Đề tài Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam: Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện

MỤC LỤC

 

A. LỜI MỞ ĐẦU . 3

B. NỘI DUNG .4

I. KQC về Ngân hàng Thương mại và Thị Trường chứng khoán 4

1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán 4

1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán 4

1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán 5

2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán 6

2.1 Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. 6

2.1.1 Trên thị trường sơ cấp (primary market): 6

2.1.2 Trên thị trường thứ cấp (secondary market): 7

2.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. 9

2.2.1 Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần. 9

2.2.2 Ngân hàng giúp các Công ty phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sơ cấp. 9

2.2.3 Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp. 10

2.2.4 Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng. Dịch vụ này được thực hiện theo hai cách. 10

2.2.5 Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán. 11

2.2.6 Công tác thanh toán bù trừ 12

2.2.7 Tư vấn về phát hành và mua bán chứng khoán 13

3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của thi trường chứng khoán 20

1. Trên thị trường sơ cấp 20

1.1. Vai trò phát hành 20

1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp 21

1.3. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành 21

2. Trên Thị trường thứ cấp 21

2.1. Kinh doanh trái phiếu 21

2.2. Sản phẩm phái sinh 22

2.3. Cho vay chứng khoán 22

II/ Hoạt động cua NHTM trên thi trường chứng khoán ở Việt Nam 22

1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 22

1.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 23

1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 26

2. Sự tham gia của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán 29

2.1. Ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ thông qua các các công ty chứng khoán của mình 30

2.2. Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là chủ thể phát hành chứng khoán 36

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán 38

III. Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện 41

1. Đối với Nhà nước và các Cơ quan quản lý thị trường 41

2. Các giải pháp đối với các Ngân hàng thương mại 45

C. KẾT LUẬN 48

 

