Đề tài Kiểm toán Nhà nước - Công cụ đắc lực trợ giúp Quốc hội

MỤC LỤC

Trang

A- Phần mở đầu 1

B. Phần mở đầu 3

I. Tổng quan về KTNN: 3

1. Sự ra đời và phát triển của KTNN. 3

2. Bản chất và chức năng của Kiểm toán Nhà nước : 4

2.1. Chức năng, nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam: 4

2.3. Nguyên tắc hoạt động: 5

3. Nhiệm vụ và quỳên hạn của Kiểm toán Nhà nước: 6

3.1. Kiểm toán Nhà nước có những nhiệm vụ cơ bản sau : 6

3.2. Quyền hạn của cơ quan Kiểm toán Nhà nước: 7

4. Tính chất của hoạt động Kiểm toán Nhà nước và trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước và các đơn vị được kiểm toán . 8

4.1. Các cuộc kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước mang tính chất bắt buộc: 8

4.2. Trách nhiệm của các đơn vị được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán 8

5. Mô hình bộ máy Kiểm toán Nhà nước . 9

5.1. Tổ chức bộ máy : 9

5.2. Mô hình xử lý các quan hệ: 10

II. Mối liên hệ về vị trí pháp lý của cơ quan kiểm toán nhà nước và quốc hội: 13

1. Vị trí và vai trò của Quốc Hội: 13

2. Vị trí pháp lý của cơ quan Kiểm toán Nhà nước: 14

III. Hoạt động của kiểm toán nhà nước trong việc trợ giúp quốc hội : 15

IV. Những thành tựu và hạn chế . 22

1. Những thành tựu của Kiểm toán Nhà nước trong công việc trợ giúp Quốc hội: 22

2. Những hạn chế của KTNN trong công việc trợ giúp Quốc hội: 25

V. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp Quốc hội của KTNN. 29

C - Kết luận 36

Danh mục tài liệu tham khảo 37

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm toán Nhà nước - Công cụ đắc lực trợ giúp Quốc hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong lĩnh vực Ngân sách Nhà nước, Quốc hội thực hiện quỳên quýêt định dự toán Ngân sách Nhà nước , phân bổ Ngân sách Trung Ương và phê chuẩn tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước. Đồng thời, Quốc hội thực hiện quyền giám sát việc chấp hành dự toán Ngân sách Nhà nước, thực thi các chế độ tiêu chuẩn định mức chi Ngân sách và các chính sách tài chính vĩ mô thực hiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để thực hiện đúng chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của mình, bên cạnh việc đổi mới cơ cấu tổ chức, tăng cường năng lực đại biểu Quốc hội, cần phải có công cụ hỗ trợ hoạt động lập pháp cũng như giám sát về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Một trong những công cụ hữu hiệu để Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình là Kiểm toán Nhà nước. 2. Vị trí pháp lý của cơ quan Kiểm toán Nhà nước: Hiện nay hầu hết các nước trên Thế giới đều có nhiều tổ chức thực hiện Kiểm toán (Kiểm toán tối cao, Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ) với lực lượng đông đảo Kiểm toán viên hoạt động trong lĩnh vực này và đã hình thành các hiệp hội như : Tổ chức Quốc tế cá cơ quan Kiểm toán tối cao (ASOSAI) mà Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên.Trong khuôn khổ bài viết, đã đề cập đến loại hình kinh tế là Kiểm toán Nhà nước . Mỗi Quốc gia có quy định khác nhau về mô hình tổ chức cũng như về quan hệ trách nhiệm và vị trí của kinh tế Nhà nước trong hệ thống các cơ quan quyền lực Nhà nước(thể hiện quan hệ trực thuộc của kinh tế Nhà nước). Có thể quy vào 4 loại mô hình sau: + Đứng độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp, như: Đức, Pháp… + Trực thuộc cơ quan lập pháp ( Quốc Hội) , như : Thụy Diển , Thai Lan… + Trực thuộc cơ quan Hành pháp (Chính Phủ) như : Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia… + Trực thuộc người đứng đầu Nhà nước (Tổng thống) như : Hàn Quốc… Nhìn chung cơ cơ quan Kiểm toán Nhà nước củahầu hết các nước trên Thế giới được đặt ở vị trí độc lập với cơ quan hành pháp. Khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm toán nhà nước chỉ tuân thủ pháp luật và được pháp luật bảo vệ để tránh khỏi sự chi phối và tác động của các “can thiệp” từ bên ngoài. Khi cơ quan Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ hoặc Tổng thống thì ít nhiều có sự hạn chế tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện chức năng của nó, vì người kiểm tra và người bị kiểm tra đều đặt dưới sự kiểm sóat của một chủ thể. ở Việt nam, Kiểm toán là một lĩnh vực mới, một công cụ quản lý mới được sử dụng và nó đã khẳng định tính hiệu quả trong thực tiễn, góp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh và ngăn ngừa tham nhũng, gian lận và lãng phí tiền bạc, tài sản Nhà nứơc. Tuy nhiên, Kiểm toán Nhà nước ở Vệt Nam được thành lập, hoạt động dựa trên Nghị định 70/CP có tính pháp lý chưa cao, chưa có tính ổn định và quyền hạn còn hạn chế chưa phù hợp với tính chất đặc biệt của hoạt động Kiểm toán Nhà nước. III. Hoạt động của kiểm toán nhà nước trong việc trợ giúp quốc hội : Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai tiền đề khách quan là Nhà nước và kinh tế hàng hóa - tiền tệ. Nếu dựa vào biểu hiện bên ngoài thì Ngân sách Nhà nước là một bảng dự toán thu, chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định ( thường là một năm) do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định . Trên giác độ này, khi đề cập đến Ngân sách Nhà nước, có thể thấy Ngân sách Nhà nước là một quỹ tiền tệ luôn gắn liền với chủ thể là Nhà nước. Nếu xét về bản chất và luôn dặt trong trạng thái động thì ngân sách Nhà nước được coi là kế hoạch tài chính vĩ mô, là khâu tài chính chủ đạo trong hệ thống tài chính Nhà Nước, được Nhà nước sử dụng để phân phối một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá tại nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính chủ yếu theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp. Như vây, bản chất chung của Ngân sách Nhà nước được hiểu là “Ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa các Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại giá trị của cải xã hội, nhằm chung một phần nguồn lực tài chính vào trong tay Nhà nước để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.” Việc quản lý Ngân sách Nhà nước phải tuân theo một chu trình (còn gọi là quá trình) nhật định, đó là toàn bộ hoạt động của Ngân sách từ khi bắt đầu hình thành đến khi kết thúc, chuyển sang Ngân sách mới. Các khâu của quá trình Ngân sách bao gồm lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách Nhà nước. Mỗi khâu của chu trình Ngân sách có tác dụng quản lý Ngân sách Nhà nước và tác động qua lại lẫn nhau, bổ trợ nhau trong quản lý, đảm bảo quản lý Ngân sách Nhà nức một cách có hiệu quả. Kiểm tra, kiểm soát Ngân sách Nhà nước là một hoạt động quan trọng, đảm bảo cho Ngân sách Nhà nước được quản lý chặt chẽ,tuân theo cac quy định của pháp lụât và có hiệu quả. Mặt khác, qua công tác kiểm tra, kiểm soát Ngân sách Nhà nước sẽ góp phần kiểm nghiệm tính phù hợp của ácc Văn bản pháp luật, của chính sách Nhà nước, phát hiện những bất hợp lý nhằm bổ sung, sửa đổi kịp thời. Kiểm tra, kiểm soát Ngân sách Nhà nước bao trùm tất cả các khâu của quá trình Ngân sách từ lập, chấp hành đến quyết toán Ngân sách Nhà nước. Rất nhiều công cụ được sử dụng trong kiểm tra, kiểm soát ngân sách như: kế toán, thanh tra, kiểm tra, kiểm tóan ngân sách. Mỗi công cụ thực hiện chức năng riêng và có thế mạnh rieng trong qủan lý, đồng thời các công cụ kiểm tra có tác dụng bổ trợ cho nhau nhằm quản lý Ngân sách Nhà nước một cách tốt hơn. Chúng ta đã biết, Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, thực hiện quyền lập pháp và giá sát đối với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, quyết đinh dự toán Ngân sách Nhà nước và phân bổ Ngân sách Trung ương , phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước. Vậy công cụ nào hỗ trợ Quốc hội trong việc giám sát Ngân scáh Nhà nước, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước cũng như quyết định các chính sách tài chính , tiền tệ quốc gia? Trong rất nhiều công cụ thì Kiểm toán Nhà nước là công cụ đắc lực nhất trợ giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ và quyền lợi của mình. Đa số các nước trên thế giới đã hình thành và phát triển Kiểm toán Nhà nước hàng