Đề tài Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu

MỤC LỤC

 

CHƯƠNG I : LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ CỦA VIỆC LIÊN MINH VÀ THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC. 3

1. Lợi ích từ việc thống nhất tiền tệ 3

1.1.Kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối : 3

1.2.Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả. 3

1.3.Tiết kiệm dự trữ ngoại hối và lợi ích từ việc phát hành tiền: 4

1.4. Tiết kiệm chi phí hành chính trong kinh doanh: 4

1.5. Tăng cường thanh khoản và hợp lý hóa thị trường tài chính: 4

1.6.Giá cả trở nên trung thực rõ ràng và ổn định hơn: 5

1.7. Lợi ích riêng nếu thực hiện liên minh tiền tệ Đông Nam Á: 5

2.Chi phí của việc thống nhất tiền tệ: 6

2.1. Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ 6

2.2.Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô 7

2.3.Bất bình đẳng khu vực 7

2.4.Chi phí thời kỳ quá độ 7

CHƯƠNG II:THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU ÂU. 8

1. Tổng quan về sự ra đời và quá trình thành lập của liên minh tiền tệ Châu Âu. 8

1.1. Tiến trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 8

1.1.1.Ý tưởng về một đồng tiền chung 8

1.1.2.Các giai đoạn thực hiện 9

1.2. Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 11

1.2.1.Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động: 11

1.2.2. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất 12

1.2.3. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá 14

1.2.4.Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất. 15

1.3. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ Châu Âu 15

1.3.1. Bộ máy hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ châu Âu 15

1.3.2. Các quy định cơ bản trong thời kỳ chuyển đổi. 20

1.3.2.1 Tỷ giá chuyển đổi: 20

1.3.2.2. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II) 22

1.3.2.3. Hệ thống thanh toán. 23

3. Thực trạng hoạt động của đồng Euro. 23

3.1Những thành tựu đạt được : 24

3.1.1. Đối với các nước thành viên: 24

3.1.1.1.Nền kinh tế được kích thích tăng trưởng: 24

3.1.1.2.Ổn định các yếu tố kinh tế đặc biệt là tỷ lệ lạm phát và lãi suất. 27

3.1.1.3.Mức sống của người dân khu vực đồng EURO được nâng lên : 29

3.1.2. Trên phương diện quốc tế : đồng Euro dần trở thành 1 ngoại tệ mạnh. 31

3.2. Những mặt hạn chế của đồng EURO: 32

3.2.1.Sự tăng trưởng thiếu bền vững và vấn đề suy giảm năng lực cạnh tranh của các nước kém phát triển hơn : 32

3.2.2. Gia tăng chi tiêu chính phủ và nợ công - cuộc khủng hoảng nợ : 34

CHƯƠNG III: KHẢ NĂNG THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 43

3.1 Quá trình tự do hóa thương mại: 43

3.1.1.Tiến trình cắt giảm hàng rào thuế quan 44

3.1.2.Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan 46

3.2. Quá trình tự do lưu chuyển các yếu tố khác và hợp tác giữa các ngành lĩnh vực trong khối ASEAN và ngoại khối: 47

3.2.1 Sự tự do lưu chuyển vốn và lao động: 47

3.2.2 Một số hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế trong khối: 49

3.2.3 Một số hợp tác kinh tế ngoại khối: 50

3.3 Khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối 51

3.4. Khả năng thiết lập một cơ chế ổn định và liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối. 59

3.4.1. Cơ chế ổn đinh tỷ giá- sáng kiến Chiang Mai 59

3.4.2. Tiến trình đa phương hoá sáng kiến Chiang Mai 60

3.5. Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương (NHTW) độc lập với một chính sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất. 64

KẾT LUẬN 69

 

 

