Đề tài Giải pháp tăng cường vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước

Một thuận lợi cho các DN hiện nay là việc tôn vinh quảng bá thương hiệu đã được các cơ quan chức năng và tổ chức kinh tế xã hội quan tâm. Ví dụ như chương trình xây dựng và phát triển thương hiệu Quốc gia đến năm 2010 đã đươc Thủ Tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 253 ngày 25/11/2003, xây dựng tiềm thức trong các DN luôn hướng về chất lượng sản phẩm và tín nhiệm của DN để nâng cao sức cạnh tranh, gắn kết hơn với hệ thống phân phối,cuốn hút nhà sản xuất, người tiêu dùng. Từ đó xây dựng hình ảnh Việt Nam - quốc gia dồi dào sản phẩm hảo hạng tăng thêm sức hấp dẫn về đất nước và con người Việt Nam, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích du lịch và đầu tư nước ngoài.

- Các cuộc hội thảo xúc tiến thương mại được tổ chức, các hội chợ quốc tế được tổ chức hàng năm ở Việt Nam nhằm quảng bá hình ảnh các DNNN một cách sâu rộng hơn

Một số ví dụ về thương hiệu mạnh của DNNN Việt Nam như:

- Tổng công ty sữa Việt Nam (Vinamilk): được hình thành từ năm 1976, công ty đã lớn mạnh và trở thành DN hàng đầu của ngành CN chế biến sữa, chiếm lĩnh 75% thị phần sữa Việt Nam. Ngoài ra thương hiệu này cũng được biết đến trên thị trường nước ngoài: Mỹ, Canada,Pháp,Đức.

- Tập đoàn Vinaconex cũng đã khẳng định được thương hiệu mạnh.19 năm xây dựng phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao. Thương hiệu Vinaconex đã thực hiện thành công mục tiêu đa doanh, đa dạng hóa sản phẩm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Đến nay Vinaconex đã khẳng định được uy tín và vị thế là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành xây dựng trong nước

- Bốn Ngân hàng thương mại Nhà nước:NH Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, NH Ngoại thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển, NH Công thương Việt Nam cũng là những thương hiệu mạnh trong lĩnh vực NH trong và khu vực Đông Nam Á

 

doc48 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập trong đó 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1960 - 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao. Tính chung cho các DN, mức độ  thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi đó các DN đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu. Con số này ở  Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Đánh giá của Bộ Khoa và & Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ là “loại năng lực yếu nhất” của các DN Việt Nam. Do thiếu vốn đầu tư, nhiều DNNN không đủ khả năng đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, hậu quả là, mức tiêu hao năng lượng, nguyên liệu trên một đơn vị sản phẩm tăng, dẫn đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thấp kém. Vì thiếu vốn nên đa phần máy móc thiết bị mà DNNN đang sử dụng được sản xuất trước những năm 1995 (chiếm 55.3%) và gần 11% máy móc thiết bị đã được DNNN sử dụng từ trước những năm 70 của thế kỷ trước, nhưng đến khi điều tra vẫn còn được sử dụng. Điều này không chỉ cho thấy sự lạc hậu của thiết bị mà còn giải thích phần nào nguyên nhân đầu tư kém hiệu quả của khu vực DNNN. Ngay cả trong những ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn cũng trong tình trạng công nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu. Việt Nam là nước xuất khẩu điều đứng thứ hai thế giới, tuy nhiên đến thời điểm này ngành công nghiệp điều của VN vẫn chưa có thiết bị cơ khí