trăm năm nay để thực hiện chức năng kiểm tra tài chính Nhà nước, mà trọng tâm là ngân sách Nhà nước. Các quốc gia dù có thể chế chính trị khác nhau nhưng đều sử dụng Kiểm toán Nhà nước như một công cụ quan trọng trong kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính của Nhà nước. Mọi hoạt liên quan đến tài chính Nhà nước và tài sản Nhà nước đều chịu sự kiểm tra của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là các cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính Nhà nước và tài sản Nhà nước. Ngoài việc kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của số liệu báo cáo quyết toán Ngân sách, cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới dù trực thuộc Quốc hội , Chính phủ hay tổ chức theo mô hình nào cũng đều được đảm bảo tính độc lập, đây là đặc trưng cơ bản của hoạt động kiểm toán. Cơ quan Kiểm toán chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ một cách khách quan và thực sự hiệu quả khi có vị trí độc lập với cơ quan bị kiểm tra và được bảo vệ trước những tác động từ bên ngoài. Qua hoạt động thực tiễn của Ngân sách Nhà nước gần 10 năm qua, và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Kiểm toán Nhà nước có thể thực hiện vai trò của mình trong việc quản lý Ngân sách Nhà nước, trợ giúp Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp thực hiện chức năng giám sát về tài chính thông qua một số nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất: Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán và cung cấp thông tin cho Quốc hội, Hội đồng Nhân dân để xem xét, phê chuẩn, quyết toán Ngân sách Nhà nước. Đây là công việc kiểm soát sau ( gọi là hậu kiểm) - Một chức năng vốn có và mang tính chất truyền thống của Kiểm toán Nhà nước. Tất cả các cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên Thế giới đều thực hiện chức năng này và đây là nhiệm vụ không thể thiếu trong việc trợ giúp quốc hội phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước hàng năm. Vấn đề này cũng được khẳng định trong tuyên bố của LIMA của INTOSAI: “…kiểm toán sau là một nhiệm vụ không thể thiếu được của cơ quan Kiểm toán Nhà nước, không lệ thuộc vào việc nó có được kiểm toán trước hay không”. Kiểm tra sau của Kiểm toán Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc xem xét tính tuân thủ trong quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước mà còn xem xét các khía cạnh về tính hợp lý và điều hành của Chính phủ; xem xét tính hiệu lực, hiệu quả trong các khoản chi của Ngân sách Nhà nước. Tuyên bố của LIMA nêu rõ: “ Kiểm toán sau do cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện chỉ rõ trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ báo cáo có thể dẫn tới bồi hoàn thiệt hại đã xảy ra và là việc làm thích hợp để ngăn chặn những tái phạm sau này”. Một số nước còn quy định báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước trình Quốc hội có ý kiến xác nhận của Tổng Kiểm toán Nhà nước rằng báo cáo đã được kiểm toán và đảm bảo tính trung thực, kèm theo các quyết toán trình quốc hội là báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về công tác quản lý, điều hành Ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những nguồn thông tin và căn cứ để Quốc hội thảo luận và phê chuẩn Ngân sách Nhà nước, giải tỏa trách nhiệm cho Chính phủ về năm Ngân sách đã qua. Thứ hai: Kiểm toán Nhà nước(KTNN) góp phần quan trọng trong việc lập, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước hàng năm. Chúng ta có thể thấy rằng, tài liệu về dự toán Ngân sách Nhà nước không chỉ chứa đựng những vấn đề chính trị, kinh tế chủ yếu của một quốc gia mà còn là những tài liệu mang tính nghiệp vụ cao đòi hỏi phải được kiểm tra xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định. Nguồn lực Ngân sách Nhà nước đòi hỏi phải được phân bổ để đạt được những mục tiêu đã đề ra, hạn chế tình trạng lạm dụng trong việc phân bổ Ngân sách. Vì vậy, cần phải có một cơ quan độc lập, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cần thiết đánh