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2507 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n can thiệp không hạn chế và tự động thông qua sử dụng các công cụ tài trợ vốn ngắn hạn. Tuy nhiên mức độ can thiệp cũng như sự cần thiết can thiệp còn tùy thuộc vào ảnh hưởng của nó đến mục tiêu ổn định giá cả. 1.3.2.3. Hệ thống thanh toán. Mỗi quốc gia thành viên có ít nhất một hệ thống thanh toán đồng Euro để thực hiện các giao dịch nội địa. Để thực hiện các giao dịch giữa các quốc gia, các thành viên có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán như: lựa chọn một ngân hàng đại lý với 1 tài khoản đồng Euro để hạch toán các khoản giao dịch bằng đồng Euro với tất cả thành viên khác, duy trì một tài khoản được mở tại một ngân hàng đại lý của một số quốc gia để hạch toán các giao dịch với quốc gia đó hay thực hiện chi trả trực tiếp thông qua hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế với một trung tâm thanh toán toàn lãnh thổ hoặc thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của hiệp hội Ngân hàng khu vực (EBA). Trên thực tế đã có một trung tâm thanh toán cho toàn lãnh thổ EMU là TARGET được nối mạng trực tiếp với các trung tâm thanh toán quốc gia cho phép các khoản giao dịch giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiên trong một ngày. Hệ thống này thực sự là kênh để điều chỉnh mức độ thanh khoản giữa các khu vực khác nhau để xử lý nhanh chóng các khoản chi trả với khối lượng lớn. 3. Thực trạng hoạt động của đồng Euro. Sau khoảng 11 năm được chính thức đưa vào hoạt động (kể từ ngày 1/1/1999 cho tới nay) với 16 quốc gia đã sử dụng Euro làm đơn vị tiền tệ chính thức trong lưu thông của mình, khu vực đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone) phát triển ngày một lớn mạnh. Đồng Euro đã trở thành một công cụ thanh toán toàn cầu, trở thành đối trọng với đồng USD Mỹ. Nhìn lại thời gian hoạt động trong 11 năm vừa qua, chúng ta đã có thể đánh giá được phần nào hiệu quả của việc sử dụng đồng Euro trên lãnh thổ các quốc gia liên minh châu Âu EU. 3.1Những thành tựu đạt được : 3.1.1. Đối với các nước thành viên: Việc 11 nước ban đầu tham gia liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) với 290 triệu dân đã hình thành một thị trường rộng lớn trên thế giới với một nền kinh tế tương đối phát triển. Nhờ có mối liên kết chặt chẽ hơn, các nước EU trở thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, do đó địa vị của EU được nâng cao hơn, nhất là trong quan hệ với Mỹ. Để gia nhập EMU các nước thành viên đã phải thỏa mãn rất nhiều qui định chặt chẽ về lạm phát, lãi suất dài hạn, thâm hụt ngân sách và tỷ giá… Nhìn chung, điều này có tác dụng thúc đẩy các nước thành viên phát triển để tránh bị tụt hậu so với các nước thành viên khác và vi phạm những qui định được đặt ra ban đầu. Nhờ vậy, nền kinh tế các nước thuộc khu vực Eurozone đã có những bước tiến nhất định. 3.1.1.1.Nền kinh tế được kích thích tăng trưởng: Nhờ những tác động tích cực của việc hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động đã giúp các nước Eurozone tận dụng được hiệu quả những nguồn lực sẵn có cũng như tận dụng các nguồn lực bên ngoài cho việc phát triển kinh tế. Vì sử dụng một đơn vị tiền tệ chung nên trao đổi hàng hóa nên giao dịch giữa các nước trong nội bộ của khối diễn ra thuận tiện và dễ dàng hơn, không tốn kém chi phí cho hoạt động giao dịch ngoại hối, các doanh nghiệp khi thực hiện kí kết các hợp đồng thương mại cũng không cần lo lắng về vấn đề biến động của tỷ giá, nhờ vậy, làm cho các hoạt động thương mại giữa các quốc gia trong khu vực diễn ra mạnh mẽ. Biểu hiện của điều này là sự gia tăng