tự động hóa cho công đoạn cắt tách và bóc vỏ mà phải làm thủ công. Chính công đoạn này đã làm tăng giá thành và làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm điều VN trên thị trường quốc tế. Không riêng gì ngành điều mà ở các DN thuộc ngành công nghiệp chủ lực cũng ở hoàn cảnh tương tự. Bởi phần lớn các giá trị máy móc sản xuất chỉ còn 30% giá trị so với ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm so với thực tế: Ngành dệt may được coi là ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực nhưng hiện nay có đến 45% thiết bị máy móc của các DN cần phải đầu tư, nâng cấp và 30-40% cần thay thế. Ngành cơ khí càng tệ hơn. Công nghệ và thiết bị sản xuất đã lạc hâu hơn 40 năm so với các nước trong khu vực và 50 năm so với các nước phát triển. Đồng thời 90% là các thiết bị lẻ, không đồng bộ, thiếu chuyên môn hóa nên không có sản phẩm chất lượng cao. Ngành công nghiệp giấy của VN cũng không sáng sủa hơn, Công ty Giấy Bãi Bằng được đánh giá là đơn vị có trình độ công nghệ tự động hóa cao và hoàn chỉnh nhất Vn hiện nay nhưng một số thiết bị sản xuất đã có “thâm niên” sử dụng trên 20 năm. Công nghệ sản xuất ở nhà máy khá nhất đã bị lạc hậu thì chứng tỏ các nhà máy khác cũng có thiết bị công nghệ hạn chế hơn nhiều Máy móc các doanh nghiệp sử dụng chủ yếu lạc hậu, không đồng bộ, phần lớn nhập ngoại song công tác thẩm định, nghiên cứu lại chưa cẩn trọng, do đó nhiều trường hợp nhập máy móc với giá cao song chất lượng lại không đáp ứng được nhu cầu cần thiết, gây ra ô nhiễm môi trường… Mặc dù thiếu máy móc thiết bị nhưng khi đi nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài về thì hiệu quả sử dụng cũng rất thấp vì đa phần là các công nghệ đã lỗi thời Một số trường hợp công nghệ  lúc mua là loại tiên tiến nhất, nhưng do xác định công suất quá lớn so với khả năng nguyên liệu lúc bấy giờ, cho nên 10 - 15 năm sau vẫn chưa thu hồi được vốn, không có tiền đổi mới công nghệ nên lại trở thành lạc hậu. Thống kê của năm 2006 cho thấy, tỷ lệ máy móc thiết bị nhập khẩu từ các nước tiên tiến có công nghệ nguồn, trừ ngành hàng không là cao nhất, chiếm 98,5% tổng máy móc thiết bị nhập của ngành này, còn tỷ lệ tương ứng của những ngành khác còn thấp như: máy móc thiết bị xây dựng là 56,2%, máy móc thiết bị thông tin liên lạc là 49,8%. Tuy nhiên, qua quá trình CPH đã tạo được cho DNNN có thêm nhiều nguồn vốn để đầu tư mua sắm thiết bị, đồng thời vì mục tiêu lợi nhuận và môi trường cạnh tranh như hiện nay thì đổi mới mua sắm thiết bị là điều kiện tiên quyết để DNNN tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm thì mới có thể thích nghi và tồn tại trong nền kinh tế thị trường đang dần hội nhập sâu và rộng như hiện nay. Một số minh chứng tiêu biểu ở các DNNN đã thực hiện CPH sau: Từ một nhà máy sản xuất gạch xây dựng làm ăn không hiệu quả tại thời điểm cuối thập kỷ 80, đến nay Hạ Long Viglacera đã có 3 nhà máy sản xuất gạch, ngói với công nghệ tiên tiến của Đức, Pháp, Italia, công suất lên đến trên 200 triệu viên/ năm. Hạ Long Viglacera đã đưa ra thị trường hơn 40 loại sản phẩm, mở rộng hệ thống đại lý ở trong nước và nhiều nước trên thế giới như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nam Phi... Trước thực trạng đầu tư vào máy móc thiết bị kém hiệu quả như hiện nay Nhà nước cần có những biện pháp để tránh thiệt hại "kép": vừa tốn ngoại tệ, vừa biến Việt Nam trở thành bãi rác công nghệ của thế giới như đã từng xảy ra đối với mía đường, xi măng lò đứng, nhập khẩu tàu cũ... 3.Thực trạng của hoạt động đầu tư vào hàng tồn trữ trong DNNN Hoạt động đầu tư vào nguyên vật liệu tồn trữ trong các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian gần đây đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn bắt gặp rất nhiều hạn chế. 3.1. Nguyên vật liệu chủ yếu nhập khẩu Theo thống kê thì quy mô hàng hoá nhập khẩu 2006 bằng khoảng 75% GDP, trong đó riêng nguyên liệu nhập khẩu đã bằng khoảng 52-53% GDP. Trong tổng nguồn hàng NK, cơ cấu NK chủ yếu nhóm hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng khoảng 26,3% nhóm hàng tiêu dùng khoảng 7,5% và đặc biệt nhóm nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất chiếm tới 66,2% Một thực trạng đáng buồn là hầu hết các DN Việt Nam nói chung và DNNN nói riêng phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất. Nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản phẩm như: giấy in, giấy viết, phôi thép và thép cán, lốp xe các loại... nhưng hầu như đểu phải nhập khẩu Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá hối đoái... 3.2. Công nghiệp phụ trợ trong nước chưa phát triển Có một thực tế là, hầu hết các ngành công nghiệp lớn ở Việt Nam đang phải dựa chủ yếu vào nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu. Điển hình như ngành Dệt may. Xuất khẩu hàng năm của ngành này lên đến hàng tỷ USD (gần 8 tỷ USD trong năm 2007) nhưng phần lớn số ngoại tệ thu được này phải chi trả nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất của chính ngành này. Một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào là do ngành công nghiệp phụ trợ ở nước ta còn quá nhỏ bé, manh mún. Trình độ công nghệ phục vụ trong ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chỉ mới ở mức trung bình hoặc thấp, lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 10-15 năm, nên chất lượng sản phẩm chưa cao và tất yếu không có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do số lượng doanh nghiệp chuyên về công nghiệp phụ trợ còn rất ít, tỷ lệ giữa các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp chế tạo, lắp ráp còn quá thấp. Công nghiệp phụ trợ yếu do nguồn nhân lực kém Bên cạnh đó, lâu nay hầu hết các doanh nghiệp và cơ quan chức năng cũng chưa nhận thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ. Do đó chưa có sự quan tâm, quy hoạch và đầu tư một cách bài bản, đúng mức của Nhà nước cũng như chính bản thân các doanh nghiệp. 3.3. Chưa lập được kế hoạch tồn trữ hợp lí Nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa có một hệ thống kế hoạch kinh doanh cụ thể, kế hoạch giữa các bộ phận tách rời nhau, chưa có sự phối hợp và thống nhất, kế hoạch bán hàng đưa ra chỉ dựa trên thông tin từ khách hàng và thị trường mà bỏ qua khả năng đáp ứng thực tế trong sản xuất và ngân sách tài chính của doanh nghiệp chưa có khả năng dự đoán chính xác nhu cầu của thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó, vẫn xảy ra hiện tượng hàng tồn trữ bị thiếu hụt hay được dự trữ quá nhiều trong kì sản xuất. Chính điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này thể hiện khá rõ trong các doanh nghiệp dệt may nhập đến 80% nguyên liệu phụ thuộc vào nước ngoài, ngành điện tử cũng chỉ nội địa trên dưới 20% linh kiện, ngành lắp ráp ô tô là 96,5%, công nghiệp xe máy khá phổ biến cũng phải nhập từ 40 đến 60 % linh kiện …Cũng theo số liệu điều tra.29% trong số gần 1000 DNNN vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên,phụ liệu từ nhập khẩu. Do vậy tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp nước ta còn thấp. 4/Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Con người là tài sản quan trọng mà không một máy móc nào có thể thay thế được. Do vậy đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đòi hỏi tất yếu góp vai trò to lớn tạo nên thành bại trong hiệu quả sản xuất kinh doanh cuả DN nói chung cũng như DNNN nói riêng. Theo thống kê số lượng lao động hoạt động sản xuất kinh doanh tại tời điểm 31/12/2006. 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Người (đơn vị :nghìn người) TỔNG SỐ LAO ĐỘNG 3536998 3933226 4657803 5175092 5770671 6237396 6715166 Doanh nghiệp Nhà nước 2088531 2114324 2259858 2264942 2250372 2037660 1899937    Trung ương 1301210 1351478 1444420 1463954 1517861 1432459 1373304 Địa phương 787321 762846 815438 800988 732511 605201 526633 (Theo tổng cục thống kê năm 2007) DNNN hiện đang sử dụng một lực lượng lao động đông đảo nhưng năng suất lao động thấp, hiệu quả hoạt động chưa cao. Trên thị truờng luôn khan hiếm nguồn nhân lực có trình độ kĩ thuật cao, công nhân lành nghề. Phần lớn các nhà quản trị trong DNNN chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế và kinh doanh trong cơ chế thị trường. Do vậy chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển chung. Từ năm 2000 đến năm 2003 số lượng lao động trong khu vực DNNN nhà nước tăng 176411 nghìn người tương ứng với 8,45%. Nhưng đến năm 2004, lượng này bắt đầu giảm, sau 7 năm với số lượng DNNN giảm dẫn tới việc số lượng lao động trong khu vực này cũng giảm 188594 nghìn người ứng với 9.03%. Theo thống kê năm 2006 DNNN chỉ chiếm 2.82% trong tổng số các DN đang hoạt động, nhưng đã chiếm 28,29% tổng số lao động- nguồn nhân lực - nguồn vốn lớn, tài sản quý của quốc gia. Tuy nhiên theo kết quả điều tra của bộ lao động thương binh và xã hội cũng chỉ ra rằng tỷ lệ lao động gián tiếp ở DN nhà nước là 21% so với các DN FDI là 7,8%. Mặt khác, DNNN có tỷ lệ lao động có tay nghề cao nhưng chất lượng lao động thấp. Thời gian qua, số lao động mà các DNNN tuyển dụng giảm đáng kể và ngược lại, tăng cao ở các DN FDI (2% so với 15,6%). Điều này cho thấy, lao động trong các DNNN đang ở tình trạng đông cứng, chưa tham gia thật sự vào thị trường lao động, đang làm cản trở sự phát triển của DN. Trước thềm hội nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam ngoài việc phải đối mặt với những khó khăn về ngành nghề, thương hiệu, tài chính, thị trường, v.v.., còn một nỗi lo canh cánh khác trong cuộc cạnh tranh là làm sao gây dựng được đội quân “tinh nhuệ”. Đó là đội ngũ nhân viên có năng lực, nhiệt tình và cam kết gắn bó lâu dài với DN, những người cùng nghĩ và cùng làm với chủ DN để đạt được mục tiêu kinh doanh của DN . Tuy nhiên để có được và giữ được những người như vậy là một thách thức lớn với dn nói chung và DNNN nói riêng. Thực tế , điều kiện đãi ngộ của các DNNN vẫn chưa thoả đáng không đảm bảo cho người lao động phát huy hết khả năng của mình. Hiện tượng chảy máu chất xám lại xảy ra ngay trong ở trong nước khi nhiều người có năng lực lại bỏ dần DNNN sang làm cho các công ty liên doanh. Lực lượng cán bộ trong các DNNN không được cọ sát, nhanh chóng sa sút năng lực. Đó là chưa kể một bộ phận cán bộ tha hóa, núp bóng DNNN làm ăn phi pháp. Đây là một thực trạng đáng quan tâm đối với các DN ,làm việc kém hiệu quả. Năng suất lao động chưa cao, dẫn đến hiệu quả đầu tư vào nguồn lực trong