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc52 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6285 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam: Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung. - Sản phẩm phái sinh: Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường. Cho vay chứng khoán: Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường, mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi vay hoặc nhận thế chấp. 3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của thi trường chứng khoán Với khoảng thời gian hình thành và hoạt động còn non trẻ song TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống NHTM bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa. Sau đây, nhóm em có tìm hiểu về vai trò của các NHTM trên thị trường chứng khoán. Từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia của các NHTM vào TTCK. 1. Trên thị trường sơ cấp 1.1. Vai trò phát hành Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại thương (NHNT) đã chứng tỏ mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng quy mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế. 1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua. 1.3. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành. Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu quả qúa trình phân phối trái phiếu Chính phủ. 2. Trên Thị trường thứ cấp Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ sau: 2.1. Kinh doanh trái phiếu Có thể thấy rõ rằng hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung. 2.2. Sản phẩm phái sinh Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường. 2.3. Cho vay chứng khoán Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường, mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi vay hoặc nhận thế chấp. Từ đó ta thấy rằng: NHTM có vai trò rất lớn trong việc phát triển thị trường chứng khoán; (i) Vai trò của Ngân hàng thương mại trong việc tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán, (ii) vai trò trung gian chứng khoán, (iii) vai trò điều chỉnh cung cầu chứng khoán trên thị trường chứng khoán, (iv) vai trò trong việc cung cấp thông tin trên thị trường chứng khoán, (v) vai trò về định chế quản lý thị trường chứng khoán. II/ Hoạt động cua NHTM trên thi trường chứng khoán ở Việt Nam 1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết.Với hệ thống chỉ số này, các nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát hơn. Chỉ số Việt Nam – Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày sốc 28/7/2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động. 1.1.1 Giai đoạn 2000 – 2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường chứng khoán Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái không phát triển. Ngày 8/3/2005, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49%, cho thấy rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước khởi sắc mới. Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của người dân. 1.1.2 Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam. Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006. Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây là những mức tăng rất ấn tượng của các con số trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 1.1.3 Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ. Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007Tính đến ngày 2đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức được tăng cường. Ngày 08/12/2007, Sở giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên. 1.1.4 Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, Thị trường chứng khoán Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh. Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã cổ phần rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các nhà đầu tư. Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các Doanh nghiệp quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước trong các Doanh nghiệp đã cổ phần hóa, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường chứng khoán có nguy cơ thừa hàng. 1.1.5 Giai đoạn thị trường chứng khoán hiện nay Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009. Chỉ số Vn-Index từ đầu năm đến nay hạ 22%, mức hạ kém nhất so với các thị trường châu Á khác. Những thông tin về lợi nhuận của các công ty không mấy tích cực. Tăng trưởng doanh số khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận hoạt động chỉ tăng 8%. Thua lỗ ở các khoản đầu tư địa ốc và chứng khoán đẩy lợi nhuận ròng giảm 25%. Trong số 329 công ty niêm yết, 23 công ty thua lỗ, trong đó có cả một số công ty trước đây từng được nhà đầu tư nước ngoài hất sức ưa chuộng như Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE)… Tuy nhiên cũng có một số công ty công bố lợi nhuận ấn tượng, đây là những công ty có hoạt động kinh doanh đi theo hướng thế mạnh và không đầu tư vào thị trường bất động sản và ngân hàng.Một số nhà đầu tư mạo hiểm có thể tiếp tục tham gia vào thị trường với mục tiêu dài hạn, họ có thể mua một số cổ phiếu của các công ty tốt. Tuy nhiên theo một số đánh giá của HSBC thị trường chứng khoán Việt Nam năm nay sẽ vẫn khó khăn. Suốt 2 tháng đầu năm 2009, thị trường chứng khoán luôn trong tình trạng ảm đạm. Cảnh vắng lặng tại sàn giao dịch cho thấy thị trường chứng khoán đã không còn sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong thời điểm này. Bởi trong suốt năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục chuỗi ngày suy giảm với mức độ ngày càng trầm trọng hơn. Nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường, các ngân hàng bán cổ phiếu giải chấp… tất cả những yếu tố này đã làm thị trường giảm. 1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay Sau gần 10 năm đưa vào hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán có thể thấy rằng hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường và tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, phù hợp với luật pháp, thong lệ quốc tế, tạo nền tảng cho thị trường chứng khoán Việt Nam khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực; tăng cường tính công khai, minh bạch cho thị trường và nâng cao khả năng quản lý giám sát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước. Quy mô trị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung gian và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm giảm mạnh mức vốn hóa thị trường. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, công tác cổ phần hó doanh nghiệp nhà nước đã được huy động vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh việc sắp xếp khi vực doanh nghiệp nhà nước theo tiến trình cải cách kinh tế của Chính phủ và huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Thực tế, việc gắn kết công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với công tác tạo hang cho thị trường chứng khoán là nhân tố chủ dạo quyết định thành công trong việc tạo ra một nguồn hang phong phú, góp phần thúc đẩy tăng cường quy mô của thị trường. Hoạt động phát hành của các công ty đại chúng còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu qủ sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên thị trường chứng khoán để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh gây ra rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm. Hoạt động phát hành thương phiếu cổ phiếu và cơ chế phát hành trái phiếu còn nhiều bất cập, công tác kế hoạch hóa phát hành trái phiếu chưa tốt, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường trái phiếu cổ phiếu đúng nghĩa để đảm bảo thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp; thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm. Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu khởi sắc kể từ năm 2006 đến nay và đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai Sở giao dịch chứng khoán và bốn chứng chi quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 ngàn tỷ đồng tương đương với gần 38% GDP 2009 (nguồn của Ủy ban Chứng khoán Việt Nam). Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính thanh khoản của thị trường. Đồng thời với sự mở rộng của các thị trường chính thức, có sự quản lý với số lượng ngày càng lớn các tổ chức đăng ký niêm yết, đăng ký giao dịch là sự thu hẹp của thị tường tự do (thị trường OTC). Mặc dù còn nhiều loại cổ phiếu giao dịch trên thị trường OTC, chủ yếu từ các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, tuy nhiên, tính thanh khoản của thị trường này trong năm 2009 sụt giảm rõ rệt. Sự kém thanh khoản của thị trường này, cùng một số vụ bê bối trong hoạt động giao dịch vô hình chung đã dần thu hẹp thị trường OTC. Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt nhưng thị trường giao dịch cổ phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản đặc biệt khi thị trường có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó hàng hóa trên thị trường niêm yết trên thị trường chứng khoán chưa đa dạng, chất lượng chưa cao chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư và phòng ngừa rủi ro của nhà đầu tư. Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn tất giao dịch…), tính minh bạch của thị trừong chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng đầu tư. Số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán ngày càng đông đảo cùng và với việc nhận thức và sự tham gia của cộng đồng vào thị trường chứng hoán ngày càng được nâng cao. Số lượng nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, trong nước và ngoài nước đã gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, hệ thống nhà đầu tư của chúng ta chưa đa dạng, không đảm bảo sự tăng trưởng một cách bền vững. Hệ thống nhà đầu tư tổ chức chưa phát triển làm hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán mà đặc biệt là thị trường cổ phiếu, trái phiếu. Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triêne mạnh mẽ về quy mô và năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải khắp các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công chúng đầu tư tiếp cận dễ dàng với thị trường chứng khoán. Số lượng người hành nghề tăng nhanh, phù hợp với sự phát triển của các Công ty chứng khoán. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho thị trường chứng khoán tăng quá nhanh, với năng lực và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và không tương xứng với hiệu quả hoạt động chung của thị trường. Công tác quản lý Nhà nước và điều hành thị trường chứng khoán được thực hiện tương đối linh hoạt, bảo đảm thị trường chứng khoán vận hành an toàn và phát triển ổn định. Hoạt động quản lý và giám sát thị trường chứng khoán với trọng tâm lấy việc bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư là nòng cốt; các chính sách quản lý thị trường chứng khoán đã thể hiện mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch, từng bứoc á dụng các thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn mực về kế toán và kiểm toán quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tê các Ủy ban chứng khoán (IOSCO). Tuy đạt đựoc những thành tựu nhất định trong việc quản lý, vận hành và giám sát thị trường, công tác quản lý và điều hành thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫ còn một số tồn tại và hạn chế nhất định như: công tác ban hành các văn bản pháp luật, các chính sách điều hành thị trường chưa linh hoạt, còn bị động và chậm so với yêu cầu thực tiễn phát triển của thị trường chứng khoán; công tác quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi còn nhiều bất cập. 2. Sự tham gia của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, cả với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Người ta thường cho rằng, khi thị trường chứng khoán có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống Ngân hàng thương mại bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào thị trường chứng khoán sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì thị trường chứng khoán còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa. Với khoảng 10 năm hình thành và hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã tăng từ 237,23 lên 307,5, tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu chiếm 10,4%, trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9%. Tính đến tháng hết tháng 11-2009, đã có 430 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được niêm yết. Tổng giá trị vốn hóa thị trường lên tới hơn 669 nghìn tỷ đồng (39 tỷ USD), tương đương 55% GDP của năm 2008. Mức vốn hóa này tăng gần gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2008. Năm 2009 cũng đánh dấu sự lên sàn của hàng loạt doanh nghiệp (trong đó có nhiều ngân hàng thương mại) lớn như Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank và Vietinbank... Sự góp mặt của các “đại gia” này đồng nghĩa với việc nguồn cung trên thị trường ngày càng đa dạng hơn. Trong đó, Vietcombank giao dịch 112,3 triệu cổ phiếu, là doanh nghiệp có vốn hóa lớn nhất thị trường, với trên 56.000 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần "quán quân" trước đó là ACB (28.000 tỷ đồng). Trong khi đó, Bảo Việt (BVH) niêm yết toàn bộ 573 triệu cổ phiếu và Vietinbank có 121,2 triệu cổ phiếu. Các “đại gia” là các ngân hàng thương mại này đều chào sàn thành công, đáp ứng được mong đợi của nhà đầu tư. Giá cổ phiếu các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng nhờ vậy đã tăng trong một thời gian khá dài và trở thành những cổ phiếu "nóng" trên thị trường. 2.1. Ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ thông qua các các công ty chứng khoán của mình Ngân hàng tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán trên các lĩnh vực như: hoạt động môi giới, hoạt động tự doanh, hoạt động tư vấn đầu tư và hoạt động tài chính khác, hoạt động quản lí danh mục đầu tư, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán… Hoạt động phân phối, bảo lãnh phát hành chứng khoán: Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành. Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Các công ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại đều đăng ký thực hiện nghiệp vụ này và là nghiệp vụ quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay. Để thu hút người đầu tư, các công ty chứng khoán đã đầu tư khá tốt cơ sở vật chất cho hoạt động môi giới như xây dựng hệ thống sàn giao dịch rộng rãi với đầy đủ các thiết bị công bố thông tin như bảng giao dịch điện tử, bảng công bố thông tin, xây dựng website để giúp người đầu tư tiếp cận thông tin mọi lúc mọi nơi Ngoài ra, các công ty chứng khoán này đã thực hiện một số chính sách nhằm thu hút người đầu tư đến với công ty, như cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí, đa dạng các hình thức nhận lệnh giao dịch (qua điện thoại, fax ..), áp dụng chính sách thu phí linh hoạt theo hướng khuyến khích giao dịch (giảm phí môi giới cho khách hàng có giá trị giao dịch lớn theo từng lệnh hoặc theo cộng dồn định kỳ theo khoảng thời gian ), kết hợp với các ngân hàng thương mại cung cấp thêm một số dịch vụ phụ trợ cho khách hàng (cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán). Nhờ đó, số lượng người đầu tư đến mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán và giá trị giao dịch chứng khoán trong thời gian qua đã không ngừng tăng lên. Có thể nói, đây là nghiệp vụ được các công ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại thực hiện tốt nhất trong giai đoạn đầu khi thị trường đi vào hoạt động, các công ty chứng khoán này đã thể hiện được vai trò trung gian trên thị trường chứng khoán, kết nối giữa người đầu tư có vốn với các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển. Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi có quy định sẽ hạn chế các ngân hàng bảo lãnh hoặc mua bán trái phiếu doanh nghiệp, trong khi hiện nay các ngân hàng đang là thành viên tích cực nhất của thị trường. Bên cạnh đó với quy mô vốn như hiện nay, chỉ có các ngân hàng thương mại mới có khả năng bảo lãnh các đợt phát hành trái phiếu lớn với giá trị hàng nghìn tỷ đồng. Quy định của dự thảo vô hình chung loại bỏ thành viên có khả năng nhất của thị trường đứng ra bảo lãnh phát hành trái phiếu. Với trình độ phát triển của của thị trường Việt Nam và đặc biệt khi xét đến mục tiêu tăng vốn của các ngân hàng thương mại trong thời gian tới để có thể có được những ngân hàng với quy mô vốn tương đương như các ngân hàng trong khu vực thì việc các ngân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPháp luật về hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan