Đề tài Hoàn thiện công tác kế toán lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu tại công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu

Ta thấy rằng, trong kỳ kế toán không có sổ chi tiết theo dõi riêng giá vốn hàng bán và doanh thu hàng bán trong kỳ cho từng sản phẩm, hàng hóa. Điều này gây khó khăn cho việc lập Bảng tổng hợp giá vốn hàng bán và xác định tổng hợp doanh thu tiêu thụ trong kỳ. Bởi lẽ, vào cuối kỳ, kế toán phải tổng cộng lại toàn bộ giá vốn hàng bán, doanh thu của từng sản phẩm, hàng hóa đã tiêu thụ trong kỳ. Điều này dễ gây nhầm lẫn khi tính toán lại. Hơn nữa, việc phản ánh các Tài khoản đối ứng với TK" 632 (155, 156, 157), và TK" 511 (111, 131 ) cũng không thuận lợi nếu như trong kỳ có quá nhiều các nghiệp vụ xuất khẩu.

 

doc110 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác kế toán lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu tại công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vải), Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Giang, Quảng Ninh và một số vùng lân cận Hà Nội 1.3.2. Phân tích một số chỉ tiêu phát triển qua những năm gần đây. Sau 3 năm hoạt động trong giai đoạn chiến lược 2001-2005 ta có bảng kết quả hoạt động kinh doanh của công ty như sau: (Bảng số 1) Qua số liệu quyết toán hàng năm, phân tích thấy rằng, tốc độ sản xuất kinh doanh từ năm 2001 đến năm 2003 có tăng trưởng đáng kể. Các chỉ tiêu đều tăng khá mạnh. So với năm 2000, bình quân 3 năm doanh thu tăng 132%, trong đó sản xuất kinh doanh nội bộ tăng 127%, kinh doanh xuất khẩu tăng 145%. Trước đây, doanh số chỉ đạt tối đa là 37 tỷ đồng (năm 1997)thì đến nay bình quân đã đạt trên 100 tỷ đồng/năm, cao nhất là 180.279 triệu đồng (năm 2002). Với việc tăng doanh thu, các khoản nộp Ngân sách cũng tăng, trên dưới 2 tỷ đồng nộp vào Ngân sách. Vốn kinh doanh của công ty cũng ổn định, đảm bảo ổn định ở mức 7 tỷ. Với mục đích nâng cao đời sống nhân viên trong công ty, công ty cũng bước đầu đạt được thành công, với việc dần nâng cao mức sống của người lao động, thu nhập bình quân của công nhân viên đạt 784.000 đồng, mặc dù còn chưa cao song phần nào giải quyết được những khó khăn cho người lao động. Như vậy ta thấy rằng: Doanh nghiệp đã đạt được những mục tiêu tăng trưởng, tuy nhiên doanh thu bán hàng còn thất thường, không ổn định.Trong 2 năm gần đây xu hướng xuất khẩu giảm hơn so với bán hàng nội địa (VD:năm 2002 bán hàng nội địa là 108418 triệu đồng, trong khi đó xuất khẩu chỉ đạt 71861 triệu đồng). Điều này cho thấy tình hình xuất khẩu của doanh nghiệp gặp khó khăn. Năm 2003, xuất khẩu giảm đi chỉ bằng 1/2 năm 2002.Và nói chung tình hình của doanh nghiệp trong năm 2003 đã giảm. Điều này cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận và các khoản nộp Ngân sách Nhà nước của công ty Bảng số 1: Bảng một số chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh TStt Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Bìnhquân 3 năm Sonăm 2000 1 Tổng doanh thu -Nội địa -Xuất khẩu Triệu đồng 10674 112013 180279 131657 141316 132% 65641 50006 108418 87130 81851 127% 41143 62007 71861 44527 59465 145% 2 Tổng LN trước thuế ” 78 106 152 82 133 171% 3 Các khoản thuế nộp NSNN -Thuế VAT -Thuế XNK -Thuế TNDN -Khoản nộp khác ” 1095 2287 2875 2011 2391 218% ” 428 367 738 608 571 133% ” 631 1540 1654 958 1384 219% ” 25 34 49 26 36 144% ” 11 346 434 419 399 4 Số lao động bq Người 209 254 271 285 270 129% 5 TNBQ 1lao động Ngàn đồng 435 592 848 912 784 180% 6 Vốn kinh doanh Triệu đồng 7352 7352 7352 8152 7619 104% (Trích báo cáo quyết toán trong năm 2000, 2001,2002,2003) 1.4. Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh. Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu với nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh thương mại được tổ chức thành 8 xí nghiệp thành viên và 3 chi nhánh hoạt động chủ yếu tại Miền Bắc nước ta. Mỗi xí nghiệp, mỗi chi nhánh lại được tổ chức thành các phòng ban, các bộ phận chức năng phù hợp với quy mô của mỗi đơn vị. Tại các xí nghiệp, dưới các phòng ban có thể còn được tổ chức thành các phân xưởng sản xuất, chế biến và gia công. Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty mở 3 chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Giang và Quảng Ninh (Móng Cái). Các chi nhánh này có nhiệm vụ là kinh doanh thương mại cả trong và ngoài nước, với nhiều ngành nghề đa dạng. Sản phẩm kinh doanh chủ yếu của các chi nhánh là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiêu dùng và một số linh kiện phục vụ sản xuất. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ sau khi được thu gom từ các cơ sở địa phương sẽ tiến hành bán sang thị trường nước ngoài. Ngược lại,đối với hàng tiêu dùng và một số linh kiện phục vụ sản xuất, các chi nhánh nhập từ bên ngoài và tiêu thụ tại thị trượng nội địa. Sự kết hợp của hai hoạt động xuất, nhập khẩu đem lại thị trường rộng lớn cho sản phẩm của công ty. Đối với 8 xí nghiệp thành viên, công ty thực hiện triệt để cơ chế khoán nội bộ, tạo môi trường hoạt động tự do trong khuôn khổ đối với các đơn vị. Cơ chế này tạo ra quyền chủ động, năng động, sáng tạo trong việc tổ chức kinh doanh của các xí nghiệp. Tại các xí nghiệp đồng thời diễn ra 2 hoạt động: vừa sản xuất vừa kinh doanh thương mại. Chính vì vậy mà với cơ chế khoán nội bộ, các xí nghiệp phải chủ động trong việc thu mua nguyên vật liệu đầu vào đáp ứng cho hoạt động sản xuất, đồng thời cũng phải chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, chủ động kí kết và thực hiện các hợp đồng kinh doanh nội địa. Sự chủ động này thể hiện tính năng động, sáng tạo của mỗi đơn vị thành viên. Riêng đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu, các xí nghiệp phải trình lên ban giám đốc phương án kinh doanh đã được lập. Sau khi xem xét, phê duyệt, công ty sẽ tạo điều kiện cho xí nghiệp thực hiện tốt nhất các hợp đồng này. Để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị , công ty giao hoặc tạm giao cho các đơn vị động (chủ yếu bằng tiền). Sau khi nhận vốn, các đơn vị phải có trách nhiệm bảo quản và có biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả, đồng thời chịu trách nhiệm bồi hoàn trước Giám đốc công ty nếu có thất thoát. Trong trường hợp cần thiết khi công ty yêu cầu huy động hoặc thu hồi thì đơn vị phải có trách nhiệm thu hồi kịp thời. Các đơn vị cũng có thể huy động vốn từ bên ngoài để phục vụ sản xuất kinh doanh, và phải chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc và trước pháp luật về việc huy động này. Sau khi huy động huy động vốn, các đơn vị mua sắm các thiết bị cần thiết phục vụ sản xuất kinh doanh. Hàng năm , công ty có kế hoạch giao cho các đơn vị cơ sở với các chỉ tiêu về doanh thu, về bảo toàn và phát triển vốn, về nghĩa vụ với Nhà nước ,về việc làm và thu nhập của người lao động. Trên cơ sở các chỉ tiêu công ty giao cho, các xí nghiệp tiến hành lên phương án sản xuất kinh doanh, tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh , hoàn thành kế hoạch công ty giao theo quy định và quy chế quản lý của công ty, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. 1.5. Đặc điểm bộ máy quản lý của công ty. Bộ máy quản lý là toàn bộ những người lãnh đạo điều hành hoạt động của công ty. Đây là bộ phận đầu não, là bộ phận quyết định sự thành hay bại của bất kì doanh nghiệp nào. Công ty có phát triển lớn mạnh hay không, tuỳ thuộc vào trình độ, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn và tính liêm khiết của mỗi thành viên trong bộ máy của công ty. Căn cứ vào mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến tham mưu. Bao gồm: - Giám đốc công ty: theo quyết định bổ nhiệm của Bộ Thương Mại, Giám đốc công ty là người đứng đầu bộ máy quản lý, có quyền hành cao nhất trong công ty, là người chỉ đạo trực tuyến các phòng, ban, chi nhánh, xí nghiệp trực thuộc công ty, là người phối hợp các phòng, ban, chi nhánh, xí nghiệp hoạt động theo một bộ máy thống nhất, đồng thời phải có trách nhiệm báo cáo và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trước Bộ Thương Mại và trước pháp luật. - Phó Giám đốc: công ty có một Phó Giám đốc có nhiệm vụ quản lý nội chính của công ty, phối hợp với Giám đốc điều hành hoạt động của công ty, đồng thời kiêm giữ chức chủ tịch Công Đoàn bảo vệ quyền lợi của nhân viên. - Trưởng, phó các phòng chức năng: Phòng Tổ chức hành chính, phòng kế hoạch –kinh doanh xuất nhập khẩu (gọi tắt là phòng KD-XNK) và phòng Kế toán Tài chính bên cạnh nhiệm vụ chính là quản lý, điều hành, hướng dẫn nghiệp vụ cho phòng mình, cho các đơn vị thành viên, còn có chức năng tham mưu cho Giám đốc về các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình. - Giám đốc chi nhánh, Giám đốc xí nghiệp: Đây là những người đứng đầu mỗi chi nhánh, mỗi xí nghiệp, có quyền điều hành cao nhất và quyết định các vấn đề liên quan trong phạm vi đơn vị mình phụ trách, đồng thời chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc công ty, có nhiệm vụ báo cáo và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình trước Giám đốc công ty. Mối quan hệ giữa các đơn vị trong công ty như sau: - Giữa các phòng chức năng với Giám đốc và Phó giám đốc là mối quan hệ tham mưu, giúp việc, là sự tuân thủ, chấp hành nhiệm vụ được giao. - Giữa Giám đốc và các phòng ban, xí nghiệp: là mối quan hệ chỉ đạo trực tuyến. - Giữa các phòng chức năng với nhau: là mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ trong công việc. - Giữa các phòng chức năng và các đơn vị trực thuộc: là mối quan hệ quản lý và hướng dẫn các nghiệp vụ chuyên môn. Ta có thể khái quát mô hình bộ máy tổ chức quản lý của công ty theo sơ đồ như sau: (Phụ lục) 1.6. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán của công. Bộ máy kế toán của công ty là tập hợp đồng bộ các lao động kế toán để đảm bảo thực hiện khối lượng công tác kế toán phần hành với đầy đủ các chức năng thông tin và kiểm tra tất cả các mặt hoạt động kinh tế của đơn vị. Phù hợp với hình thức tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh; phù hợp với địa bàn kinh doanh rộng, quy mô lớn, ngành nghề kinh doanh đa dạng , bộ máy kế toán được tổ chức theo mô hình phân tán 2 cấp. Theo hình thức tổ chức kế toán phân tán, tổ chức bộ máy phân thành: - Cấp công ty(phòng KT_TC). - Cấp đơn vị cơ sở ( Kế toán phòng KH-KDXNK, phòng vật tư tổng hợp, các chi nhánh, xí nghiệp). Trong đó kế toán cấp công ty và kế toán cấp cơ sở đều có sổ sách kế toán riêng và bộ máy nhân sự riêng. Phòng KT-TC (kế toán cấp công ty) là nơi thực hiện khâu tổng hợp số liệu báo cáo của các cấp cơ sở, lập báo cáo tài chính cho cơ quan tổ chức quản lý; chịu trách nhiệm cuối cùng về toàn bộ hoạt động của đơn vị cơ sở trước Nhà nước, các bạn hàng, nhà cung cấp, các bên đầu tư, cho vay. Phòng KT-TC có các nhiệm vụ sau: - Theo dõi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên công ty. - Theo dõi chặt chẽ các hợp đồng vay vốn của công ty, theo đó các đơn vị là các xí nghiệp, chi nhánh, phòng KH-KD, phòng kinh doanh vật tư tổng hợp muốn huy động vốn từ Ngân Hàng phải làm phương án trình giám đốc và kế toán trưởng phê duyệt. Công ty sẽ trực tiếp vay vốn Ngân Hàng và phân phối lại cho các đơn vị cơ sở. - Trực tiếp theo dõi các khoản công nợ với nhà cung cấp, với khách hàng thanh toán trực tiếp qua tài khoản của công ty. - Trực tiếp thực hiện các khoản nộp Ngân sách Nhà nước sau khi thu lại của các đơn vị thành viên. - Theo dõi tình hình biến động, tình hình sử dụng Tài sản cố định của toàn công ty. Với nhiệm vụ đó, công việc tại phòng KT-TC được phân công như sau: - Trưởng phòng(kế toán trưởng) : kế toán trưởng công ty là người đứng đầu bộ máy kế toán, điều hành chung mọi hoạt động trong phòng; chịu trách nhiệm trực tiếp trước Giám đốc về mọi hoạt động thuộc lĩnh vực tài chính, kế toán của toàn công ty; có chức năng tham mưu cho Giám đốc về việc tổ chức bộ máy kế toán, tổ chức hệ thống sổ sách kế toán và thực hiện công tác hạch toán kế toán từ văn phòng công ty xuống các đơn vị thành viên. Ngoài ra, kế toán trưởng còn kiêm hạch toán Tài sản cố định của công ty. - Phó phòng: là người hỗ trợ công việc cho trưởng phòng; đồng thời, đảm nhiệm phần hành thanh toán và tổng hợp số liệu kế toán, tài chính từ báo cáo của các đơn vị cơ sở thành viên và của phòng cuối mỗi quý. - 01 kế toàn đảm nhiệm phần hành vật tư và chi tiết công nợ. - 01 kế toán đảm nhiệm phần hành kế toán thuế. - 01 kế toán đảm nhiệm phần hành kế toán Ngân hàng. - 01 thủ quỹ Các đơn vị trực thuộc quan hệ với nhau theo nguyên tắc hạch toán kinh tế nội bộ . Bộ phận kế toán có thể chỉ gồm một nhân viên kế toán, có thể gồm một trưởng phòng kế toán và các kế toán viên. Các bộ phận này có trách nhiệm theo dõi, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị cơ sở từ khâu tập hợp và phân loại chứng từ ban đầu , ghi chép vào các sổ có liên quan đến lập báo cáo theo quy định nội bộ nộp lên phòng Kế toán –Tài chính vào cuối quý. Tại các xí nghiệp, với chức năng chính là sản xuất, gia công, chế biến, bộ phận kế toán sẽ được chủ động tổ chức đảm nhiệm hạch toán cụ thể, chi tiết các phần hành có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất như: - Phần hành hàng tồn kho(nguyên liệu, thành phẩm, công cụ dung cụ). - Phần hành tiền lương và chi phí nhân viên. - Phần hành chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. - Phần hành tài sản cố định thuộc vốn tự có của đơn vị, ngoài ra đối với tài sản do công ty giao quyền sử dụng, các đơn vị phải có trách nhiệm theo dõi và báo cáo tình hình sử dụng lên công ty. Tại phòng KH-KD và phòng kinh doanh vật tư tổng hợp là những phòng hoạt động có doanh thu, nhân viên kế toán được phân cấp theo dõi, hạch toán các nghiệp vụ mua hàng, bán hàng, tập hợp các chi phí phát sinh trong quá trình thu mua hàng hoặc xuất khẩu hàng, tập hợp chi phí quản lý, phản ánh giá vốn, doanh thu và xác định kết quả kinh doanh trong kỳ. Riêng đối với các nghiệp vụ gửi tiền, rút tiền khỏi tài khoản của công ty tại Ngân hàng, các nghiệp vụ vay vốn tín dụng thì nhất thiết phải thông qua phòng KT-TC, do kế toán tiền mặt trực tiếp theo dõi. Nguyên tắc nằy nhằm đảm bảo tính thống nhất và chặt chẽ trong quản lý tài chính của công ty. Đối với các chi nhánh, do hoạt động khác địa bàn nên được hạch toán độc lập mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong phạm vi chi nhánh và hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính , tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ phải nộp với cơ quan thuế và cơ quan chức năng khác. Cuối quý, các bộ phận kế toán cơ sở phải nộp về phòng KT-TC báo cáo quyết toán sản xuất kinh doanh với 5 loại bắt buộc sau: - Bảng báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. - Báo cáo công nợ. - Báo cáo tổng hợp chữ T. - Bảng cân đối tài khoản. - Biên bản kiểm kê hàng tồn kho. Trên cơ sở đó, phòng KT-TC tổng hợp số liệu và lập báo cáo quyết toán toàn công ty. Ngoài ra, hàng tháng, các xí nghiệp, phòng KD-KH, phòng vật tư tổng hợp phải lập bảng kê khai thuế GTGT của hàng hoá , dịch vụ mua vào và hàng hoá, dịch vụ bán ra; nộp các khoản phí quản lý, các khoản BHXH, BHYT của đơn vị mình lên công ty, từ đó phòng KT-TC sẽ lập báo cáo quyết toán và ngân sách Nhà nước. Bộ phận kế toán tại chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh Bộ phận kế toán tại phòng kinh doanh vật tư tổng hợp Nhân Viên 1 Thủ quỹ Bộ phận kế toán tại phòng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu Kế toán phó (Phó phòng TC-KT) Nhân Viên 3 Bộ phận kế toán tại XN Bộ phận kế toán tại chi nhánh Hà Giang Kế toán trưởng (trưởng phòng KT-TC) Nhân Viên 2 Bộ phận kế toán tại chi nhánh Móng Cái – Quảng Ninh Sơ đồ 16: Bộ máy kế toán tại công ty 1.7. Hệ thống chứng từ và tài khoản sử dụng. Công tác kế toán của công ty được thực hiện trê cơ sở pháp lý là Quyết định số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01 tháng 11 năm 1995 và các văn bản hướng dẫn chế độ hạch toán kế toán có liên quan do Bộ Tài chính ban hành. 1.7.1.Hệ thống tài khoản Trên cơ sở pháp lý đó và với phương pháp Kê khai thường xuyên được áp dụng, hệ thống tài khoản mà doanh nghiệp sử dụng bao gồm các tài khoản sau:(Phụ lục). Trong những năm qua, mặc dù kinh doanh có lãi, song do trước đây công ty làm ăn thua lỗ, nên hầu hết các Tài khoản mà nguồn hình thành từ Lợi nhuận sau thuế (TK’421) không được trích lập theo quy định( TK’431, TK’416, TK’415). Do không tham gia buôn bán trái phiếu hay tham gia góp vôn liên doanh nên công ty cũng không sử dụng các Tài khoản phản ánh các nghiệp vụ liên quan. Là đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, nên công ty thường xuyên có hợp động kí quỹ ngắn hạn, do vậy công ty có sử dụng TK’144 (không sử dụng TK’244). Để đảm bảo sử dụng TK, hạch toán chính xác, nhân viên kế toán của công ty cũng luôn được cập nhật các chuẩn mực mới. Cụ thể là công ty đã tiến hành xử lý chênh lệch tỷ giá theo Chuẩn mực mới, Chỉ sử dụng TK’413 vào sử lý chênh lệch tỷ giá cuối kì. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh doanh của công ty, nên một số Tài khoản công ty không sử dụng, như TK’242, TK’3357. Mặc dù doanh nghiệp áp dụng phương pháp KKTX để hạch toán, song công ty vẫn sử dụng TK’611 để phản ánh quá trình xuất, nhập hàng tồn kho. Điều này là sai với Chuẩn mực kế toán Việt Nam. Như vậy công ty đã sử dụng khá đầy đủ các Tài khoản do Nhà nước ban hành, việc sử dụng các Tài khoản cấp 2, 3 được doanh nghiệp sử dụng linh hoạt, tuỳ thuộc vào yêu cầu công việc và yêu cầu quản lý. Tuy nhiên việc áp dụng một số TK còn chưa chính xác, đòi hỏi doanh nghiệp cần có sự điều chỉnh. 1.7.2. Hệ thống chứng từ kế toán sử dụng trong công ty. Để thực hiện đầy đủ các thông tin cần thiết cho việc ghi sổ kế toán phù hợp với điều kiện của đơn vị, công ty đã sử dụng hệ thống chứng từ như sau:(Phụ lục). Hệ thống chứng từ này doanh nghiệp sử dụng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh xảy ra tại cả công ty lẫn các đơn vị cơ sở. Sau khi đã được kiểm tra, phân loại theo các phần hành, kế toán viên tiến hành ghi chép các nghiệp vụ từ chứng từ lên sổ sách kế toán. Khi báo cáo quyết toán năm được duyệt, chứng từ được chuyển vào lưu trữ, và được huỷ sau một thời gian quy định riêng cho từng loại chứng từ. Tại mỗi đơn vị, chứng từ sẽ được Ban lãnh đạo tại các đơn vị phê duyệt theo trách nhiệm của mỗi người, không cần thông qua Giám đốc, Kế toán trưởng của trên công ty(trừ các hoạt động liên quan đến vay vốn Ngân hàng). Cuối tháng, chứng từ sẽ được tập hợp và chuyển về công ty, Ví dụ như Bảng kê thuế GTGT có kèm theo hoá đơn GTGT... 1.8. Hệ thống sổ và báo cáo kế toán sử dụng trong doanh nghiệp. Công ty lựa chọn hình thức ghi sổ là hình thức Nhật ký- chứng từ kế toán để ghi chép các nghiệp vụ. Đối với các đơn vị thành viên , sổ sách được tổ chức để vừa đáp ứng yêu cầu phản ánh các hoạt động sản xuất kinh doanh tại đơn vị mình, vừa đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ cho phòng KT-TC. Sau khi các đơn vị trực thuộc nộp báo cáo quyết toán sản xuất kinh doanh theo quy định nội bộ, phòng KT-TC có trách nhiệm tổng hợp số liệu, lập và nộp báo cáo theo quy định. - Báo cáo quý : sau 15 ngày sau quý - Báo cáo năm : sau 30 ngày sau khi hết quý 4 Niên độ kế toán của công ty là 1 năm tính từ ngày 01/01 đến ngày 31/12. Hệ thống báo cáo của doanh nghiệp bao gồm : - Bảng cân đối kế toán - Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. -Thuyết minh báo cáo tài chính. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. - Báo cáo hoạt động nhập khẩu hàng hoá. - Báo cáo hoạt động xuất khẩu hàng hoá ............ Trong đó, hàng quý công ty phải nộp 2 báo cáo là Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Riêng Thuyết minh báo cáo tài chính công ty phải nộp vào cuối năm và báo cáo lưu chuyển tiền tệ bắt đầu được thực hiện, ghi chép và báo cáo bắt đầu từ năm 2004. 