Đề tài Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21

Khi hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt nam ở giai đoạn đầu, các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như chiếc cầu nối lôi cuốn các công ty nước ngoài đến Việt nam, tạo điều kiện để các chủ đầu tư trong nước và nước ngoài nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Có thể nói những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống các khuyến khích tác động đến nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài. Đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hội đầu tư trên thế giới, sự lựa chọn của các nhà đầu tư là phải trên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lợi và rui ro. Cạnh tranh thu hút FDI cũng là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến, vận động đầu tư. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế , từ nay đến những năm đầu của thế kỷ XXI vai trò của hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ rất quan trọng. Hiện nay, hệ thống xúc tiến đầu tư còn manh mún, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất. Đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư thiếu về thiết vị, yếu kém về trình độ, năng lực. Phần lớn họ mới chỉ đảm bảo được chức năng tư vấn môi giới còn tư vấn tác nghiệp rất ít và yếu.

 

doc27 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Tỷ trọng sản phẩm trong tổng GDP của khu vực đầu tư nước ngoài cũng ngày một tăng. Năm 1993 là 5,6%, năm 1994 là 7,5%; năm 1995 là 10% và đến năm 1996 là 13%. Tuy nhiên đến sau năm 1996, tình hình thu hút FDI có xu hướng chững lại. Nếu nhìn vào con số thống kê, số vốn đăng ký của cả năm 1996 là 9212 triệu USD tăng 39% so với năm 1995 thì có lẽ tình hình vẫn khả quan. Tuy vậy, những ai quan tâm đến tình hình đầu tư đều nhận thấy rằng, nếu không có hai dự án xây dựng khu đô thị mới với tổng vốn đầu tư trên 3 tỉ USD được cấp vào những ngày cuối năm thì tổng vốn FDI năm 1996 sẽ chỉ còn gần 6 tỉ USD, thấp hơn tổng vốn FDI năm 1995. Đến năm 1997 thì tình hình rõ ràng hơn, tổng vốn đăng ký chỉ còn 4462 triệu USD, nếu kể cả số vốn tăng thêm 1095 triệu USD của 143 dự án điều chỉnh thì cả năm số vốn đăng ký là 5,5 tỉ USD, chỉ bằng khoảng 64% số vốn FDI đăng ký năm 1996 mặc dù số dự án bằng 91%. Bước sang năm 1998 do tiếp tục bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực kéo daì nên đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bị giảm xút mạnh. Tuy vậy phải nhờ các chính sách phù hợp, tập trung sử lý những vướng mắc kịp thời nên năm 1998 vẫn có thêm 260 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn là 4827 triệu USD. Năm 1999 số dự án là 280 song tổng số vốn chỉ đạt 2000 triệu USD. Như vậy trong giai đoạn 1996-1999 số dự án( trừ 1999) được cấp giấy phép liên tục giảm, tổng số vốn đầu tư cũng có chiều hướng giảm theo. 2.Về cơ cấu vốn đầu tư: Đây là một vấn đề có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn FDI, nó có tác dụng to lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của chúng ta. Theo số liệu thống kê, cơ cấu vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua đã có bước tiến bộ rõ rệt. Tính đến tháng 8-1993, ngành công nghiệp khai thác ( chủ yếu là dầu khí) và khách sạn, du lịch thu hút tới 40,9% tổng số vốn đầu tư, thì năm 1998 số vốn đầu tư vào các ngành này chỉ còn 18,2%. Số vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất và xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng gia tăng. Tính đến năm 1998 đã có đến 21,236 tỉ USD đầu tư vào khu vực này, chiếm 2/3 tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam. Nếu tính suốt cả thời kỳ 1988-1997 ngành công nghiệp có 1977 dự án với số vốn đăng ký là 11546,3 triệu USD, thứ hai là ngành khách sạn, du lịch co 189 dự án với số vốn đăng ký là 3880,5 triệu USD; thứ ba là ngành giao thông-bưu điện có 120 dự án với số vốn là 2785,9 