của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong nội bộ của khối. Việc di chuyển dễ dàng của vốn và đồng nhất về đồng tiền giúp các nhà đầu tư có thêm nhiều lựa chọn cũng như dễ dàng so sánh được mức lợi nhuận thu được từ các dự án đầu tư khác nhau, trên những vùng khác nhau để đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với mục đích của mình. Qua đó khuyến khích đầu tư, đẩy mạnh sự phát triển của khu vực. Sự di chuyển tự do của lao động và việc sử dụng cùng một đồng tiền giúp những người lao động có thể dễ dàng so sánh mức lương ở các khu vực khác nhau sau đó lựa chọn cho mình 1 công việc cũng như địa điểm thích hợp để làm việc. Hàng triệu việc làm mới được tạo ra nhờ sự gia tăng của đầu tư trong khu vực. Điều này góp phần đáng kể vào việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp của khu vực : từ mức hơn 9% năm 1999 xuống mức 7% trong những năm 2007-2008. Cụ thể kết quả đạt được, tỉ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực đồng Euro từ năm 1999 tới nay ở mức trung bình 1,48% /năm, và có lúc lên cao nhất vào 06/2000: 4,6%; giá trị GDP trung bình trong khoảng thời gian từ 01/2000 – 09/2010 là khoảng 9700 tỷ USD/năm. Biểu đồ 1 : Biểu đồ về giá trị GDP hàng năm của khu vực Euro ( 1970-2010 ) Đơn vị : Nguồn : TradingEconomics.com; The World Bank Group Biểu đồ 2 : Biểu đồ tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực Euro (1999 - 2010) Đơn vị : % Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission Biểu đồ 3 :Biểu đồ về tỷ lệ thất nghiệp của các nước trong khu vực đồng Euro (1997 – 2010) Đơn vị : % Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission 3.1.1.2.Ổn định các yếu tố kinh tế đặc biệt là tỷ lệ lạm phát và lãi suất. Thứ nhất, với mục tiêu ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát: do có 1 Ngân hàng trung ương cho cả khu vực cùng với chính sách tiền tệ độc lập và không hề chịu sự tác động hay can thiệp của bất kỳ một quốc gia nào trong nội bộ khối nên kể từ khi thành lập ECB đã giữ được tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, góp phần giữ ổn định cho các hoạt động của nền kinh tế. Cụ thể là sau hơn 10 năm, giá cả ở Châu Âu tăng với tốc độ bình quân vào khoảng 2% mỗi năm bất chấp giá lương thực và nhiên liệu có xu hướng leo thang liên tục trong những năm gần đây. Biểu đồ 4 :Biểu đồ về tỷ lệ lạm phát của khu vực đồng Euro ( 1991 – 2010 ) Đơn vị : % Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission Bên cạnh đó, ECB đã duy trì một mức lãi suất ổn định, điều này đã giúp hạn chế những biến động lớn có thể gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Lãi suất bình quân ở mức 2,89% năm và chỉ tăng cao vào những năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới 2008. Khi đó, lãi suất buộc phải được nâng lên nhằm làm giảm tác động xấu của cuộc khủng hoảng đến sự phát triển kinh tế, đồng thời thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Biểu đồ 5: Biểu đồ về lãi suất của khu vực đồng Euro ( 1999- 2010 ) Đơn vị : % Nguồn : TradingEconomics.com 3.1.1.3.Mức sống của người dân khu vực đồng EURO được nâng lên : Nhờ sự ổn định và tăng trưởng kinh tế mà mức sống của người dân trong khu vực Eurozone tăng lên. Điều đó thể hiện qua sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Tính đến cuối năm 2008, thu nhập bình quân của cả khu vực là khoảng 22000 USD/người; còn nếu tính theo giá sức mua tương đương thì thu nhập bình quân là khoảng 33500 USD. Biểu đồ 6: Biểu đồ thu nhập bình quân ( 1980 – 2009 ) Đơn vị : Nguồn : TradingEconomics.com; The World Bank Group Biểu đồ 7 : Biểu đồ thu nhập bình quân tính theo ngang giá sức mua ( 1998-2009 ) Đơn vị : Nguồn : TradingEconomics.com 3.1.2. Trên phương diện quốc tế : đồng Euro dần trở thành 1 ngoại tệ mạnh. Việc ra đời đồng Euro đã tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới xét trên 2 khía cạnh. Đầu tiên là những thay đổi trong việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Đồng Euro trở thành một phương tiện thanh toán tương đối ổn định và có sức chuyển đổi cao. Thứ hai, sự ổn định khiến Euro dần trở thành 1 trong những kênh đầu tư an toàn. Bên cạnh đồng USD dự trữ như trước đây thì NHTW các nước có thêm 1 sự lựa chọn nữa là đồng Euro. Trên thực tế, dự trữ ngoại hối của các quốc gia trên thế giới bằng đồng Euro có xu hướng tăng lên chứng tỏ Euro đã được các công ty và chính phủ các nước chấp nhận như là 1 ngoại tệ mạnh. Cụ thể là sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, tỷ trọng của Euro trong quỹ dự trữ của các NHTW trên thế giới vào năm 2005 đạt 24,3% (của USD là 66,4%) và cho tới năm 2009, đã là gần 30% . Hay kể từ ngày 1/1/2009, đồng Euro đã thay thế USD và trở thành đồng tiền chính trong dự trữ ngoại hối của Nga (tỷ lệ Euro trong dự trữ ngoại hối của Nga theo thông báo của NHTW Nga là 47,5% còn của USD là 41,5%). Trung Quốc - 1 trong những nước có lượng dự trữ ngoại tệ thuộc hàng lớn nhất trên thế giới cũng đã tuyên bố tăng tỷ lệ dự trữ ngoại hối bằng Euro, giảm tỷ lệ dự trữ bằng USD để giảm thiểu rủi ro từ đồng USD đem tới, đặc biệt là khi khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu bùng nổ và lan truyền từ Mỹ. Hơn nũa, sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng Euro sẽ thúc đẩy xu thế đa cực trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển, tạo điều kiện cho những nền kinh tế nhỏ hơn có cơ hội phát triển. Như vậy, có thể nói việc đồng EURO ra đời đã đem lại khá nhiều lợi ích cho khu vực đồng tiền chung Châu Âu , đồng thời cũng đã có những tác động tích cực nhất định đến nền tài chính thế giới. 3.2. Những mặt hạn chế của đồng EURO: Sự xuất hiện của đồng tiền chung châu Âu Euro, bên cạnh những kết quả tăng trưởng và ổn định ở trên, đã và đang bộc lộ những mặt hạn chế, khiến các quốc gia trong khu vực hiện tại phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng. Để nhìn nhận cụ thể tình hình thực tế, cần phải hiểu rõ thực trạng các nước trong khối trước khi đồng Euro chính thức đưa vào sử dụng. Khi đó, có thể thấy khu vực đồng EURO chia làm 2 khu vực với những sự khác biệt rõ nét: một bên là những nước có nền công nghiệp phát triển, người dân có mức sống cao và điển hình đó là Đức, Pháp; còn một bên là những nước có nền kinh tế phát triển thấp kém hơn, chủ yếu là những nước Nam Âu (như Tây Ban Nha, Italia, Bồ Đào Nha, Hy Lạp) với nền kinh tế đang bị suy yếu do các nguyên nhân như: luật lao động khắt khe, những thiết chế quan liêu, tốn kém trong kinh doanh cùng với việc nhiều ngành kinh tế lớn bị chính phủ nắm giữ. Bắt nguồn từ những khác biệt đó, khi tiến hành liên minh kinh tế với sự xuất hiện 1 đồng tiền chung đã đưa đến nhiều vấn đề tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước. 3.2.1.Sự tăng trưởng thiếu bền vững và vấn đề suy giảm năng lực cạnh tranh của các nước kém phát triển hơn : Trước khi có liên minh tiền tệ, lãi suất ở các quốc gia Nam Âu phần lớn ở mức 2 chữ số và trung bình gấp đôi lãi suất của Đức. Điều đó phản ánh cả tỷ lệ lạm phát cũng như rủi ro lớn khi cho các doanh nghiệp cũng như chính phủ các nước này vay tiền. Tuy nhiên, sau khi gia nhập đồng Euro, do quy định gia nhập và dưới sự điều hành của Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB, lãi suất giảm xuống gần bằng lãi suất của Đức và được duy trì ở mức thấp cùng với sự tự do di chuyển vốn khiến