1.9. Đặc điểm chính sách kế toán một số nghiệp vụ cơ bản. - Phương pháp hạch toán hàng tồn kho: Doanh nghiệp sử dụng phương pháp Kê khai thường xuyên. - Phương pháp tính giá xuất kho: theo giá thực tế đích danh. - Tỷ giá hối đoái: tỷ giá thực tế - Hạch toán chi tiết: doanh nghiệp áp dụng phương pháp thẻ song song để hạch toán chi tiết hàng hàng hoá, thành phẩm. 2. Thực trạng kế toán lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu tại công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu 2.1.Thực trạng kế toán tạo nguồn hàng xuất khẩu tại công ty sản xuất bao bì hàng xuất khẩu 2.1.1.Các phương thức tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đối với bất kì công ty nào, để có thể sản xuất hay kinh doanh thương mại luôn quan tâm tới vấn đề tạo nguồn. Là đơn vị kinh doanh xuất khẩu các sản phẩm gỗ, nông , lâm, thuỷ hải sản và dược liệu, nguồn hàng để xuất khẩu của công ty được thu mua từ rất nhiều nguồn: trong và ngoài nước. Các đơn vị trong công ty chủ động tìm kiếm nguồn hàng phục vụ cho hoạt động của mình. Nguồn hàng của công ty được mô tả như sau: Lập phương án kinh doanh Thu gom hàng từ các cơ sở địa phương hoặc kí hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp khác. Nhập mua hàng từ nước ngoài Mua nguyên vật liệu Thuê ngoài gia công chế biến Các xí nghiệp tự sản xuất Nhập kho hoặc xuất bán thẳng Như vậy có thể thấy sản phẩm của công ty được hình thành từ 4 nguồn : - Thu gom từ các cơ sở địa phương và các doanh nghiệp trong nước: đây là hình thức áp dụng đối với hàng nông, lâm, thuỷ hải sản. VD: Sứa ướp muối, cá Hố ướp đá, gạo...Trong trường hợp này, các đợn vị tự tìm hiểu về mối hàng tại các cơ sở địa phương và các đơn vị đã sơ chế hàng. Mặt hàng này doanh nghiệp mua có thể nhập kho hoặc xuất bán thẳng. - Nhập khẩu từ nước ngoài: các mặt hàng này chủ yếu là dược phẩm, đó là bột Hoàng Liên thô (hay bột Hoàng Đằng). Đây là dược liệu mà trong nước chưa có, và công ty thu mua từ Campuchia. Đối với hàng này, công ty xuất khẩu theo hình thức “tạm nhập tái xuất”, hàng hoá không được nhập kho mà xuất bán thẳng ra nước ngoài. - Hàng doanh nghiệp tự sản xuất: đó là hàng trang trí nội thất (giường, tủ, khung cửa...), đó là các sản phẩm được sản xuất từ gỗ. Sau khi nhận được đơn đặt hàng, hoặc chủ động tạo sản phẩm mới, doanh nghiệp tiến hành mua nguyên vật liệu và tự lập phương án kinh doanh sản xuất sản phẩm. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào chủ yếu được thu mua từ các nguồn : + Công ty nhập khẩu gỗ từ Lào, cụ thể là Xí nghiệp thương mại phát triển xuất nhập khẩu sở Thương mại du lịch tỉnh Xiểng Khoảng Lào: gỗ thông, gỗ Giáng Hương, gỗ Lim. Trước đây công ty có thể nhập khẩu gỗ tròn từ Lào, nhưng theo Luật mới của Lào, công ty không được nhập gỗ tròn, mà phải xẻ ngay tại Lào rồi mới đem về nước. Ngoài ra công ty còn nhập khẩu gỗ trong và gỗ hộp tại Inđonêxia. + Tại thị trường trong nước, công ty mua hàng qua các khâu trung gian như: quân khu 4 Bộ Quốc phòng, công ty thương mại tổng hợp Quảng Bình, công ty xuất nhập khẩu Thạch Hãng Quảng Trị với các loại gỗ như: gỗ Pơmu, gỗ Samu, gỗ Dầu.... - Thuê ngoài gia công chế biến: cũng đối với các sản phẩm được chế biến từ gỗ, công ty tiến hành thuê ngoài gia công chế biến, rồi nhập kho. Sau đó được bán sang thị trường nước ngoài. VD: Ván sàn gỗ Samu, tượng.... 