giá toàn bộ diễn biến của quá trình lập dự toán. Cơ quan kiểm toán Nhà nước có thể chỉ ra những sai lệch của dự toán Ngân sách Nhà nước so với các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm. Đây là hình thức tiền kiểm của Kiểm toán Nhà nước, đảm bảo các nguồn lực được động viên và phân bổ vào những mục tiêu mà quốc gia theo đuổi cũng như tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của ácc khoản chi của Ngân sách Nhà nước; tránh được những sai phạm ngay từ khi lập và phân bổ dự toán…hình thức Kiểm toán trước và kiểm toán Nhà nước cũng đã được khẳng định trong tuyân bố của LIMA: “ Kiểm toán trước một cách có hiệu quả là điều không thể thiếu được đối với một nền kinh tế công cộng, lành mạnh với tư cách là một nền kinh tế thác quản - phân cấp và ủy quyền”. Kinh nghiệm cho thấy, nhiều nước trên thế giới đều sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong việc Kiểm toán dự toán Ngân sách Nhà nức hàng năm trước khi trình Quốc hội quyết định. Việc tham gia của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong việc lập dự toán ở mỗi nứơc có hình thức và mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung đều đưa ra ý kiến phản biện về dự toán Ngấn sách Nhà nước do Chính phủ trình làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định. Vấn đề tham gia lập dự toán Ngân sách Nhà nước đối với cơ quan Kiểm tóan Nhà nước ở Việt Nam cho đến nay chưa được đề cập đến trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hàng năm khi tổ chức hội nghị xem xét, thẩm tra dự toán Ngan sách Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước được mời tham dự theo yêu cầu của ủy ban Kinh tếvà ngân sách của Quốc hội. Cụ thể là, tham gia thẩm định , đánh giá dự toán Chính phủ trình Quốc hội để cung cấp thông tin cho việc thảo luận ngân sách Nhà nước taị Quốc hội: sau khi dự toán Ngân sách Nhà nước hoàn chỉnh trước khi trình Quốc hội được gửi tới cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Bằng kinh nghiệm Kiểm toán cũng như thông tin thu nhập được trong quá trình tham gia với các bộ, ngành, địa phương tham gia với bộ tài chính khi lập dự toán Ngân sách nhà nước, Kiểm toán Nhà nước thực hiện thẩm định, đánh giá tổng thể về Dự toán Ngân sách Nhà nước trình Quốc hội. Yêu cầu Kiểm tóan Nhà nước bày tỏ ý kiến một cách độc lập về dự toán Ngân sách Nhà nước mà Chính phủ trình Quốc hội và khẳng định một số vấn đề : - Khẳng định dự toán đã được lập theo đúng trình tự của quy trình lập ngân sách. - Đối với những khoản chi cho các chương trình, dự án quốc gia, Kiểm toán Nhà nước có ý kiến về sự cần thiết tiến hành xây dựng một công trình hoặc dự án cụ thể trong khả năng của nền kinh tế quốc gia và chiến lược phát triển trong tương lai. - Kiểm toán nhà nước đưa ra ý kién độc lập của mình về phân bổ dự toán thu, chi, cơ cấu thu, chi và mức bội chi; mức huy động từ nội lực nền kinh tế trong dự toán; việc phân bổ vốn đầu tư, cơ cấu chi đầu tư và chi thường xuyên, chi trả nợ…Kiểm toán Nhà nước cũng đưa ra những vấn đề mà ý kiến của Kiểm toán Nhà nước khác với các Bộ, ngành, và Bộ tài chính làm căn cứ cho Quốc hội thảo luận và phê chuẩn. - Kiểm toán Nhà nước đưa ra ý kiến độc lập về chính sách và giải pháp của Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện dự toán Ngân sách Nhà nước. Đây là ý kiến quan trọng để Quốc hội thảo luận và quyết định các giải pháp phát triển kinh tế xã hội và dự toán Ngân sách Nhà nước năm kế hoạch. Tuy nhiên, do không đủ nguồn thông tin và thời gian nên việc tham gia của Kiểm toán Nhà nước trong việc lập kế hoạch và quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước hàng năm chưa mấy hiệu quả. Thứ ba: Kiểm toán Nhà nước trợ giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm của Quốc gia.Việc đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia không chỉ tiêu tốn một lượng lớn tiền của mà còn liên quan đến chiến lược phát triển của một Quốc gia. Điều đó đòi hỏi không chỉ xem xét về mặt kỹ thuật mà còn phải xem xét các khía cạnh về kinh