cho chi phí vay vốn trở nên rẻ hơn. Hơn nữa, các nguồn tín dụng cũng gia tăng rất phong phú; các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn trong khu vực có cơ hội dễ dàng tiếp cận vốn từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó làm cho các nhà đầu tư tin tưởng vào sự tăng trưởng cao trong tương lai của các quốc gia như Tây Ban Nha, Ý hay Bồ Đào Nha, sẽ đưa các nước này tiến gần hơn với sự phát triển của Đức, Pháp. Và trên thực tế, niềm tin này ngày càng có vẻ củng cố hơn bởi trong giai đoạn 2002-2007, đã có một vài quốc gia đột nhiên đạt được mức tăng trưởng đáng nể. Tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp và Tây Ban Nha dao động trong khoảng 3,5% – 4,3% trong khi Ailen vươn lên một cách mạnh mẽ nhất với tỷ lệ 6,5% mỗi năm, cao hơn so với mức tăng trưởng trung bình của cả Châu Âu là khoảng 2% /năm. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, sự tăng trưởng đó không bắt nguồn từ sản xuất và xuất khẩu hàng hóa, mà trên thực tế là sự bùng nổ về tiêu dùng trong nước về các dịch vụ. Các nhà hàng, khách sạn mọc lên như nấm, ngành bất động sản phất lên nhanh chóng… Sự tăng lên của cầu tiêu dùng nội địa làm cho giá cả tăng cao, lao động bị thiếu hụt trong khi tính linh hoạt của lực lượng châu Âu vốn là 1 điểm yếu đã đẩy tiền lương nhân công tăng lên nhanh chóng. Nền kinh tế tăng trưởng nhưng mất cân đối về cơ cấu và không bền vững, chỉ dựa vào khu vực dịch vụ và bất động sản, còn hàng hóa xuất khẩu thì ngày càng kém cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực vì có chi phí tiền lương bị đẩy lên cao. Trước hoàn cảnh đó, nếu như các nước sử dụng đồng tiền riêng có thể đưa ra những biện pháp để cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa như điều chỉnh tỷ giá hay phá giá đồng tiền để hàng hóa xuất khẩu của mình trở nên rẻ hơn, dễ tiêu thụ hơn, nhưng do sử dụng chung một đồng tiền nên việc này là không thể. Hơn nữa, chi phí bị đẩy lên cao dẫn đến nguy cơ lạm phát lại không thể tự động khắc phục do việc tăng lãi suất bị kìm hãm, điều này làm cho giá cả ngày càng leo thang. Kết quả là sức cạnh tranh thương mại của các quốc gia này ngày càng giảm so với các quốc gia khác trong khu vực như Đức, Anh, hay Pháp. 3.2.2. Gia tăng chi tiêu chính phủ và nợ công - cuộc khủng hoảng nợ : Giao dịch bất động sản sôi động, tiền lương tăng cao làm nguồn thu thuế tăng lên đáng kể, khiến cho chính phủ các nước chi tiêu phung phí mà không quan tâm rằng sự tăng lên đó chỉ là nhất thời. Đồng thời, chính sách duy trì mức lãi suất thấp (2% /năm) của Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB vô tình trở thành cám dỗ khuyến khích chính phủ các nước tăng cường vay vốn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Cho tới khi ECB nhận ra nguy cơ lạm phát, lãi suất liên tục bị đẩy lên cao (giai đoạn 2006-2008, lãi suất từ 2% tăng lên 4%) làm cho bong bóng nhà đất vỡ tung, các nguồn thu từ thuế sụt giảm nhanh chóng, hậu quả là ngân sách chính phủ các nước kém phát triển hơn bị thâm hụt. Thêm vào nữa, vì là một liên minh tiền tê, sử dụng 1 đồng tiền chung nên chính sách tiền tệ do ECB đưa ra là độc lập và không vì lợi ích riêng của bất kỳ 1 quốc gia nào. Do đó, các nước không thể có sự phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để điều tiết sự mất cân bằng trong nền kinh tế, đối phó với lạm phát và suy thoái. Đồng thời sự nhất thể hóa chính trị không theo kịp sự nhất thể hóa tiền tệ, Chính phủ các nước luôn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, cao hơn lợi ích của khu vực cho nên mặc dù có chính sách tiền tệ là như nhau, nhưng mỗi chính phủ lại có chính sách tài khóa riêng. Ngân sách