Đề tài Khái quát về các nghiệp vụ ngân hàng thương mại hiện nay

Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ.

Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt.

Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3544 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khái quát về các nghiệp vụ ngân hàng thương mại hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển nhiều hơn. Bên cạnh đó sẽ có các dịch vụ chăm sóc khách hàng cá nhân tốt hơn. Mảng bán lẽ này sang năm 2009 sẽ là mảng đấu tranh quyết liệt nhất giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Sẽ có hàng loạt các dịch vụ mới được tung ra khi các mảng đầu tư lớn đang ẩn chứa nhiều rủi ro cao. Sang năm 2009 có thể các ngân hàng thương mại sẽ cùng ngân hàng trung ương tham gia vào việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hiện nay, đồng USD đang lên giá so với đồng nội tệ (tức là 1 USD có thể đổi lấy nhiều VND hơn trước) mà như thế sẽ tác động đến xuất khẩu (1USD đổi lấy nhiều VND hơn vì thế người ta sẽ muốn xuất khẩu nhiều hơn để lấy ngoại tệ và khi quy đổi ra nội tệ để sử dụng thì sẽ có lợi hơn). Lúc này sẽ có nhiều ngoại tệ hơn trong lưu thông và do đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm, lúc này cũng sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu. Vì vậy, ngân hàng trung ương cùng với ngân hàng thương mại sẽ góp tay vào việc bình ổn tỷ giá hối đoái trên thị trường. Lúc đầu sẽ có sự chênh vênh về tỷ giá hối đoái nhưng sau đó nó sẽ được bình ổn dần. Đối với những người muốn đầu cơ đồng USD thì có lẽ đây là thời điểm tốt. Năm 2009 là năm dè chừng các khoản cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ không dễ dãi cho vay mà sẽ suy xét cẩn thận hơn. Chính điều này sẽ làm các ngân hàng thêm vững, đầu tư sẽ không dàn trãi mà tập trung, do đó khả năng lợi nhuận cũng khả quan, bên cạnh đó tránh những rủi ro không cần thiết. Năm 2009, giá xăng sẽ còn giảm nhẹ, sau đó thì bình ổn một thời gian dài. Đây là thời điểm tốt để các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển. Khi nói đến đầu tư thì người ta nghĩ ngay đến ngân hàng với các khoản vốn cho vay. Thời gian sắp tới các ngân hàng sẽ bận rộn với việc xem xét các khoản cho vay của mình và lợi nhuận sắp tới của ngân hàng sẽ được tăng cao. Có lẽ không rực rỡ nhưng khả năng thu hồi vốn sẽ cao và đồng tiền sẽ trở nên lỏng hơn. NGIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ngiệp vụ ngân quỹ Khái niệm: Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào với mục đích đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán thường xuyên và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân Hàng Trung Ương đề ra.Theo quy định của NHNN Việt Nam hiện nay thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Các khoản mục trong nghiệp vụ ngân quỹ: giữ một lượng tiền mặt dưới các dạng sau: a/ Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng( vault cash ): gồm tiền giấy và tiền kim loại hiện có tại kho của ngân hàng. Nhu cầu dự trữ tiền mặt cao hay thấp tùy thuộc theo quy mô hoạt đông của ngân hàng, tính thời vụ, cũng như nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng. b/ Tiền gửi ở các ngân hàng khác: Nhiều các ngân hàng nhỏ gửi tiền ở các ngân hàng lớn để đổi lấy nhiều dịch vụ khác nhau như thanh toán giữa các ngân hàng, gia dịch ngoại tệ, giúp mua chứng khoán. Các ngân hàng cũng mở tài khoả_Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn n tại các ngân hàng khác để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng. c/ Tiền gửi tại các ngân hàng trung ương: Bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định của NHTW và tiền gửi thanh toán đẻ phục vụ các hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng thong qua vai trò trung gian thanh toán của NHTW. Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có tính lỏng cao đẻ có thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóngkhi cần như tín phiếu, thương phiếu… Các bộ phận trên hình thành nên phàn dự trữ của ngân hàng thương mại. Mặc dù dự trữ của ngân hàng thương mại không tạo nên lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho ngân hàng.Vì thế nó hạn chế rủi ro thanh khoản, nâng cao uy tín cho ngân hàng, tạo nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay: Khái niệm: cho vay là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế. Đây có thể nói là nghiệp vụ chính của các ngân hàng thương mại. Trong thực tế các ngân hàng có rất nhiều hình thức cho vay khác nhau để có thể đáp ứng các nhu cầu vay của nhiều đối tượng trong xã hội như : phân theo thời gian có vay ngắn hạn, vay trung hạn và vay dài hạn. Phân theo đối tượng ta có vay tiêu dùng và vay cho sản xuất, hay các dịch vụ trả góp của ngân hàng cũng là một hình thức cho vay của ngân hàng. 2. Hoạt động cho vay tiêu dùng ở Việt Nam Do những lợi ích mà cho vay tiêu dùng mang lại, nhiều NHTM Việt Nam hiện nay đã thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng. Các hình thức cho vay tiêu dùng rất phong phú như cho vay mua nhà mới, sửa nhà, cho vay mua ô tô, du học, đồ dùng gia đình và các sản phẩm khác. Các ngân hàng đã triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng gồm có các ngân hàng thương mại Nhà nước như Vietcombank, ngân hàng công thương, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng đầu tư Việt Nam. Bên cạnh đó, các ngân hàng cổ phần cũng tham gia rất tích cực vào thị trường mới mẻ này như ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam, ngân hàng Á Châu (ACB), ngân hàng cổ phần quân đội, ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng Cổ phần nhà Hà Nội… 3. Ngân hàng đồng loạt mở lại các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, nhưng cửa cho vay đã thực sự thoáng? Trong thời gian gần đây nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đồng loạt thông báo chính thức mở cửa cho vay tiêu dùng, sau khi “nút thắt” lãi suất đã được Ngân hàng Nhà nước gỡ. Những ghi nhận ban đầu cho thấy, có vẻ nghiệp vụ này đã thoáng hơn ở các hạn mức tín dụng và lãi suất vay vốn. Hạn mức 500 triệu đồng Trong năm 2007, năm tín dụng tiêu dùng bùng nổ, thị trường ghi nhận những hạn mức cho vay tín chấp cán bộ điều hành doanh nghiệp lên tới 200 - 300 triệu đồng. Sau gần một năm bị siết chặt từ khó khăn thanh khoản trước đó và cơ chế lãi suất trần về sau, trong sự trở lại trên diện rộng từ giữa tuần này, thị trường ghi nhận kỷ lục về hạn mức cho vay tiêu dùng tín chấp tới 500 triệu đồng. Kỷ lục trên có ở Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank). Cụ thể, theo thông báo của ngân hàng này, khách hàng là cán bộ, nhân viên của các tổ chức, doanh nghiệp có thể vay vốn mà không cần tài sản bảo đảm và không cần bảo lãnh trả thay của công ty với hạn mức vay có thể lên đến 500 triệu đồng, thời hạn cho vay tối đa là 36 tháng. Theo ông Nguyễn Đức Hưởng, Tổng giám đốc LienVietBank, “mặc dù tín chấp tiêu dùng chứa đựng nhiều rủi ro (không có tài sản đảm bảo) nhưng nếu quy định rõ ràng, cụ thể với quy trình quản lý chặt chẽ thì đây chính là thị trường đầy tiềm năng để các công ty tài chính và ngân hàng khai thác, đặc biệt là trong hoàn cảnh các chính sách vĩ mô đang hướng tới việc đẩy mạnh phát triển kinh tế như hiện nay”. Ngoài ra, ông Hưởng cho biết thêm, đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng tham gia kích cầu là một trong những mục tiêu lớn của LienVietBank trong năm 2009. Đầu tuần này, một ngân hàng cổ phần lớn là Sacombank cũng khẳng định tiếp tục đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng, tham gia kích cầu tiêu dùng bên cạnh việc triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Cùng thời điểm trên, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) cho biết sẽ dành một gói 2.000 tỷ đồng để hỗ trợ cho các khách hàng cá nhân vay vốn tiêu dùng, cải thiện đời sống. Ngân hàng này còn áp dụng cơ chế tặng hợp đồng bảo hiểm “đính kèm” với giá trị tối đa lên tới 800 triệu đồng… Cửa đã thực sự thoáng? Ngày 23/1, Ngân hàng Nhà nước có Thông tư số 01, hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Văn bản này chính thức tạo điều kiện để tín dụng tiêu dùng tìm hướng trở lại. Với văn bản trên, các tổ chức tín dụng được thực hiện lãi suất thoả thuận đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, được xác định giới hạn tín dụng liên quan… Ngay sau văn bản trên, tại một ngân hàng thương mại cổ phần, một số nhân sự chủ chốt đã được trả lại đúng vị trí để mở lại nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, sau một thời gian bị điều chuyển do nghiệp vụ này bị đóng chặt. Phó phòng Tín dụng ngân hàng trên cho biết, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã “bật đèn xanh”, nhưng việc triển khai cụ thể của ngân hàng mình vẫn đang dè chừng. Trước hết, phải chờ đợi phản ứng của các ngân hàng bạn, phải đánh giá lại thực tế của nhu cầu thị trường, hoạch định cơ chế kiểm soát rủi ro, lãi suất và xây dựng các hạn mức liên quan… Theo đánh giá của ông, với sự trở lại này, nhiều ngân hàng sẽ thận trọng, đặc biệt là trong định hướng tăng trưởng tín dụng, giám sát rủi ro và chính sách lãi suất phù hợp. Tại LienVietBank, mức lãi suất cho vay loại này thấp nhất là 1%/tháng, ứng với 12%/năm; được cho là mức thấp nhất trên thị trường hiện nay. Tại một số ngân hàng thương mại khác, mức thấp nhất được ghi nhận ở mức 13,8%/năm, cao nhất là 15%/năm; nhiều thành viên áp phổ biến quanh mốc 14%/năm. Theo phân tích của cán bộ tín dụng trên, dù thời gian qua lãi suất cho vay đã liên tục giảm, so với năm 2008 có vẻ đã xuống mức thấp và hấp dẫn đối với các nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, người tiêu dùng đã thận trọng hơn trong cơ chế thực hiện các mức lãi suất nói trên. “Trong năm 2008, nhiều người phải vay loại này với lãi suất lên tới 2%/năm. Đó là một mức cao. Cũng có thể vay được mức thấp hơn, nhưng thực tế chưa chắc đã có lợi, cũng như lãi suất 14% hay 15%/năm như hiện nay chưa hẳn đã thoáng”, ông này nhận định. Cụ thể, trong thời gian qua, nhiều ngân hàng cho vay tiêu dùng với lãi suất “add - on” (lãi suất tính trên tổng vốn gốc trong suốt thời hạn vay). Theo đó, có vẻ mức lãi suất thấp nhưng người vay vẫn phải trả trên tổng vốn vay ban đầu, dù dư nợ thực tế đã giảm dần. Hiện nay, trong sự trở lại nói trên, độ thoáng của các mức lãi suất 14% - 15% còn phụ thuộc vào cơ chế của các sản phẩm. Với các sản phẩm tính theo cơ chế lãi suất “add-on” nói trên, đó vẫn là một rào cản lớn. Mặt khác, với biến động của lãi suất như đã từng diễn ra trong năm 2008, người vay vốn trở nên thận trọng hơn với các kỳ điều chỉnh, bởi các khoản vay thường có kỳ hạn từ 2 - 4 năm, trong khi tình hình lãi suất hiện nay không chắc sẽ tiếp tục ổn định trong những năm. II. Nghiệp vụ đầu tư tài chính 1. Khái niệm: Đầu tư tài chính là một hình thức đầu tư chủ yếu thông qua hình thức,mua chứng khoán, trái phiếu hoặc thông qua công cụ tài chính khác. Nhà đầu tư tài chính thông thường chỉ nhắm vào mục đích mua và bán chứ ít làm tăng giá trị thực của công ty mà họ đầu tư vào. 2. Thực trạng đầu tư tài chính: Các ngân hàng thương mại thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như : • Hùn vốn, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp; việc hùn vốn mua cổ phần chỉ được phép thực hiện bằng vốn tự có của ngân hàng. • Mua trái phiếu Chính phủ, chính quyền điạ phương. • Mua trái phiếu công ty… Tất cả mọi hoạt động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm đa dạng hóa thu nhập nhưng mặc khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán. Ngoài ra, nếu đầu tư vào trái phiếu Chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp. Vì vậy, các NHTM có xu hướng tập trung nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Các ngân hàng thương mại thành lập các công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ đầu tư, , một số ngân hàng còn phối hợp với các tập đoàn tài chính kinh tế lớn hình thành công ty đầu tư tài chính, Việc đẩy mạnh đầu tư tài chính và hình thành các công ty chuyên đầu tư tài chính là điều kiện tốt để các ngân hàng tạo thêm lợi nhuận, Chẳng hạn, song song với việc đầu tư qua CTCK trực thuộc SBS, Công ty quản lý Quỹ VFM, Sacomreal..., ngày 25/7/2007, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã phối hợp với Toàn Thịnh Phát và Công ty Thành Thành Công chính thức ra mắt Công ty cổ phần Đầu tư Sài Gòn Thương Tín (SacomInvest), với tổng vốn điều lệ ban đầu lên đến 300 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ góp vốn của Sacombank là 11%. Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch HĐQT Sacombank cho rằng, việc thành lập Công ty nhằm đáp ứng một cách tốt nhất và trọn gói nhu cầu về tài chính của tất cả các đối tượng khách hàng, từ doanh nghiệp đến các cá nhân. Đồng thời, qua đó sẽ dần hình thành nền tảng cho một tập đoàn tài chính đa chức năng trong tương lai của Sacombank. Không chỉ Sacombank, hiện DongA Bank, ABBANK cũng đã cơ cấu danh mục bỏ vốn đầu tư. Trong kế hoạch tăng vốn lên 2.800 tỷ đồng 2007, DongA Bank sẽ sử dụng một phần cho việc hùn vốn để liên doanh. Ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc DongA Bank cho biết, hiện hoạt động liên doanh, liên kết và tài trợ đầu tư của Đông Á với các đơn vị kinh tế đang có nhiều triển vọng. Hoạt động này sẽ giúp các đơn vị kinh tế có điều kiện thực hiện những dự án đầu tư cần vốn lớn và trong thời gian dài. Do vậy, DongA Bank dự kiến dành khoảng 5% tổng vốn điều lệ cho hoạt động trên. Còn ABBANK có kế hoạch tăng vốn điều lệ lên 5.000 tỷ đồng trong năm nay để triển khai các kế hoạch đầu tư tài chính, như mua lại cổ phần của các doanh nghiệp tiềm năng, đầu tư vào các dự án bất động sản triển vọng. Ông Lưu Đức Khánh, Tổng giám đốc ABBANK cho rằng, trước đây, với việc tăng vốn điều lệ, các ngân hàng thường phải chịu áp lực lớn về cổ tức và đảm bảo lợi nhuận, nhưng hiện nay, ngoài việc kinh doanh truyền thống, còn có nhiều kênh khác để bỏ vốn đầu tư. Vì vậy, họ không quá lo lắng khi thừa vốn và thiếu khách hàng đến vay. Trao đổi với Đầu tư, ông Phạm Văn Thiệt, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) cũng cho hay, đầu tư tài chính là hướng đầu tư mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng. Hiện Việt Nam chưa có ngân hàng đầu tư, nên các ngân hàng thương mại phải kiêm luôn việc đầu tư tài chính. Với Eximbank, tổng nguồn vốn dành cho việc đầu tư tài chính trong năm 2007 lên đến 9.000 tỷ đồng (dựa trên tổng tài sản dự kiến đến hết năm 2007 đạt 30.000 tỷ đồng). Trong đó, trái phiếu chiếm 70% và 30% còn lại được Ngân hàng đầu tư vào thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên cuộc khoảng hoảng tài chính năm 2008 đã ảnh hưởng tới sự đầu tư tài chính của các cá nhân, tổ chức, cũng như các ngân hàng thuơng mại, lượng đầu tư tài chính giảm, kinh doanh trên thị trường cổ phiều cũng giảm. Cụ thể đầu tư tài chinh, góp vôn đầu tư dài hạn của ngân hàng BIDV báo cáo trong ngày 31/12/08 đó là 2.753.072 triệu đồng, chứng khoán đầu tư 31394.906 triệu đồng. Ngân hàng Phương Đông trong báo cáo cuối năm 2008 thì góp vốn và đầu tư dài hạn là 203.088 triệu đồng, chứng khoán kinh doanh là 73.660 triệu đồng giảm 95,313 triệu đồng’ Một số nghiệp vụ khác  Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt.   Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.  Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.  Cung cấp các tài khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ.  Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust service).  Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.  Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.   Dịc vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế  Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm.  Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn).  NGHIỆP VỤ TÀI SẢN NỢ VÀ VỐN TỰ CÓ CỦA NGÂN HÀNG Thực trạng huy động vốn của các ngân hàng thương mại 1. Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%. Hệ thống NHTM quốc doanh chiếm trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào. 2. Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư thông qua kênh hệ thống ngân hàng vào nền kinh tế chiếm trung bình 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong thời gian qua, để tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh, các ngân hàng thương mại cổ phần liên tục mở rộng quy mô, mạng lưới họat động và tăng năng lực tài chính thông qua việc tăng vốn điều lệ Theo bản báo cáo này theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đang được các ngân hàng thương mại công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Ngân hàng thương mại cổ phần Phú Mĩ Xuyên thời điểm hết năm 2007, tổng tiền gửi và vay tổ chức tín dụng khác lên tới 624 tỷ đồng, tăng mạnh so với 166 tỷ đồng của năm 2006. Trong khi đó, vốn huy động từ khách hàng chỉ có 328,7 tỷ đồng, tăng hơn 3 lần so với mức 109 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy trong cơ cấu nguồn vốn 952,7 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường 2, tức là trên thị trường liên ngân hàng chiếm tới 65,5%. Cũng tại thời điểm này, dư nợ cho vay khách hàng là 1.266 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 392,9 tỷ đồng cuối năm 2006. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định có quy mô rất khiêm tốn trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, cũng tính đến hết năm 2007 tổng số tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 840 tỷ đồng, gấp 5 lần mức 168 tỷ đồng hết năm 2006; trong khi đó, tiền gửi và huy động từ khách hàng chỉ đạt 417 tỷ đồng, tăng rất chậm so với mức 332 tỷ đồng năm trước. Tính chung trong cơ cấu nguồn vốn huy động 1.257 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên thị trường liên ngân hàng chiếm tới 66,8%; trong khi dư nợ cho vay khách hàng là 1.049 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2006. Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn huy động Một số ngân hàng thương mại cổ phần khác mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ cũng có tỷ trọng vốn đi vay trên thị trường liên ngân hàng cao tương tự như hai ngân hàng thương mại cổ phần nói trên. Một ngân hàng khác thuộc nhóm quy mô khá, đó là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế, cũng tính đến hết năm 2007 có tổng số tiền gửi và tiền vay các tổ chức tín dụng khác là 12.846,6 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 3.429,3 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động từ khách hàng là 17.686,7 tỷ đồng, tăng khoảng 1,7 lần so với mức 9.813,5 tỷ đồng cuối năm 2006. Tương tự, trong cơ cấu nguồn vốn huy động là 27.500,2 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm 46,7%. Về sử dụng vốn, riêng dư nợ cho vay khách hàng là 16.611 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 9.058,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế cũng có số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác là 12.347 tỷ đồng, gấp gần 4 lần năm 2006. Cũng thuộc nhóm có quy mô khá, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương đến hết năm 2007 có tổng tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 8.458,9 tỷ đồng, tăng gần 1,7 lần so với mức 5.077,8 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng là 24.476,6 tỷ đồng, tăng khoảng 2,5 lần so với mức 9.566 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng nguồn vốn huy động là 32.934,9 tỷ đồng, thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm 25,7%. Tuy nhiên, cũng tại thời điểm nói trên Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương có số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác là 9.303,6 tỷ đồng, lớn hơn số tiền huy động trên thị trường liên ngân hàng. Dư nợ cho vay đến hết năm 2007 là 20.486 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với mức 8.696 tỷ đồng cuối năm 2006. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, đến hết năm 2007 có tổng số dư tiền gửi và tiền vay tổ chức tín dụng khác là 10.805,5 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với mức 4.858 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động của khách hàng là 8.467 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 4.484,8 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng nguồn vốn huy động 15.290,3 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng 70,7%. Tuy nhiên, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội cũng có số dư tiền gửi và cho vay tổ chức tín dụng khác là 10.894 tỷ đồng, gấp 3 lần năm 2006. Tại thời điểm này, dư nợ cho vay khách hàng là 9.285,8 tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần năm 2006. NGIỆP VỤ TIỀN GỬI Khái niệm: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doang nghiệp vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó NHTM có thể huy động và được sử dụng vào kinh doanh.Ngoài ra NHTM còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích lấy lãi suất, được gọi là các khoản tiền tiết kiệm Thực trạng: Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mặt bằng lãi suất huy động VND tháng 7 tăng từ 0,3-0,6%/năm. Hiện lãi suất huy động bình quân của ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước khoảng 8,24%/năm, của NHTM cổ phần khoảng 8,62%/năm. Lãi suất cho vay giữ ổn định ở mức 8,5 - 10,5%/năm. Mức lãi suất cho vay sau khi được hỗ trợ lãi suất phổ biến ở mức 4,5-6%/năm. Mặc dù lãi suất cơ bản được giữ nguyên, các ngân hàng vẫn điều chỉnh tăng lãi suất huy động để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng vừa nhằm cạnh tranh với các ngân hàng khác. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tháng 7-2009 ước tăng 2,75% so với cuối tháng trước và tăng 20,92% so với cuối nă

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docngan hang tm.doc
Tài liệu liên quan