triệu USD; thứ tư là ngành nông-lâm nghiệp-thuỷ sản có 316 dự án với số vốn là 1527,3 triệu USD. Cơ cấu này được thể hiện ở bảng sau: (Đơn vị vốn đầu tư: triệu USD) STT Ngành Tính đến tháng 8-1993 Tính đến năm 1998 số dự án tổng số vốn Tỉ lệ % vốn số dự án tổng số vốn Tỉ lệ % vốn 1. Công nghiệp chế biến 285 2328 39.6 1291 13008 40,5 2. Công nghiệp khai thác 25 1124 19.1 79 2184 6.8 3. Xây dựng 14 16 0.3 259 8228 25,6 4. Khách sạn và du lịch 86 1276 21.8 161 3650 11,4 5. Giao thông và bưu điện 34 456 7.8 102 1465 4,6 6. Nông-lâm nghiệp 81 239 4.1 54 316 1,0 7. Ngư nghiệp 32 90 1.5 47 206 0,6 8. Các nghành khác 68 336 5.8 327 3045 9.5 Tổng cộng 625 5865 100 2320 32102 100 (Nguồn:Bộ Kế hoạch vàĐầu tư) Nếu như thời kỳ đầu các ngành sản xuất chỉ chiếm từ 50-60% tổng số vốn đầu tư thì năm 1996 con số đó đã lên tới 80%. Vốn đầu tư tăng mạnh vào các ngành công nghiêp thực phẩm, năm 1996 tăng 154% so với năm 1995; Ngành giao thông và bưu điện tăng 89%; xây dựng và sản xuất vật liệu công nghiệp tăng 63% trong cùng thời kỳ. Điều đáng chú ý là trong thời gian qua đã có một số dự án đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Ngược lại so với năm 1995, năm 1996 FDI trong lĩnh vực khách sạn giảm đi 53%, văn phòng cho thuê giảm 70% và tài chính ngân hàng giảm 44%. Mức giảm còn mạnh hơn vào 1997 và 1998. Sự phân phối lại nguồn vốn đầu tư trong công nghiệp chứng tỏ các nhà đầu tư nước ngoài đã ngày càng tin tưởng vào tiến trình đổi mới ở Việt Nam, không chỉ đầu tư vào những ngành thu hồi vốn nhanh mà họ còn yên tâm đầu tư vào các dự án phát triển dài hạn. Có được kết quả này là nhờ vào một phần quan trọng trong việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Tuy nhiên cũng dễ nhận thấy là số vốn FDI đầu tư vào các ngành nông-lâm-ngư nghiệp còn quá ít. Đến năm 1998, mới có 1629 triệu USD chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số vốn FDI mặc dù khu vực này có rất nhiều tiềm năng để phát triển như khai thác để chế biến nông lâm thuỷ sản. Điều này cho thấy trong những năm tới khu vực này cần tập trung thu hút nguồn FDI nhiều hơn nữa để có thể tận dụng tốt hơn các nguồn lực cho phát triển. Cơ cấu vốn đầu tư cho vùng lãnh thổ cũng đã từng bước phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế. Những năm đầu, các nguồn vốn đầu tư tập trung nhiều vào các tỉnh phía nam. Như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu... Thì hiện nay nguồn FDI đã có sự phân bổ tương đối đồng đều giữa các vùng, tập trung chủ yếu tại các khu vực kinh tế trọng điểm như Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh ở miền Bắc; Đà Nẵng-Thừa Thiên Huế-Quảng Ngãi, ở miền Trung; Thành phố Hồ Chí Minh-Đồng Nai, Vũng Tàu,Bình Dương ở miền Nam, từ đó làm hạt nhân phát triển cho các khu vực vệ tinh 3.Về đối tác đầu tư. Hiện nay đã có trên 800 công ty và tập đoàn thuộc hơn 60 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào ViệtNam với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các tập đoàn, các công ty đa quốc gia có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ như: Sony, Toyota, Honda, Sanyo của Nhật Bản. Deawoo, Goldstar, Samsung của Hàn Quốc, Motorola, Ford của Mỹ; Chingpon, Vedan của Đài Loan... Bên cạnh đó cũng có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam. Điều này cũng thực sự cần thiết vì các doanh nghiệp này thường rất năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thị trường; hoạt động rất có hiệu quả, từ đó sẽ là cơ sở cho các tập đoàn, các công ty lớn nhìn nhận đúng hơn môi trường đầu tư, kích thích họ an tâm đầu tư nhiều hơn nữa vào Việt Nam. Tính đến hết tháng 12 – 1997, theo số liệu thống kê của bộ Kế hoạch và đầu tư, các nước và vùng lãnh thổ có số vốn đầu tư lớn vào Việt Nam được thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Các nước và vùng lãnh thổ đứng đầu về FDI ở Việt Nam Nước và vùng lãnh thổ Số dự án tỉ trọng (%) Tổng vốn đầu tư(triệu USD) Tỉtrọng (%) Singapore 181 9.4 6447 20 Đài Loan 309 16 4268 13,3 Hồng Kông 184 9,5 3734 11,6 Nhật Bản 213 11 3500 11,4 Hàn Quốc 191 9,9 3154 9,8 Pháp 96 5.0 1465 4,6 Malaysia 59 3.1 1370 4,3 Hoa Kỳ 70 3.6 1230 3,8 Thái Lan 78 4.0 1109 3,4 BV.Island 55 2.9 1089 3,2 Tổng 1436 74.4 27366 85,4 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) Trong những năm đầu, các nước như Anh, Pháp, Australia, Hà Lan . .. là những nước đi tiên phong trong việc đầu tư ở Việt Nam. Tuy vậy vị thế của họ tại Việt Nam ngày càng suy giảm khi có sự tham gia rất mạnh mẽ của các nước và vùng lãnh thổ thuộc vành đai Châu á-Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông á, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông( Đông Bắc á) và Singapore, Malaysia, Thái Lan( Đông Nam á). Hiện nay 5 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là các nước và vùng lãnh thổ vào khu vực này. Tuy nhiên từ tháng 7-1997 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, tốc độ triển khai các dự án cũng như số vốn đầu tư vào Việt Nam của các nước và khu vực này nhìn chung đều có xu hướng chậm lại và ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế. Thực trạng này đặt ra một bài toán đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn nữa trong việc tao ra môi trường đầu tư hấp dẫn, không chỉ ở khu vực Châu á mà còn ở các khu vực khác như Tây âu và Bắc Mĩ, các khu vực có tiềm lực lớn về tài chính và công nghệ. Điều đáng chú ý là trong năm 1998 vốn đầu tư của các nhà đầu tư Châu âu và Bắc Mĩ đã chiếm 60% tổng vốn FDI tại Việt Nam. Sự chuyển dịch này có ý nghĩa lớn ở chỗ bù đắp sự thiếu hụt nguồn đầu tư từ các nước Châu á. II. một số nguyên nhân-xu thế Năm 1997 so với năm 1996 số dự án được cấp giấy phép hoạt động tăng chút ít, nhưng số vốn đăng kí chỉ bằng 52%. Điều đáng quan tâm là trong năm 1997 số dự án giải thể nhiều hơn các dự án đã được cấp giấy. Sang năm 1998 và 1999, FDI tiếp tục giảm. Có nhiều cách giải thích tình trạng này, song chung quy có mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất: Sư thay đổi chính sách đầu tư thông qua việc sửa đổi nhiều lần luật đầu tư mà lần sửa đổi căn bản nhất vào năm 1996 đã làm cho các nhà đầu tư e ngại và chờ đợi. Theo họ việc thay đổi luật đầu tư có mặt khuyến khích các nhà đầu tư nhưng cũng có các điều khoản thắt chặt hơn điều kiện đầu tư. Hơn nữa, việc sửa đổi nhiều lần cũng thể hiện sự thiếu ổn định về chính sách và pháp luật. Thứ hai: Môi trường đầu tư tại Việt Nam chứa đựng nhiều rủi ro, việc thực hiện các quy định có tính chất pháp lý còn tuỳ tiện và sử lý các vấn đề phát sinh rất chậm chạp, thêm vào đó mỗi địa phương, mỗi cấp lại sử lý theo một cách riêng. Thứ ba: Các lĩnh vực đầu tư được coi là hấp dẫn nhất ở Việt Nam như: Rượu, bia, khách sạn, văn phòng cho thuê, lắp ráp ôtô, xe máy và thiết bị điện tử dân dụng... nói chung đã bão hoà. Thứ tư: So với các nước trong khu vực thì giá thuê nhà, thuê đất, giá dịch vụ,... ở Việt Nam còn quá đắt, chưa kể các nhà đầu tư còn phải đóng góp nhiều loại thuế và lệ phí. Thứ năm: Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nên các nhà đầu tư không đầu tư các dự án mới hoặc phải đình hoãn các dự án đang đầu tư dở dang. Nói chung, diễn biến về tình hình FDI tại Việt Nam còn phức tạp. Đòi hỏi phải nhận thức rõ và có những giải pháp hữu hiệu trước mắt cũng như lâu dài để đẩy nhanh tốc độ huy động FDI trong thời gian tới. III. Khó khăn và thách thức. Thị trường đầu tư tại Việt Nam là thị trường mới nổi lên. thời gian hoạt động chưa phải là nhiều, nhưng đã bộc lộ nhiều khó khăn và thách thức lớn. Muốn củng cố để cho thị trường ổn định lâu dài, thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài cần nhìn thẳng vào những khó khăn, thách thức đã và đang sảy ra để từ đó có các giải pháp thích hợp về vấn đề này. 1.Sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI giữa các nước và các khu vực. Kể từ 1995, kinh tế Mỹ, Tây âu và Nhật Bản bắt đầu phục hồi sau một thời gian suy thoái, tình hình đó thúc đẩy các nhà đầu tư trên thế giới dùng70 % tổng vốn FDI đầu tư cho những nước công nghiệp phát triển( Tổng FDI của cả thế giới gần 300 ti USD). Phần vốn còn lại là các nước đang phát triển phân chia và cạnh tranh với nhau. Do đó mức độ cạnh tranh thu hút FDI càng trở nên gay gắt, nhất là khu vực Châu á. ở đây có những thị trường mới nổi lên như Trung Quốc, ấn độ và Inđonesia. Hàng năm trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài đổ vào các nước đang phát triển thì Trung Quốc tiếp nhận 1 /2. ấn độ sau những năm gần đây tích cực cải cách kinh tế, môi trường đầu tư được cải thiện nên FDI vào nước này đang tăng nhanh. So với Việt Nam thì các đối thủ này rất mạnh, xét về nhiều phương diện, từ quy mô thị trường đến trình độ công nghiệp hoá và các cơ chế chính sách nhăm thu hút FDI. 2.Vấn đề công nghệ: Các công ty đa quốc gia luôn năm hầu hết các công nghệ hiện đại của thế giới. Nếu FDI của họ vào nước ta càng nhiều thì quá trình chuyển giao công nghệ cũng càng nhiều và càng nhanh. Nhưng nó chỉ là khả năng. Tất cả các quốc gia nhận FDI đều mong muốn nhận được công nghệ hiện đại. Nhưng hiện đại đến đâu lại tuỳ thuộc vào điều kiện của các nước sở tại. Việt Nam cũng như một số nước đang phát triển khác, cảm giác bao chùm là các nhà đầu tư chỉ đưa đến các công nghệ cũ kĩ và lạc hậu. Điều này có lý do của nó vì: 2.1. Chính sách của Việt Nam hiện nay vẫn là khuyến khích thay thế nhập khẩu và bảo hộ thị trường trong nước. Thực tế cho thấy, nếu như sản xuất để thay thế nhập khẩu và để tiêu dùng trong nước, lại được nhà nước bảo hộ thì không phải nhập khẩu công nghệ hiện đại, đắt tiền bởi vì các nhà đầu tư dùng nguyên liêụ và lao động rẻ, công nghệ lạc hậu vẫn sản xuất ra các mặt hàng có thể tiêu thụ được . Nếu chuyển mạnh sang thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành xuất khẩu chắc chắn các nhà đầu tư và các cơ quan tiếp nhận đầu tư sẽ phải viện trợ công nghệ tiên tiến hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh và tiêu thụ được sản phẩn trên thị trường quốc tế. Việc chuyển từ chính sách thay thế nhập khẩu sang chính sách hướng về xuất khẩu đòi hỏi không chỉ phải đổi mới tư duy về chính sách kinh tế mà cả công nghệ nhập khẩu và cơ chế quản lý cũng phải thay đổi. Không thể đồng nhất việc bảo hộ sản xuất của một số doanh nghiệp với việc bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhà nước có thể tăng thuế suất nhập khẩu để bảo hộ sản xuất cho một số ngành nghề tiếp tục hoạt động, bảo đảm việc làm cho hàng ngàn người nhưng tai hại rất lớn mà hàng triệu người tiêu dùng phải gánh chịu là mua hàng hoá đắt, chất lượng thấp. Nếu như thuế nhập khẩu giảm đi, hàng ngoại sẽ cạnh tranh với hàng nội, điều đó buộc các doanh nghiệp sẽ phải đổi mới công nghệ theo hướng tiên tiến hiện đại. 2.2. Kinh nghiệm của các nước Đông á như Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy, muốn sử dụng công nghệ hiện đại phải có nguồn nhân lực được đào tạo căn bản để tiếp thu và làm chủ các công nghệ đó. ở Nhật Bản, Hàn Quốc việc nhập khẩu công nghệ được xuy xét rất kỹ. Thời kỳ đầu có thể phải nhập khẩu thiết bị toàn bộ qua FDI, nhưng đến giai đoạn sau họ nhập bản quyền, thiết bị lẻ và cải tiến công nghệ đó, nâng cao tính năng và hiệu xuất máy móc. Họ làm được như vậy vì có đội ngũ công nhân lành nghề, và các chuyên gia có trình độ cao. Hiện tại ở Việt Nam do thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ lao động kỹ thuật nên giả sử có thực hiện một cách tích cực chính sách hướng về xuất khẩu thì với điều kiện nhân lực như hiện nay việc nhập khẩu công nghệ thực sự tiên tiến và hiện đại chưa hẳn đã là hiệu quả. Đây là một khó khăn đòi hỏi phải sớm khắc phục. 2.3. Cơ sở hạ tầng để phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam rất lạc hậu. Đầu tư cho khoa học công nghệ còn rất thấp, bên cạnh đó các ngành, các cấp cũng chưa thực sự quan tâm đến công tác này, đặc biệt là công tác nghiên cứu ứng dụng triển khai. 3. Vấn đề thị trường. Thị trường trong nước nói là gần 80 triệu dân nhưng sức mua không lớn. Những năm gần đây nhiều mặt hàng sản xuất ra tiêu thụ rất khó hoặc bị ứ đọng, điển hình là ximăng, sắt thép, hàng may mặc, đường ,... Một số mặt hàng như ô tô, xe máy mới đầu tư những năm gần đây nhưng tiêu thụ trong nước rất chậm đã làm cho việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp khó khăn. Năm 1996, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 11 tỉ USD, phần lớn số hàng nhập khẩu này là hàng trong nước chưa sản xuất được. Vì thế các công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam đang nhằm vào sản xuất các mặt hàng mà Việt Nam phải nhập khẩu. Tuy nhiên do nhiều công ti của cả nước ngoài và trong nước đều tập trung vào sản xuất ra các mặt hàng này nên cạnh tranh rất gay gắt và mức tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp cũng giảm, làm cho FDI giảm theo. Bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á xảy ra vào cuối năm 1997, nhiều nhà kinh doanh cho rằng đó là điều kiện thuận lợi để Việt Nam thu hút FDI. Theo họ khi các nước trong khu vực mất ổn định về tài chính, thì đầu tư ở Việt Nam sẽ ít rủi ro hơn và có hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính không những gây thiệt hại nặng nề cho các nước đó mà còn làm cho dòng FDI vào Việt Nam và mức xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh. Ngoài những khó khăn chính nêu trên thì một tồn tại không nhỏ là cơ cấu đầu tư ở Việt Nam một mặt vưà phân tán manh mún, mặt khác lại quá tập trung vào một số ngành, lĩnh vực và địa phương. Không ít trương hợp cùng một mặt hàng nhưng có nhiều dự án cùng đầu tư sản xuất chẳng hạn như xi măng, đường ... Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hình như không theo quy luật của cơ chế thị trường. Trước xu thế và những khó khăn, thách thức mà Việt Nam đã và đáng đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Phần III: Những giải pháp cụ thể nhằm huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam trong thời gian tới. I. Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Tháng 12 năm 1987, quốc hội thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam tạo cơ sở pháp lý cơ bản, đầu tiên cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ngoài tại nước ta. Luật quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư, về hình thức đầu tư, về quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức, các nhân đầu tư nước ngoài và về cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài. Luật được ban hành trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ đổi mới sau đại hội VI của Đảng, nền kinh tế trong nước về cơ bản vẫn được tổ chức quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, chưa có đạo luật kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường được thông qua và ban hành. Tháng 6-1990, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được sửa đổi, bổ sung 15 trong số 42 điều của luật năm 1987. Nội dung sửa đổi, bổ sung bao gồm các vấn đề về bên Việt nam, hợp đồng hợp tác kinh doanh; về xí nghiệp liên doanh( hội đồng quản trị, ban giám đốc, miễn giảm thuế lợi tức...) và về việc các tổ chức kinh tế tư nhân Việt nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Như vậy, luật sửa đổi bổ sung luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam lần thứ nhất đã xác định rõ ràng, cụ thể hơn các khái niệm, nội dung, quan hệ trong các doanh nghiệp liên doanh đồng thời sử lý một số vấn đề có tính nguyên tắc là cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân Việt nam được trực tiếp hợp tác đầu tư với nước ngoài. Trong luật sửa đổi thứ 2 luật đầu tư nước ngoài tháng 12 năm 1992, quốc hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bên Việt nam gồm 1 hoặc nhiều doanh nghiệp Việt nam thuộc mọi thành phần kinh tế; về khu chế xuất, xí nghiệp chế xuất; hình thức BOT; về việc bên Việt nam góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên, về việc thoả thuận tăng dần vốn góp của các bên Việt nam trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh; về thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; về việc mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài; về nguyên tắc không hồi tố, quyền hạn của cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài. So với luật sửa đổi bổ sung lần thứ nhất, luật sửa đổi bổ sung lần thứ hai đã sửa đổi bổ sung nhiều nội dung có tính chất cơ bản hơn. Đó là đã mở ra các hình thức thu hút vốn đầu tư và góp vốn đầu tư mới; đã đưa ra các biện pháp mới để bảo vệ lợi ích của bên Việt nam và nhà nước Việt nam, đồng thời cũng có những biện pháp để làm an tâm và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đại hội Đảng VIII, tháng 6-1996 đã đề ra những nhiệm vụ, mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu chiến lược đến năm 2020 Việt nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá yêu cầu phải duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, giải quyết tốt các vấn đề xã hội cấp bách, phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời chú trọng phát triển khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Như vậy vốn đầu tư trở thành yêu cầu hết sức cần thiết. Đảng và nhà nước xác định vốn đầu tư trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng. Trước mắt và lâu dài, chính sách của nhà nước luôn nhằm và việc phát huy cao nhất khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Theo định hướng đó, ngày 12-11-1996 quốc hội đã thông qua luật đầu tư nước ngoài ( sửa đổi) tại Việt nam. Trong luật này có một sổ điểm cởi mở hơn nhằm thu hút FDI tập trung vào các hướng ưu tiên cho các nghành xuất khẩu, nuôi trồng, chế biến các sản phẩm nông-lâm-thuỷ sản; các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao; phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội. Luật đầu tư năm 1996 khuyến khích đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển của từng thời kỳ, chính phủ quy định những địa bàn khuyến khích đầu tư, danh mục dự án đầu tư có điều kiện và những lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư. Có thể nói luật đầu tư năm 1996 là luật đầu tư phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy có một số quy định thay đổi, có thể gây thiệt thòi cho một số nhà đầu tư nhưng bù lại họ được hỗ trợ nhiều hơn trong các dự án mà chính phủ ta đang khuyến khích ưu tiên đầu tư. Mặt khác, trong quá trình đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Quốc hội, chính phủ đã ban hành nhiều văn bản luật, dưới luật liên quan đến đầu tư trưc tiếp nước ngoài như: Luật đất đai, luật thuế xuất nhập khẩu, luật doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước v.v... Nghị định 12/CP ngày 18-2-1997; Nghị định 36/CP ngày 24-4-1997. Nghị định số 10/CP ngày 23-1-1998 về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Gần đây nhất tháng 6-2000, Quốc hội đã thông qua luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ xung, nhằm giải quyết những bất cập và tạo thuận lợi hơn nữa cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Một khuôn khổ pháp lý như vậy đã và đang tạo điều kiện cho Việt nam trở thành một địa bàn hấp dẫn đầu tư đối với các nhà đầu tư thế giới. Tuy nhiên để thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn FDI đòi hỏi phải khắc phục không ít những vướng mắc, cải thiện một cách cơ bản môi trường đầu tư. Trước hết, phải tiếp tục giảm thiểu những thủ tục phiền hà và đưa ra được một quy hoạch cụ thể rõ ràng cùng với một danh mục ưu tiên gọi vốn đầu tư phù hợp với định hướng phát triển kinh tế và công nghiệp hoá đất