2.1.2. Kế toán tạo nguồn hàng xuất khẩu tại công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu. 2.1.2.1. Chứng từ sử dụng. Do hàng xuất khẩu của công ty được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên việc lựa chọn và sử dụng chứng từ của công ty rất đa dạng: - Trong trường hợp thu mua hàng nông lâm, thuỷ hải sản từ các cơ sở địa phương, từ các đơn vị khác: sau khi kiểm nhận hàng, bộ phận kinh doanh sẽ lập Phiếu kê mua hàng. Phiếu kê mua hàng được lập thành 3 liên: 1 liên lưu tại quyển, 1 liên giao cho người bán, và 1 liên dùng để luân chuyển trong công ty. - Trong trường hợp công ty mua hàng với các doanh nghiệp khác: chứng từ sử dụng là Hợp đồng kinh tế, Hoá đơn GTGT, hoặc hoá đơn bán hàng do nhà cung cấp giao. - Trong trường hợp công ty tự sản xuất: chứng từ sử dụng ngoài các chứng từ tập hợp chi phí, tại các xí nghiệp sử dụng Phiếu nhập kho. - Trong trường hợp thuê ngoài gia công chế biến: sau khi giao nguyên vật liệu cho các đơn vị thuê ngoài, chứng từ sử dụng là Phiếu xuất kho. Sau khi hết hạn gia công, bộ phận kinh doanh sau khi nhận hàng, kiểm kê hàng, sẽ lập Hoá đơn GTGT. - Trong trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu từ nước ngoài: chứng từ sử dụng là Hợp đồng kinh tế, Hoá đơn thương mại, tờ khai hải quan hàng xuất khẩu, bộ chứng từ thanh toán. - Khi nhập kho hàng hoá, thành phẩm, kế toán sử dụng Phiếu nhập kho. - Khi thanh toán tiền hàng cho nhà cung cấp, kế toán sử dụng Phiếu chi (nếu thanh toán bằng tiền mặt), sử dụng uỷ nhiệm chi, giấy báo Nợ của ngân hàng (nếu thanh toán bằng chuyển khoản). 2.1.2.2.Hạch toán quá trình tổ chức nguồn hàng. Để hạch toán quá trình nhập, xuất hàng hoá, doanh nghiệp sử dụng TK’611 để hạch toán. Bảng kê hàng nhập kho Bảng lưu chuyển nhập xuất tồn Bảng tổng hợp chữ T Bảng cân đối số phát sinh Báo cáo Chứng từ thanh toán Bảng kê chi quỹ tiền mặt Bảng kê công nợ với nhà cung cấp Bảng kê công nợ với công ty Chứng từ mua hàng Phiếu nhập kho Thẻ kho(do thủ kho lập) Thẻ kho( do kế toán lập) Tài khoản phụ 611 Trình tự hạch toán như sau: (sơ đồ 17 ) Sơ đồ số 17: Hạch toán quá trình tạo nguồn hàng Các báo cáo: Báo cáo bán ra, Xuất khẩu trực tiếp, Báo cáo Xuất nhập khẩu. Để chứng minh cho quá trình hạch toán tạo nguồn hàng xuất khẩu, ta xét một số nghiệp vụ sau: ˜ Nghiệp vụ Nhập kho lô hàng cá Hố ướp đá. Để chuẩn bị xuất bán hàng cho công ty Phát triển sản nghiệp Khang Hưng, chi nhánh Đông Hưng, Trung Quốc theo Hợp đồng mua bán số 78 ngày 06/11/2003. Ngày 12/2/2004, công ty nhập mua 4500 kg cá Hố ướp đá của Ông Trần Hoàng Sơn, trú tại Hải Phòng. Tổng giá thanh toán là 128.250.000đ. Công ty thanh toán ngay tiền cho người bán. Kế toán phản ánh như sau: * Hạch toán ban đầu: -Ngày 12/2 công ty tiến hành thu mua cá Hố ướp đá. Do đây là hàng thuỷ sản được thu mua của người nông dan, nên nhân viên thu mua lập Phiếu kê mua hàng. Hàng không chịu thuế GTGT. - Cùng trong ngày, hàng được chuyển về kho công ty. Tai kho,thủ kho tiến hành kiểm nghiệm hàng. Hàng được kiểm nghiệm với số lượng đúng bằng 4.500 kg. - Kế toán phòng KH-KD lập Phiếu nhập kho sau khi hàng được kiểm nghiệm và nhập kho. Phiếu nhập kho được lập thành 2 liên: 1 liên lưu tại quyển, 1 liên dùng để luân chuyển và ghi sổ. Ta có thể khái quát sơ đồ hạch toán như sau: Nghiệp vụ nhập kho Cán bộ mua hàng Lập PKMua hàng Thủ kho Nhập kho Kế toán P. KH- KD Lập phiếu NK Phụ trách CƯ Ký PNK Thủ kho Kiểm nhận hàng Kế toán HTK Ghi sổ BQ, LT Sơ đồ số 18: Trình tự luân chuyển chứng từ nhập Cá Hố ướp đá Biểu 1 Phiếu kê mua hàng Ngày 12 tháng 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3094.doc
Tài liệu liên quan