thâm hụt không thể bù đắp bằng cách in tiền mà phải sử dụng các công cụ như vay vốn từ nước ngoài, từ dân cư thông qua phát hành trái phiếu chính phủ… Tất cả những hành động đó đã đẩy thâm hụt ngân sách và nợ công lên mức đáng báo động. Nhưng do quy định của khu vực đồng Euro: mức thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP và tỷ lệ nợ không quá 60% GDP, trong khi họ lại không tìm ra được cách khác để làm giảm thâm hụt như cắt giảm chi tiêu công…, điều này dẫn đến tình trạng các nước cố tình hay tìm mọi cách che giấu đi những con số thật để tiếp tục được vay vốn với mức lãi suất cao hơn làm cho nợ công thực tế ngày càng gia tăng. Cuộc khủng hoảng Hy Lạp vừa qua là một ví dụ điển hình khi mà các số liệu thống kê, nghiên cứu, báo cáo gần đây về tỷ lệ nợ và thâm hụt ngân sách thực tế của quốc gia này khác xa so với những báo cáo mà họ đã đưa ra vào những năm trước. Nguyên nhân của việc này 1 phần cũng do vấn đề minh bạch về tài chính còn chưa có những cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả, chặt chẽ. Đến khi các nhà đầu tư, các chủ nợ mất lòng tin vào tình hình tài chính cũng như khả năng thanh toán nợ của nước này, điều tồi tệ đã xảy ra: trái phiếu chính phủ bị bán tháo trên thị trường, lãi suất của trái phiếu bị đẩy lên cao, khó khăn hơn trong việc vay vốn, thu hút đầu tư … gây ra khủng hoảng nợ, quốc gia mất khả năng thanh toán, làm giảm sự tăng trưởng của nền kinh tế, và gây ra hậu quả không tốt đến toàn khu vực. Để khắc phục tình trạng này, Hy Lạp đã phải nhờ đến sự cứu viện từ các nước khác trong khu vực (Ngân hàng trung ương Châu Âu đã phải đưa ra gói cứu trợ khẩn cấp trị giá 110 tỷ Euro nhằm giải nguy cho Hy Lạp, cũng để tránh cho việc khủng hoảng ở Hy Lạp sẽ lan rộng ra các quốc gia khác trong khu vực). Điều này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước phát triển đặc biệt là Đức, Pháp hay Hà Lan do vi phạm hiệp ước về điều kiện gia nhập liên minh kinh tế gây ra mâu thuẫn không nhỏ trong khối. Tuy nhiên, sự trợ giúp từ bên ngoài cũng là phương án trước mắt còn chủ yếu vẫn phải dựa vào Hy Lạp trong việc có đưa ra được các biện pháp như thế nào để phát triển cân đối nền kinh tế, vượt qua khủng hoảng, thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng, giảm tiền lương, tăng thuế cho dù điều đó gặp phải sự phản đối kịch liệt từ phía nhân dân, hay là từ bỏ đồng Euro để có thể tự điều hành chính sách tiền tệ ? Đây quả thực là 1 bài toán khó và Hi Lạp trở thành 1 ví dụ điển hình cảnh báo cho các nước khác trong khu vực đang tiềm ẩn nguy cơ tương tự. Nợ công và thâm hụt ngân sách của hầu hết các nước trong khu vực đồng Euro khác cũng đang trong tình trạng đáng lo ngại và có những nước đang ở mức cao. Năm 1998, tỷ lệ nợ/GDP của Hy Lạp là 98%, nhưng IMF dự báo tỷ lệ này sẽ lên đến 133% trong năm nay. Các con số tương tự với Bồ Đào Nha là 52% và 87%, của Ailen là 54% và 79%, ở Ý tỷ lệ nợ bằng đồng EURO đã lên mức 119% GDP. Mặc dù nợ của Tây Ban Nha bây giờ chỉ vào khoảng 67% nhưng đã tăng gấp đôi trong 2 năm qua và có nguy cơ cao do khu vực tư nhân vay nợ quá nhiều. Biểu đồ 8 : Thâm hụt NS và cân đối NS của KV sử dụng euro Đơn vị : Nguồn : Biểu đồ 9:Biều đồ thâm hụt ngân sách (cột dưới) và nợ công (cột trên) của 2 số nước Châu Âu năm 2009 Tình trạng nợ nần cao cũng có ảnh hưởng rất xấu tới đồng EURO, bằng chứng là đồng EURO thời gian qua liên tục mất giá so với đồng USD : Biểu đồ 10 : Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010 : Đơn vị : USD/EUR Nguồn : Nhưng những người lạc quan và tin tưởng vào khu vực này thì lại cho rằng việc tỷ giá EURO/USD thấp là điều tốt cho nền kinh tế Châu Âu hiện nay, vì tỷ giá thấp đồng nghĩa với hàng hóa của Châu Âu cũng trở nên rẻ hơn trên thị trường, làm tăng khả năng cạnh tranh với hàng hóa những khu vực khác trên thế giới, kích thích xuất khẩu hàng hóa. Chính phủ các nước cũng đã thực hiện nhiều biện pháp thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu trong nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách, tuy nhiên những hành động này lại đưa đến nhiều dự đoán đưa ra về việc châu Âu khó có thể tránh được một cuộc khủng hoảng suy thoái vào năm 2011 và tình hình trì trệ nhiều năm sau đó do cách ngăn chặn khủng khoảng nợ liên quan đến việc giảm chi tiêu công, đồng nghĩa với các công ty cắt giảm nhân công, thất nghiệp gia tăng và tiêu dùng nội địa sụt giảm nhanh chóng. Tất cả những điều đó sẽ có thể dẫn đến 1 mức tăng trưởng chậm trong tương lai. 3.2.3. Hạn chế trong việc thúc đẩy được sự hợp nhất kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực : Có thể thấy liên minh kinh tế và tiền tệ EMU chưa thúc đẩy được sự hợp nhất giữa các nền kinh tế chính trong khối, nếu không muốn nói là ngược lại. Ban đầu, mức độ phát triển của các nước Eurozone khá đồng đều và là điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập khu vực. Tuy nhiên sau một thời gian hội nhập thì sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước trong Eurozone lại có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong khi Đức, Pháp nhanh chóng vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của Châu Âu thì sau khủng hoảng tài chính thế giới, thì những nền kinh tế nhỏ hơn đang phải vật lộn tìm chỗ đứng trên thị trường do sự suy giảm năng lực cạnh tranh và hơn nữa còn tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng nợ cao. Biểu đồ 11 : Biểu đồ về giá trị GDP của một vài nước châu Âu. Đơn vị : tỷ USD Nguồn : Việc ECB đưa ra được một chính sách tiền tệ có lợi cho tất cả các nước trong khối để đi đến hợp nhất về kinh tế là điều không dễ dàng và khó có thể trông đợi vào điều đó. Cách duy nhất để thực hiện việc hợp nhất như mong muốn là tạo ra một ngân sách chung thật lớn của các nước sử dụng đồng Euro, sau đó phân bổ tiền giữa các nước, giúp giảm bớt khoảng cách giữa họ. Tuy nhiên, muốn làm vậy, thì cần phải tăng thuế trên toàn Châu Âu, điều này khó mà khả thi được. Như vậy, sau hơn 10 năm hoạt động, đồng Euro hiện nay đang phải vất vả chống đỡ lại những khó khăn và thử thách lớn nhất từ khi được hình thành. Thời gian này như một liều thuốc thử đối với sức mạnh của đồng Euro: nếu có thể vượt qua khủng hoảng và lấy lại đà phát triển, trong tương lai, Euro sẽ trở thành một đồng tiền mạnh thực sự, đối trọng với đồng USD của Mỹ và điều đó sẽ là cơ sở vững chắc để liên minh kinh tế ở các khu vực khác, trong đó có khu vực Đông Nam Á học tập và làm theo mô hình đồng tiền chung. CHƯƠNG III KHẢ NĂNG THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á Quá trình tự do hóa thương mại: Ngày 8/8/1967, hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( tên viết tắt ASEAN) được thành lập với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapo, Philipin. Đây là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc gia trong khu vực. Sau hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình hợp tác kinh tế. Một số chương trình hợp tác về thương mại và công nghiệp quan trọng như Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Dự án công nghiệp ASEAN (AIP), Chương trình bổ trợ công nghiệp ASEAN (AIC), Chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) đã được ký kết và đưa vào thực hiện trong những năm 1970-1980. Tuy nhiên, kết quả của các chương trình hợp tác này rất hạn chế. Hợp tác kinh tế chỉ thành công khi