nước.Hướng ưu tiên đó trước hết phải được dành cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu hình thành các khu công nghiệp tập trung với công nghệ cao những ngành công nghiệp mà trong nước không đủ khả năng đầu tư về vốn và công nghệ. Thứ hai,Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật,khắc phục nhược điểm của của sự thiếu nhất quán và không đồng bộ, làm ảnh hưởng đến môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư . Thứ ba,Tập trung vốn của nhà nước và vốn ODA vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng:Đường xá, điện ,nước,sân bay,bến cảng cho một nền kinh tế hiện đại, mà các cơ sở hiện có còn lạc hậu so với yêu cầu của sự phát triển. Thứ tư, Đào tạo và bồi dưỡng các cán bộ Việt Nam hiểu được thông lệ quốc tế,nắm vững luật pháp, biết cách giao tiếp và sẵn sàng hợp tác với người nước ngoài, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro trong các dự án liên doanh. Thứ năm,Kết hợp vốn trong nước với vốn nước ngoài trong một thể thống nhất,phù hơp với kế hoạch phát triển chung của đát nước và quy hoạch phát triển của từng ngành, từng địa phương. Đồng thời để tăng cường khả năng tiếp nhận vốn FDI phục vụ công nghệp hoá cần tạo đủ nguồn vốn đối ứng trong nước. Trong thời gian tới đầu tư nước ngoài cần được khuyến khích vào các lĩnh vực sau đây: -Xây dựng ngành công nghiệp dầu khí, bao gồm thăm dò và khai thác dầu, lọc dầu,sử dụng khí thiên nhiên để phát điện, làm phân bón.Bằng hình thức liên doanh cần khẩn trương xây dựng khu công nghiệp hoá, lọc dầu;hoàn thành đường ống dẫn khí từ các mỏ dầu và khí ở thềm lục địa để phát điện, sản xuất phân bón và làm khí hoá lỏng. -Khai thác các tài nguyên khoáng sản khác, như sắt, bôxít,đồng, kẽm ,than, trong đó có dự án khai thác quặng sắt ở Hà Tĩnh -Đầu tư vào các dự án sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, bê tông,các cấu kiện đúc sẵn,thiết bị vệ sinh,trang trí nội thất để đáp ứngđủ sự gia tăng nhanh chóng vè nhu cầu xây dựng trong những năm sắp tới. -Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp đã, đang được hình thành ở nhiều địa phương trong cả nước,đặc biệt là 3 vùng kinh tế trọng điểm:HàNội-Hải Phòng-Quảng Ninh;Thành phố Hồ Chí Minh-Đồng Nai,Bà Rịa-Vũng Tàu; khu vực duyên hải miền Trung với Đà Nẵng là trung tâm.Đồng thời khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy phù hợp với yêu cầu của các khu công nghiệp này về mặt cơ cấu ngành,chất lượng công nghệ, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu. iI. Những giải pháp cụ thể nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam trong những năm tới. Trên cơ sở lý luận,phân tích thực trạng đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua cũng như kinh nghiệm quốc tế và hệ thống các chính sách của nhà nưóc Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .Em xin đề xuất những giải pháp sau nhằm thu hút FDI vào Việt nam trong thời gian tới. 1. Duy trì sự ổn định chính trị-xã hội. ổn định chính trị-xã hội là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư vì rủi ro chính trị là rất lớn. Chúng ta phải duy trì sự ổn định chính trị, ngăn ngừa và loại bỏ các nguy cơ gây mất ổn định chính trị-xã hội. Tạo ra tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài khi xem xét đầu tư vào Việt Nam. 2.Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư: Môi trường đầu tư của nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan, tác động đến hoạt động đầu tư và đảm bảo khả năng sinh lợi của vốn đầu tư nước ngoài. Chúng ta đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư nước ngoài từ đó đưa ra những phương pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm bảo đảm khả năng sinh lợi của các nhà đầu tư cũng như lợi ích của toàn bộ nền kinh tế : 2.1. Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định. Ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0265.doc
Tài liệu liên quan