DN còn thấp Theo đánh giá của các chuyên gia, năm 2007 nguồn cung nhân lực chỉ đáp ứng được 30% so với nguồn cầu tăng 142% và chất lượng nhân lực chưa đáp ứng với yêu cầu thực tế của các DN. Do vậy để đáp ứng yêu cầu sản xuất phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, bên cạnh việc thu hút lao động có trình độ tay nghề cao từ các trường đại học cao đẳng và dạy nghề… DNNN còn tự đào tao bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Nhiều DN đã hình thành quỹ đào tạo nghề như vinaconex, tổng công ty bưu chính viễn thông, tổng công ty than, tổng công ty thép….Tuy nhiên quy mô đào tạo cho hoạt động này chưa lớn và không ổn định trong các năm. Mặc dù nguồn vốn dành cho đào tạo nghề có tăng nhưng còn thấp, chưa tương xứng với chỉ tiêu đào tạo.Định mức chi phí cho đào tạo nghế hiện nay đã rất thấp nhưng mới chỉ cấp trên 65% và đầu tư còn dàn trải, phân tán, hiệu quả thấp Mức lương thấp nhất là các DN nhà nước, trong đó mức lương bình quân của cán bộ quản lý là 3 triệu đồng/tháng; có chuyên môn nghiệp vụ: 1,4 triệu đồng/tháng và trực tiếp sản xuất: 1,1 triệu đồng/tháng. Kết quả khảo sát, điều tra cũng cho thấy mức độ tăng lương ở các DN không tương xứng với tốc độ tăng năng suất lao động và lợi nhuận.Bất hợp lý nhất là khu vực DN nhà nước, năng suất tăng 10%, lợi nhuận tăng 54% nhưng tiền lương tăng chưa đầy 3%.Tiền lương tăng chậm hơn so với mức lợi nhuận và năng suất lao động. So với khu vực FDI, mức tăng lương ở DN nhà nước quá chậm.Đây chính là nguyên nhân kép dẫn đến năng suất lao động ở DN nhà nước tăng chậm hơn khu vực FDI.Tiền lương được trả theo thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động dựa trên năng lực, trình độ tay nghề, chuyên môn của từng người. Vì thế, muốn có đội ngũ nhân lực giỏi, tạo ra năng suất lao động cao thì DN phải có chính sách trả lương và các khoản phúc lợi phù hợp, nhất là DN nhà nước.Hiện nay, các DNNN đang thực hiện chế độ trả lương cho nhân viên, người lao động theo quy định của Chính phủ và đang dần có cơ chế sửa đổi, bổ sung cơ chế trả lương cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.Cụ thể, mức lương tối thiểu vùng I: Đối với doanh nghiệp trong nước vùng 1 là 800.000 đồng/tháng ; vùng II tương tự 740.000 đồng/tháng ; vùng 3 là 690.000 đồng/tháng … 5. Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ Năm 2007 về đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN của các doanh nghiệp, kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ tại 28 tổng công ty 90 - 91, từ nguồn vốn tự có của DN này chiếm tỷ lệ 60% tổng số vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ của các DN toàn quốc. Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu phát triển /đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ là 6%/ 94%. Tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển của các tổng công ty dao động trong khoảng từ 0,05% - 0,1% trên tổng doanh thu (các nước là 5 - 6%). Như vậy, tỷ lệ này còn rất thấp để các tổng công ty 90 - 91 có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.Cũng còn nhiều DN chưa quan tâm đến KHCN, chưa dành khoản tài chính cụ thể nào để đầu tư cho hoạt động này.Kết quả là ở đa số các DNNN, hiệu quả đầu tư cho KHCN còn rất thấp dẫn đến năng suất lao động tăng chậm so với các khu vực khác Với mức đầu tư thấp, không quá ngạc nhiên khi DNNN có CNTB lạc hậu tới hàng chục năm. Thực tế này bắt nguồn từ nhiều lý do trong đó có cơ chế quản lý DNNN hiện