tế – xã hội…Trong điều kiện đó, nếu không có một cơ quan độc lập với cơ quan soạn thảo, có đủ năng lực về chuyên môn, tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi Chính phủ, Quốc hội thảo luận và quyết định sẽ gây những rủi ro cho những nhà ra quyết định. Kinh nghiệm của nhiều nước, nhất là các nước có lịch sử phát triển Kiểm toán Nhà nước lâu đời đều giao cho các cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này. Điển hình về giao cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này ở một số nước như : Đức, áo, ấn độ , Nhật bản, Trung quốc, Malaysia, Indonesia… Thứ tư: Kiểm tóan Nhà nước tham gia với Quốc hội trong việc quyết định các chính sách, trong việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính ngân sách. Đây là hoạt động tư vấn của cơ quan Kiểm toán Nhà nước với Quốc hội. Bằng kinh nghiệm kiểm toán, Kiểm tóan Nhà nước phát hiện những bất cập trong bản thân những văn bản pháp luật, phát hiện hiện tượng thực tế phát sinh mà luật chưa đề cập. Thông qua đó, kiến nghị với cơ quan lập pháp trong việc ban hành các văn bản pháp luật. Trong quyết định các chính sách về tài chính ngân sách của quốc gia, cơ quan Kiểm tóan Nhà nước , với kinh nghiệm chuyên môn , tư vấn cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội để quyết định chính xác, đảm bảo tính khả thi. Các ý kiến tham gia của Kiểm toán Nhà nước sẽ tạo nên luồng thông tin đa chiều, làm cơ sở cho việc thảo luận và quyết định. Vấn đề này được nhiều nước trên thế giới sử dụng một cách có hiệu quả như : Trung Quốc, Malaysia, Đức, Pháp , áo…ở việt Nam, việc tham gia vào các văn bản pháp luật hiện nay được thực hiện theo yêu cầu của các cơ quan soạn thảo theo quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Như vậy, các ý kiến của cơ quan Kiểm toán Nhà nước chỉ tham gia với cơ quan soạn thảo mà chưa cung cấp cho các cơ quan của Quốc hội. Mặt khác, đây cũng là vấn đề mới ở Việt nam và Kiểm toán Nhà nước cũng mới được thành lập nên hoạt động này chưa mấy phát triển. Thứ năm: Kiểm tóan Nhà nước cung cấp các thông tin dữ liệu cho các cơ quan quản lý phục vụ tốt hơn công tác quản lý Ngân sách Nhà nước. Thông qua kết quả Kiểm toán , ngoài việc cung cấp thông tin cho Quốc hội , Chính phủ, Kiểm tóan Nhà nước còn cung cấp cho các cơ quan quản lý những yếu kém bất cập trong quản lý Ngân sách Nhà nước; những đơn vị vi phạm chính sách Nhà nước, chế độ quản lý Ngân sách Nhà nước. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý đề ra các biện pháp quản lý thích hợp nhằm quản lý Ngân sách nhà nước tốt hơn. Đối với những trường hợp vi phạm chính sách, chế độ quản lý ngân sách Nhà nước mà Kiểm tóan Nhà nước đã phát hiện, các cơ quan quản lý có biện pháp thu hội cho Ngân sách Nhà nước như thu hồi các khoản thuế gian lận, thu hồi các khoản chi sai chế độ, duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý Ngân sách Nhà nước. Việc cung cấp thông tin cho Quốc Hội, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác cũng như các hoạt động tư vấn thông qua những vụ báo cáo của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Dù cơ quan Kiểm toán Nhà nước có trực thuộc Quốc hội ( Chính phủ) hay độc lập với các cơ quan này đều có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội về các vấn đề Quốc hội yêu cầu liên quan đến công tác quản lý tài chính Nhà nước và tài sản công. Các báo cáo của Kiểm toán Nhà nước có thể dưới dạng báo cáo thường niên hoặc báo cáo đặc biệt theo sáng kiến của cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cũng có thể là báo cáo theo yêu cầu của Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc các cơ quan của Quốc hội. Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi đã quy định nghĩa vụ của cơ quan Kiểm tóan Nhà nước trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ, đây là điều kiện quan trọng để hoàn thiện và phát triển hoạt động Kiểm tóan Nhà nước ở Việt nam. IV. Những thành tựu và hạn chế . 