Thái Lan đưa ra đề nghị khu vực thương mại tự do vào năm 1991. Đến nay, ASEAN đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực năng động và gắn kết của toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á (5 thành viên sáng lập, Brunei,Việt Nam, Lào, Myanmar, Campuchia ) với vai trò ngày càng quan trọng vì hòa bình, ổn định, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Sau khi Thái Lan đưa ra sáng kiến thành lập khu vực thương mại tự do Asean ( viết tắt là AFTA ) năm 1992, hiệp định AFTA được kí kết tại Singapo. Ban đầu chỉ có 6 nước ( 5 nước sáng lập và Brunei- gọi chung là ASEAN6), các nước gia nhập sau cũng được yêu cầu tham gia vào AFTA (gọi chung là các nước CLMV ). AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới. 3.1.1.Tiến trình cắt giảm hàng rào thuế quan Chính phủ các nước thành viên đã có những nỗ lực to lớn để giảm dần những rào cản thương mại, giảm dần hạn mức thuế quan nhằm thúc đẩy thương mại nội khối. Cho tới nay khu vực mậu dịch tự do (AFTA) đang từng bước được hình thành. Sáu nước thành viên cũ đã thực hiện kế hoạch giảm thuế xuống dưới 5% đối với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên khác (trừ một số mặt hàng trong danh mục loại trừ). Bốn nước thành viên mới cũng thực hiện kế hoạch tương tự vào năm 2006 (Việt Nam), 2008 (Lào và Myanmar) và 2010 (Campuchia). Biểu đồ 12: Tỉ lệ các mặt hàng nhóm IL được cắt giảm thuế theo CEPT Đơn vị : % Nguồn: Tổng hợp Bước ngoặt đến vào 2010, theo đó từ 1/1/2010, các nước ASEAN 6 đã xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan. Đến năm 2015, cơ chế cắt giảm thuế quan chung sẽ được mở rộng đến 4 nước thành viên còn lại là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar. Đây là một bước tiến quan trọng trong lộ trình tự do hóa thương mại trong khu vực, tạo điều kiện cho tự do lưu thông hàng hóa nội khối. Và cũng là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước ASEAN. Một vấn đề rất cơ bản để hưởng được thuế suất theo chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT) cho Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) là hàng xuất khẩu cần phải có giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN mà ta thường gọi là Form D. Nhưng hai năm qua việc nghiên cứu và khai thác cơ hội này của các doanh nghiệp còn thấp. Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN dùng Form D chiếm 0,57% tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Năm 2002, số lượng Form D đã cấp là 3.983 bộ, đạt kim ngạch 94,7 triệu USD, tăng 59% so với năm 2001. Đây cũng là cơ hội để thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các thành viên mới với các thành viên cũ. Sáu nước thành viên cũ sẽ dành hệ thống ưu đãi hội nhập ASEAN (AISP) cho các nước mới gia nhập Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam. Theo đó, Brunei sẽ dành một mặt hàng, Indonesia 50 mặt hàng, Malaysia 173 mặt hàng và Thái Lan 17 mặt hàng cho Việt Nam hưởng AISP. Các mặt hàng này sẽ được hưởng ngay mức thuế ưu đãi không phải chờ đến khi chuyển vào danh mục cắt giảm thuế ngay. 3.1.2.Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan Tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 42 (AEM 42) và Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN lần thứ 4 (AEC 4), các Bộ trưởng cũng cam kết xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan ( tiêu chuẩn chất lượng, hạn chế về định lượng, hạn chế về số lượng hàng hóa…) dưới mọi hình thức nhằm tận dụng triệt để lợi ích từ việc cắt giảm thuế. Theo hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) vừa được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu.doc
Tài liệu liên quan