nay. Cơ chế này hiện còn gò bó các giám đốc trao cho họ quá ít quyền tự chủ nhất là trong việc quyết định những khoản đầu tư lớn, trong đó có đổi mới CN. Trong khi đó, thủ tục xét duyệt, thẩm định các dự án đầu tư đổi mới CN kéo dài khiến DNNN không mấy hào hứng tham gia, đồng nghĩa với việc họ ít có chiến lược đầu tư dài hạn. Cơ chế hiện nay lấy tình hình lỗ lãi hằng năm của DN làm thước đo hiệu quả khiến họ ngại áp dụng chiến lược đầu tư đổi mới CN, vốn có thể chịu lỗ một thời gian. Mặt khác, cách tuyển và bổ nhiệm giám đốc DNNN hiện chưa bảo đảm tính liên tục trong hoạt động kinh doanh của DN dẫn đến khó có thể có chiến lược dài hạn qua các nhiệm kỳ giám đốc khác nhau. Lợi ích của DN không gắn liền với lợi ích của các giám đốc khiến họ chỉ giữ không để DN bị lỗ mà không tìm cách tối đa hóa lợi nhuận thu được. Cơ chế "an toàn" đã tạo cho nhiều DNNN không có hoặc không cần sự năng động cần thiết, đấy là chưa kể đến việc DNNN hiện vẫn trông chờ nhiều vào bảo hộ của Nhà nước. Cái cảnh DN hội đủ các lý do để phá sản nhưng "chết mà không chôn được" đâu phải là câu chuyện cũ.Khi khối DNNN chưa mặn mà với đổi mới CN, DN tư nhân có nhu cầu nhưng vốn ít thì hiển nhiên nguồn "cầu” về CN hạn chế cũng khó có điều kiện phát triển theo. Đó cũng là một lý do để thị trường công nghệ chậm phát triển như chúng ta vẫn thấy. Nhưng liệu chúng ta có phải “bó tay” trước thực trạng nêu trên? Trừ một số lĩnh vực như Bưu chính viễn thông, hàng không…hầu hết các DNNN có máy móc thiết bị đang dùng trong sản xuất khá lạc hậu, công nghệ hiện đại chưa dùng. Tỷ lệ công nghệ lạc hậu đang còn được sử dụng ở khu vực DNNN tuy còn ít hơn so với các khu vực kinh tế khác nhưng cũng đã chiếm tới 35%, công nghệ hiện đại mới chỉ đạt 11 6. Thực trạng đầu tư vào hoạt động Marketing trong DNNN 6.1. Những hạn chế của việc đầu tư vào hoạt động Marketing của DNNN Mặc dù các doanh nghiệp đã có nhận thức tốt hơn về thương hiệu nhưng họ đều đang đứng trước một bài toán khó khăn là không biết bắt đầu từ đâu để xây dựng thương hiệu. Ngay cả sau khi đã học qua những lớp tập huấn, những giám đốc phụ trách thương hiệu của doanh nghiệp cũng vẫn chưa biết phải làm như thế nào, bắt đầu từ đâu vì họ mới chỉ có được kiến thức lý thuyết. Nhìn từ phía cung dịch vụ, rất khó kiếm được một công ty tư vấn làm tốt về marketing hay xây dựng thương hiệu. - Các DN định giá sản phẩm quá thấp, vì mục tiêu của họ là cạnh tranh bằng giá rẻ, vì sản phẩm của họ không có gì khác biệt, phần lớn là sản phẩm “ăn theo”. Tuy nhiên, khi giá nguyên liệu đầu vào tăng, bắt buộc các doanh nghiệp phải tăng giá bán, và khi đó, họ đã vứt bỏ lợi thế cạnh tranh của mình. - Các DNNN chưa quan tâm tới việc xây dựng thương hiệu trên thị trường nước ngoài Theo kết quả nghiên cứu mới nhất về top 200 DNVN của UNDP thì phần lớn các DNVN được hỏi đều cho rằng tạo dựng thương hiệu ở nước ngoài là việc làm tốn kém và khó khăn. Hầu hết các DNVN thâm nhập thị trường quốc tế thông qua các tập đoàn phân phối toàn cầu dưới thương hiệu của họ. Bài học rõ ràng nhất là công cuộc đầu tư cho ngành dầu khí quốc gia. Việt Nam và Malaysia cùng một xuất phát điểm khi đầu tư cho nền công nghiệp khí từ những năm 1974-1975, nhưng đến nay, Petronas đã được biết đến như một tập đoàn dầu khí quốc tế, có hoạt động kinh doanh với 31 quốc gia khác trên thế giới, có nhiều công trình thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài, trở thành thương hiệu biểu tượng cho Malaysia đối với