1. Những thành tựu của Kiểm toán Nhà nước trong công việc trợ giúp Quốc hội: Là một cơ quan mới, trước đó chưa có một tổ chức tiền thân và chưa có tiền lệ trong cơ cấu tổ chức Bộ máy Nhà nứơc, nhưng chi trong thời gjan ngăn, Kiểm tóan Nhà nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng sau đây: + Ngay từ khi mới thành lập, Kiểm toán Nhà nước đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy, tuyển dụng và đào tạo cán bộ, kiểm toán viên; từng bước xây dựng và hoàn thiện pháp lý cho hoạt động kiểm toán thực hiện kiểm toán hàng nămdo Thủ tướng chính phủ giao và các nhiệm vụ kiểm toán khác do Quốc hội, Thủ tướng chính phủ yêu cầu. Sau gần 10 năm thành lập và phát triển, đến nay Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được tổ chức thành một hệ thống thống nhất từ Trung Ương đến địa phương : - ở Trung ương có 4 đơn vị Kiểm toán chuyên ngành,đó là:Kiểm toán Ngân sách Nhà nước ; Kiểm toán Doanh Nghiệp Nhà nước; Kiểm toán Đầu tư và Dự án; Kiểm toán chương trình đặc biệt. Và 01 văn phòng; 01 Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng Cán bộ; 01 phòng Thanh tra và Kiểm tra nội bộ thuộc Kiểm toán Nhà nước; Còn có Trung tâm Tin học và Vụ Tổ chức Cán Bộ và Đào tạo. - ở Địa phương, Gồm có 05 Kiểm toán Nhà Nước Khu vực như đã trình bày ở phần trên. Hiện taị, Kiểm toán Nhà nước có hơn 600 cán bộ công chức, Kiểm toán viên. Đa số cán bộ, công chức, Kiểm toán viên được tuyển chọn từ nhiều ngành, lĩnh vực hoạt động đa dạng, có phẩm chất đạo đức tốt, ít nhiều đều đã có kinh nghiệm trong công tác quản lý kinh tế, tài chính, bước đầu đã được đào tạo, bồi dưỡng định kỳ, cập nhật kiến thức cơ bản về kế tóan, kiểm toán, quản lý hành chính Nhà nước và pháp luật. Nhìn chung, tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước gọn nhẹ, phát huy dược hiệu quả. Trong quá trình xây dựng và phát triển, việc tăng thêm các tổ chức đầu mối trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Kiểm toán Nhà nước. Đặc biệt là phát triển hệ thống các Kiểm toán Nhà nước Khu vực đã giúp cho Kiểm toán Nhà nước thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm toán báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách của các địa phương trên từng địa bàn khu vực, tiết kiệm được chi phí triển khai nhiệm vụ Kiểm toán, góp phần giải quyết một phần khó khăn cho đội ngũ Kiểm toán viên dỡ phải đi công tác xa nhà nhiều ngày, và điều đó quan trong hơn là giúp cho Kiểm tóan Nhà nước nắm được chắc hơn, có hệ thống hơn tình hình lập và điều hành ngân sách của các địa phương trên địa bàn, đảm bảo cho công tác kiểm toán được tốt hơn. Với phương châm “vừa xây dựng tổ chức, vừa triển khai hoạt động”, từ khi chính thức đi vào hoạt động đến nay, Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện hàng nghìn cuộc kiểm toán với quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nước trên hầu hết các lĩnh vực. Kết quả kiểm toán đã giúp cho các bộ, ngành, địa phương nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng tình hình tài chính, khắc phục những yếu kém, sơ hở trong quản lý kinh tế và kinh doanh, không ngừng cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý và kiểm soát nội bộ Kiểm toán Nhà nước bước đầu đã cung cấp những thông tin , dữ liệu tin cậy cho Chính phủ và Quốc hội trong quản lý, điều hành kiểm tra và giám sát tài chính Nhà nước và tài sản công. Kết quả kiểm toán từ năm 1996 đến cuối năm 2002 đã tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước trên 10 000 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế và thu khác trên 3000 tỷ đồng, tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước trên 1000 tỷ đồng, quản lý qua ngân sách nhà nước trên1000 tỷ đồng: Kiểm toán Ngân sách Nhà nước: Trong thời gian qua, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán lần thứ hai báo cáo quyết toán Ngân sách trên địa bàn của 61 tỉnh, thành phố; 26 Bộ, ngành, cơ quan thuộc Ngân sách Trung Ương; 14 quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục và một số doanh nghiệp thuộc bộ quốc phòng, Bộ công an và Kinh tế Đảng. Kết quả Kiểm