu nhưng phải được các cơ quan chức năng và người tiêu dùng hậu thuẫn. 3. Những tồn tại trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả Qua hơn 9 năm thực hiện nghị định 140/HĐBT và hơn 6 tháng thực hiện chỉ thị 31/1999/CT/TTg về đấu tranh chống sản xuất buôn bán hàng giả chúng ta đã thu được một số kết quả nhất định nhưng thực tế hàng giả vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Ví dụ: 6 tháng đầu năm 99, bột ngọt AJINOMOTO giả chiếm 90% thị phần, rau cân giả đóng gói chiệu AGAR chiếm 90% thị phần khu vực miền Tây Nam Bộ . Hạn chế nữa là khá đông người tiêu dùng chưa phân biệt được hàng thật hàng giả. Ví dụ: nước khoáng Lavie người tiêu dùng thường nhầm lẫn với các loại nước khoáng giả như: Lavi, Levile, Levu, Laviole, Lavilla và chưa có thói quen khiếu nại khi mua hàng. Một hạn chế cơ bản nữa là trước thực trạng này, giải pháp của các cơ quan chức năng lại vẫn đơn thuần là theo dõi, phát hiện, bắt quả tang mới phạt hành chính và một số vụ lớn đã được đưa ra truy tố nhưng với mức phạt còn nhẹ. 4. Nguyên nhân của những tồn tại trên Nguyên nhân của những tồn tại trên chủ yếu là do pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh còn nhiều thiếu xót và tạo ra những khoảng trống pháp lý cho kẻ xấu lợi dụng và làm cho các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra xử phạt hành chính trong lĩnh vực sản xuất buôn bán hàng giả gặp rất nhiều khó khăn. VD: Từ ngày 31/6/1997 (nghị định 140/HĐBT hết hiệu lực) đến khi CT 31/TTg ra đời thì các cơ quan chức năng phải lấy điều luật hết hiệu lực thi hành (HĐ 140/HĐBT) làm căn cứ pháp lý để điều chỉnh. Khi có nhiều người cùng chịu trách nhiệm làm việc thì dễ dẫn đến hiện tượng mạnh ai nấy làm, dễ làm khó bỏ, chồng chéo "lấn sân" nhau. - Sự chồng chéo trong các văn bản về nhãn sản phẩm Bộ thương mại có quyết định 636/TM/QLCL ngày 26/7/1996 Bộ khoa học - công nghệ và môi trường có quyết định 2576/QĐ-TĐC ngày 28/10/1996. Cùng quy định về nhãn sản phẩm hàng hoá, vậy các cơ sở sản xuất, lực lượng kiểm tra kiểm soát phải tuân theo văn bản nào. - Trong xử phạt vi phạm có 4 nghị định: 92/CP; 93/CP (1993); 46/CP (1996); 57/CP (1997). - Sự chồng chéo nữa mà nhà sản xuất kinh doanh rất e ngại là chồng chéo trong hoạt động thanh tra kiểm tra hàng giả. Mặc dù Điều 7 - Nghị định 140/HĐBT nêu rất rõ rằng một trong 7 cơ quan chức năng chống hàng giả khi nhận được nguồn tin tố cáo thì phải phối hợp với các cơ quan khác đển tiến hành kiểm tra xử lý, xong trên thực tế sự phối hợp cũng chẳng những rất hạn chế mà nhiều khi còn hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác ví dụ do người tiêu dùng và các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp chưa có mối quan hệ chặt chẽ, lực lượng kiểm tra kiểm soát còn mỏng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất là kiến thức về hàng hoá còn yếu, trong thiết bị tối thiểu để kiểm tra, phát hiện hàng giả hầu như chưa có. II.2. Thực trạng đấu tranh chống GLTM ở nước ta. 1. Những giải pháp chủ yếu và kết quả đạt được. Nhận rõ tính chất nghiêm trọng của gian lận thương mại, lãnh đạo ngành hải quan thời gian qua đã tập trung chỉ đạo công tác chống gian lận thương mại bằng các biện pháp cụ thể, thiết thực phù hợp với từng loại hình, từng đối tượng xuất nhập khẩu, với mọi thủ đoạn gian lận thương mại. Ví dụ như: - Dán tem hàng hoá xuất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74547.DOC
Tài liệu liên quan