các quốc gia khác. Còn Petro VN mặc dù cũng đã có những cố gắng nhưng vẫn nhỏ bé và thương hiệu vẫn không vượt ra được ngoài vùng lãnh thổ - Các DNNN còn thờ ơ với việc bảo hộ thương hiệu Thuốc lá Vinataba là 1 ví dụ điển hình trong hạn chế này của các DNNN.Thuốc lá Vinataba bị chiếm dụng thương hiệu tại 12 thị trường. Hàng dệt may, giày dép, kim ngạch xuất khẩu thuộc top đầu, nhưng chủ yếu gia công nước ngoài, nên phải mang thương hiệu của các tập đoàn công ty lớn. Một số nông lâm sản vững vàng vị thế cao trên trường thế giới, song đa phần xuất khẩu qua trung gian nên gần như phải mang thương hiệu nước ngoài hoặc thuần tuý chỉ là thương hiệu nhà phân phối. - Hệ thống kênh phân phối. Các DN của ta trong suy nghĩ vẫn thường coi các đại lý như là những bạn hàng theo kiểu mua đứt bán đoạn, ít khi nghĩ đến chuyện làm ăn lâu dài, chưa thực sự coi bạn hàng như những đối tác của mình. Chúng ta thường nói xây dựng thương hiệu của mình trong tâm trí người tiêu dùng, nhưng lại quên mất là chúng ta cũng cần phải xây dựng thương hiệu trong tâm trí của các bạn hàng - các kênh phân phối, tạo cho họ niềm yêu thích được bán hàng, kích thích và khuyến khích họ vào cuộc cùng với doanh nghiệp.   - Sức cạnh tranh của các thương hiệu còn yếu ngay cả trên thị trường trong nước. Các sản phẩm thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 6% thị phần sản phẩm điện tử nghe nhìn; 48% là các sản phẩm có thương hiệu Nhật Bản và 35% các thương hiệu Hàn Quốc. Đối với sản phẩm điện tử gia dụng, thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 3%; các thương hiệu Nhật chiếm 53%; các thương hiệu Hàn Quốc là 35%.. Với những con số như ở trên, chưa nói đến vấn đề xuất khẩu, ngay cả thị trường trong nước, sản phẩm của DN Việt Nam như đã bị thua trên sân nhà. thực trạng này đặt ra một đòi hỏi cấp thiết đối với các DN là phải xây dựng cho mình những thương hiệu mạnh nếu muốn thành công và giành được vị trí vững chắc trên thương trường. - Các DNNN gặp khó khăn trong vấn đề định giá thương hiệu 6.2.Doanh nghiệp Nhà nước ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng và quảng bá thương hiệu Một thuận lợi cho các DN hiện nay là việc tôn vinh quảng bá thương hiệu đã được các cơ quan chức năng và tổ chức kinh tế xã hội quan tâm. Ví dụ như chương trình xây dựng và phát triển thương hiệu Quốc gia đến năm 2010 đã đươc Thủ Tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 253 ngày 25/11/2003, xây dựng tiềm thức trong các DN luôn hướng về chất lượng sản phẩm và tín nhiệm của DN để nâng cao sức cạnh tranh, gắn kết hơn với hệ thống phân phối,cuốn hút nhà sản xuất, người tiêu dùng. Từ đó xây dựng hình ảnh Việt Nam - quốc gia dồi dào sản phẩm hảo hạng tăng thêm sức hấp dẫn về đất nước và con người Việt Nam, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích du lịch và đầu tư nước ngoài. - Các cuộc hội thảo xúc tiến thương mại được tổ chức, các hội chợ quốc tế được tổ chức hàng năm ở Việt Nam nhằm quảng bá hình ảnh các DNNN một cách sâu rộng hơn Một số ví dụ về thương hiệu mạnh của DNNN Việt Nam như: - Tổng công ty sữa Việt Nam (Vinamilk): được hình thành từ năm 1976, công ty đã lớn mạnh và trở thành DN hàng đầu của ngành CN chế biến sữa, chiếm lĩnh 75% thị phần sữa Việt Nam. Ngoài ra thương hiệu này cũng được biết đến trên thị trường nước ngoài: Mỹ, Canada,Pháp,Đức. - Tập đoàn Vinaconex cũng đã khẳng định được thương hiệu mạnh.19 năm xây dựng phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao. Thương