tóan đã phát hiện tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước 2681 tỷ đồng, đồng thời Kiểm tóan Nhà nước đã chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém trong quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước của các cấp, đưa ra nhiều kiến nghị cụ thể và xác thực nhằm hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách Nhà nước. Kiểm tóan Công trình đầu tư xây dựng cơ bản: Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán báo cáo quyết toán 14 công trình trọng điểm và quốc gia, 6 chương trình mục tiêu của chính phủ và nhiều công trình xây dựng cơ bản của các địa phương. Kết quả kiểm toán thu hồi, giảm cấp phát cho Ngân sách Nhà nước 161 tỷ đồng. Đồng thời Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện những tồn tại trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, kiến nghị với các đơn vị được kiểm toán cũng như các cơ quan quản lý chức năng sửa chữa, khắc phục những tồn tại đó . Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước: Đã kiểm toán báo cáo tài chính của 17 tổng công ty 91 và 30 Tổng công ty 90, một số doanh nghiệp hạng đặc biệt. Kết quả kiểm toán đã tăng thu thêm về thuế và thu khác cho ngân sách Nhà nước là 975 tỷ đồng. Đồng thời qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện những tồn tại trong quản lý công tác tài chính doanh nghiệp và đưa ra các kiến nghị để các doanh nghiệp Nhà nước và các cơ quan quản lý chức năng Nhà nước sửa chữa, khắc phục và hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh việc triển khai thực hiện kiểm toán hàng năm, kiểm toán Nhà nước còn chú trọng tới công tác chuẩn bị cho hướng phát triển lâu daì của ngành, như: nghiên cứu các đề tài khoa học liên quan đến địa vị pháp lý của cơ chế hoạt động của cơ quan kiểm toán Nhà nước, nghiên cứu soạn thảo các chuẩn mực và quy trình kiểm toán…Ngoài ra công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho đội ngũ Kiểm toán viên luôn được ngành đặc biệt coi trọng. Hàng năm Kiểm toán Nhà nước đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, mở nhiều khóa tập huấn trong nước và cử nhiều lượt cán bộ, kiểm toán viên đi học tập, nghiên cứu kinh nghiệm kiểm toán ở nhiều nước trên thế giới , như : Cộng hòa Liên bang Đức, ấn độ, Nhật Bản, Thái Lan… Đến nay gần 90% kiểm toán viên đã qua lớp quản lý hành chính Nhà nước và các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ. + Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, Kiểm toán Nhà nước cũng thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Tháng 4-1996 gia nhập tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao ( INTOSAI ), và tháng 11-1997 trở thành thành viên của tổ chức cơ quan kiểm toán tối cao Châu á ( ASOSAI). Bên cạnh đó Kiểm toán Nhà nước Việt Nam còn mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ quan kiểm toán tối cao của nhiều nước trên Thế giới nhằm trao đổi kinh nghiệm và tranh thủ sự trợ giúp của các nước và các tổ chức quốc tế, trong đó đặc biệt phải kể đến dự án “ Hỗ trợ xây dựng Kiểm toán Nhà nước Việt Nam” do CHLB Đức và dự án ADB do Ngân hàng Châu á tài trợ. Những kết quả trong gần 10 năm đầu thành lập, tuy còn rất khiêm tốn nhưng đã thể hiện sự nỗ lực phấn đấu và đóng góp thiết thực của ngành KTNN còn non trẻ trong sự nghiệp đổi mới đất nước, như đánh giá của Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải trong thư ngày 02-06-1999 gửi CBCNV KTNN “ trong công cuộc đổi mới để xây dựng đất nước, KTNN đã được hình thành và từng bước phát triển nhằm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tài sản và tài chính công, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia”. 2. Những hạn chế của KTNN trong công việc trợ giúp Quốc hội: Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cua KTNN còn có những hạn chế nhất định , như sau : + Nền tảng pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN chưa đủ tầm và chưa đầy đủ. Vị trí của cơ quan KTNN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35619.doc
Tài liệu liên quan