hiệu Vinaconex đã thực hiện thành công mục tiêu đa doanh, đa dạng hóa sản phẩm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Đến nay Vinaconex đã khẳng định được uy tín và vị thế là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành xây dựng trong nước - Bốn Ngân hàng thương mại Nhà nước:NH Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, NH Ngoại thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển, NH Công thương Việt Nam cũng là những thương hiệu mạnh trong lĩnh vực NH trong và khu vực Đông Nam Á 7. Các hoạt động đầu tư khác trong DNNN Hiện nay quy định không hạn chế phạm vi ngành nghề, lĩnh vực và quy mô đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp nên trong thời gian vừa qua nhiều DNNN đã góp vốn đầu tư hoặc mua cổ phần, vốn góp tại nhiều doanh nghiệp khác, phân tán vào nhiều lĩnh vực kể cả không thuộc lĩnh vực ngành nghề chủ yếu. Đáng chú ý, một số tập đoàn, TCT đã dành một lượng vốn khá lớn đầu tư vào ngân hàng, bảo hiểm hoặc mua bán cổ phiếu trên thị trường. - Đầu tư vào thị trường chứng khoán Theo báo cáo của 70 tập đoàn, TCT thì có tới 28 đơn vị hoạt động đầu tư chứng khoán, thành lập công ty chứng khoán, đầu tư vào công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm với giá trị đầu tư là 23.344 tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn chủ sở hữu và 20% tổng số vốn đầu tư ra ngoài. Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí đầu tư 5.780 tỷ đồng, trong đó ngân hàng 1.100 tỷ đồng, công ty chứng khoán 76,5 tỷ đồng, công ty tài chính 4.005 tỷ đồng, công ty bảo hiểm 570 tỷ đồng, quỹ đầu tư 29 tỷ đồng; Tập đoàn công nghiệp Tàu thuỷ Việt nam đầu tư 1.894 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực ngân hàng 344 tỷ đồng, bảo hiểm 1.462 tỷ đồng (Bảo Việt), quỹ đầu tư 88 tỷ đồng... - Đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh khác: ngân hàng, bảo hiểm,.. Bên cạnh việc đầu tư vào TTCK , tình trạng DNNN thành lập quá nhiều công ty con, công ty liên kết hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác hẳn với lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước đây ngày càng phổ biến. Có thể dẫn chứng như: Tổng công ty Thuốc lá; Giấy; Dệt may; Công nghiệp Tàu thuỷ đầu tư vào rượu bia, công nghiệp thực phẩm; Tổng công ty Xây dựng công nghiệp đầu tư vào thuỷ điện, nhiệt điện; Tổng công ty Rượu bia nước giải khát Sài Gòn đầu tư vào thuỷ điện, dầu khí, du lịch … Thành phần cổ đông sáng lập của nhiều NHTM mới thành lập trên thị trường như :NH Hồng Việt, NH Tiên Phong,.. có mặt không ít các Tập đoàn, Tổng Cty lớn như NH Bảo Việt với 40% vốn điều lệ của Bảo Việt tương đương 600 tỷ đồng, Tổng Cty Hàng không góp 150 tỷ vào NH Hồng Việt, Tổng Cty Hóa chất góp 50 tỷ vào Vietstarbank, Tổng Cty lắp máy (Lilama) và Tổng Cty Công nghiệp ô tô là cổ đông chính tại NH Kinh Bắc, Vinashin vừa ngưng góp vốn thành lập NH Thương mại Công nghiệp… Cũng theo Ban Chỉ đạo Đổi mới Doanh nghiệp: Thời gian qua, đã có một số TĐ, TCty nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh ngoài ngành nghề sản xuất chính như chứng khoán, ngân hàng, bất động sản. Đây được xem là những lĩnh vực có nhiều rủi ro và hiện tại, một lượng vốn không nhỏ (lên tới 7.370 tỉ đồng) đang bị chôn vào các lĩnh vực này chưa thể s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp Phân tích tình hình đầu tư của hệ thống Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).doc
Tài liệu liên quan