Đề tài Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam

Vào năm 1992 NHNN đó thực hiện đổi mới về điều hành chính sách lói suất bằng việc chuyền từ cơ chế lói suất õm (Ngõn hàng kinh doanh thua lỗ và Nhà nước bù) sang cơ chế lói suất dương. Đây là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lói suất và tạo đũn bẩy quan trọng để các NHTM chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang cú lói.

Bước cải cách đáng kể tiếp theo vào năm 1996 là việc tự do hoá lói suất tiền gửi và chỉ qui định trần lói suất cho vay. Với cơ chế này các NHTM được phép tự do qui định mức lói suất huy động (trong mức trần theo qui định của NHNN).

Tháng 8/2000, NHNN đó thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành lói suất. Việc bỏ trần lói suất và ỏp dụng lói suất cơ bản theo một biên độ dao động cho phép, trên cơ sở có sự liên hệ giữa lói suất đồng USD trong nước với lói suất của USD trờn thị trường quốc tế (thụng qua lói suất đồng USD trên thị trường tiền tệ Singapore) là một bước đệm quan trọng trong việc tiến gần thêm đến tự do hoá lói suất.

 

doc34 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới... Từ cuối năm 2000, nền kinh tế Mỹ rơi vào tỡnh trạng suy thoỏi. Cỏc nền kinh tế lớn khỏc trờn thế giới : Tõy Âu, Nhật Bản,... cũng rơi vào tỡnh trạng trỡ trệ. Để cứu vón xu thế đú, từ ngày 4-1-2001, Cục dự trữ liờn bang Mỹ - FED (Ngõn hàng trung ương của nước này) đó 11 lần hạ lói suất chủ đạo của mỡnh, từ 6,5%/năm (trước thỏng 1-2001) lần lượt xuống cũn 1,75%/thỏng (từ 12-12-2001), thấp nhất trong vũng hơn 30 năm qua trong lịch sử nền kinh tế Mỹ. Ngõn hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) hạ lói suất của mỡnh xuống bằng 0. Ngõn hàng trung ương chõu Âu (ECB) cũng nhiều lần hạ lói suất của mỡnh... Tỏc động dõy chuyền của lói suất trờn cỏc thị trường chủ chốt của thế giới : Thị trường liờn ngõn hàng Luõn Đụn (LIBOR), Thị trường liờn ngõn hàng Xin-ga-po (SIBOR),... cũng liờn tục giảm. Ở Việt Nam, để hạn chế tỏc động tiờu cực của xu hướng suy giảm nền kinh tế toàn cầu từ đầu năm 2001 đến nay, ngân hàng nhà nước (NHNN) đó cắt giảm lói suất cơ bản đối với đồng Việt Nam (VND) tới 4 lần, từ mức 0,75%/thỏng, xuống cũn 0,725%, 0,65% và 0,60%/thỏng (từ 1-11-2001) ; đồng thời, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi cấp vốn, từ mức 0,50% xuống 0,45%/thỏng rồi 0,40%, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi chiết khấu từ 0,45%/thỏng xuống 0,40% rồi 0,35%. 3. ảnh hưởng của lãi suất trong nền kinh tế. 3.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện nay. Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể: + Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân. + Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay) Lãi suất có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng trong các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ hơn mức hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn dẫn đến đầu tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân người đi vay lẫn người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở nên dư thừa, ứ đọng, không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở thành “vốn chết” không còn tác dụng gì nữa. 3.2. Lãi suất với quá trình đầu tư. Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao. Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư. 3.3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng. 3.4. Lãi suất với tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Như ta đã biết, tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát…Lãi suất luôn là một công cụ tác động mạnh đến tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Trong điều kiện thị trường mở, nếu lãi suất (lãi suất thực tế) trong nước tăng sẽ thu hút một lượng vốn lớn từ bên ngoài vào làm cho cầu nội tệ tăng lên dẫn đến giảm tỷ giá, tỷ giá giảm sẽ khiến cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy, bằng việc tác động vào lãi suất có thể bình ổn được tỷ giá và điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá đơn giản tuy nhiên lại không dễ thực hiện do khi lãi suất trong nước thay đổi sẽ dễ dẫn đến một cuộc cạnh tranh về lãi suất giữa các nước nhằm đảm bảo lợi ích cho nước mình. Mặt khác lãi suất cũng là một công cụ quá mạnh có thể ảnh hưởng đến hàng loạt biến kinh tế vĩ mô khác do đó việc sử dụng chính sách lãi suất phải hết sức thận trọng. 3.5. Lãi suất với lạm phát. Lạm phát là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. 4. Các chính sách lãi suất cơ bản. 4.1. Tự do hoá lãi suất. Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung-cầu vốn trên thị trường, loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành của lãi suất. Nó cho phép các ngân hàng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất kinh doanh của mình. Tự do hoá tài chính (đặc biệt là tự do hoá lãi suất) góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức và nâng cao hiệu quả hệ thống tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tại sao mức độ thành công tự do hoá lãi suất của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau, thậm chí gây hiệu quả tiêu cực? (úc, Nhật, New Zealand, Mỹ, Malaysia... có những thành công nhất định, trong khi Phillipines, Thổ Nhĩ Kỳ, Chi Lê, Achentina, Uruguay....lại thất bại). Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Vấn đề ở đây chính là tiến hành những bước đi, cách thức trong quá trình tự do hoá lãi suất ở các quốc gia, nếu quốc gia nào trong quá trình tiến hành tự do hoá lãi suất mà có những chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia mình thì chúng ta thấy được rằng họ đã thành công, ngược lại những quốc gia tiến hành một cách máy móc không chú ý đến những điều kiện khách quan của đất nước mình thì cầm chắc thất bại. Như trường hợp Malaysia, từ năm 1981, đã cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó, ngân hàng trung ương nhận thấy rằng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự xác định mức lãi suất cơ bản như vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến cạnh tranh quá mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp thời vấn đề nêu trên và nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985-1986), vào năm 1987, Malaysia chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo có sự phối hợp chỉ đạo của ngân hàng trung ương, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các NHTM. Nhờ đó mà lãi suất đã được quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trường, và dựa trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, để điều hành lãi suất, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, họ cũng có áp dụng một số lãi suất có điều tiết mà được xây dựng dựa trên cơ sở lãi suất chiết khấu, thông thường theo cách này họ xác định được lãi suất cơ bản chính là sàn lãi suất cho vay nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Ngoài ra, lãi suất trên thị trường như lãi suất trên các thị trường liên ngân hàng, lãi suất trên thị trường mở (CD markets và Gensaki markets) là lãi suất tự do, có nghĩa là được tự do xác định trên cơ sở cung cầu về vốn. Đối với những nước điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hoá hoàn toàn như của Anh và Mỹ, lãi suất được công bố dựa hoàn toàn trên cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là chú trọng lãi suất chào hàng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng (như lãi suất LIBOR, SIBOR... ) và lấy đó làm mặt bằng cơ sở chung để điều hành chính sách lãi suất; tuy nhiên, để thực hiện điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế này đòi hỏi các nước áp dụng phải có nền kinh tế thực sự phát triển và ổn định, đồng thời có đầy đủ các công cụ và các chế tài cần thiết để can thiệp khi diễn ra những biến động về tài chính, tiền tệ và ngay cả trong trường hợp lãi suất đang ổn định và do thị trường quyết định thì các nhà quản lý và điều hành chính sách tiền tệ vẫn có thể can thiệp theo cách này hoặc cách khác nhằm đạt được các mục đích kinh tế, chính trị và xã hội đặt ra. 4.2. Kiềm chế lãi suất. Đối với những nước theo đuổi chính sách tài chính kiềm chế và đặc biệt là các nước có nền kinh tế được tổ chức theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vai trò của lãi suất không được nhìn nhận một cách đúng đắn: lãi suất mang nặng tính chất bao cấp về tài chính trong toàn bộ khu vực kinh tế quốc doanh và đảm bảo cho yêu cầu về “giới hạn ngân sách mềm” trong các hoạt động chi tiêu của chính phủ. Thực tế cho thấy hậu quả đối với các nước này là những mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu trong vốn đầu tư; không thể kiểm soát được lạm phát và sự biến động của tỷ giá hối đoái; tình trạng thiếu vốn trầm trọng do không có khả năng huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả; hệ thống thị trường tài chính bị chia cắt manh mún không thể kiểm soát nổi và đầy rãy rủi ro cho nên không thể góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở các nước này. Việt Nam trước cải cách là một ví dụ minh hoạ sinh động cho trường hợp này mà ta sẽ nghiên cứu ở chương tiếp theo. Chương II. Những chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua 1. Chính sách lãi suất âm. Trước những năm 1988-1989, vào thời kỳ quan liêu bao cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước trực tiếp quản lý lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất, có thể nói đây là chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt theo kiểu hành chính: Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 và 2 pháp lệnh về NH (1/10/1990) NHNN qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền vay. Tuy theo thời gian lãi suất có được điều chỉnh, nhưng do lạm phát phi mã lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là: + Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát + Lãi suất cho vay < lãi suất huy động < tỷ lệ lạm phát Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực: - Chính sách lãi suất cứng nhắc khiến cho các NHTM không linh hoạt trong hoạt động tín dụng trước mọi biến động của nền kinh tế. - Lãi suất tín dụng luôn ở mức quy định bắt buộc nên không khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM. - Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát nên không khuyến khích người dân và các tổ chức gửi tiền vào ngân hàng. Do đó chỉ huy động được vốn ngắn hạn mà lại cho vay trung và dài hạn, kết quả là lỗ. Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều. - Lãi suất cho vay < lãi suất huy động vốn và tỷ lệ lạm phát nên ngân hàng trong tình trạng bao cấp đối với doanh nghiệp vay vốn và thông qua hệ thống tín dụng lãi suất thấp luôn trong tình trạng lỗ hoạt động Ngân hàng không ổn định. - Vì lãi suất cho vay < lãi suất huy động nên các doanh nghiệp thị nhau vay vốn, tìm mọi cách, mọi cơ hội vay vốn để được hưởng bao cấp. - Doanh nghiệp vay nhiều nhưng lợi nhuận thu được không phải do sản xuất kinh doanh mà do hưởng bao cấp của NHTM tạo mức lợi nhuận giả cho các doanh nghiệp, gây trì trệ quá trình đầu tư phát triển sản xuất. 2. Chính sách lãi suất dương. Sau năm 1988 hệ thống ngân hàng hai cấp hình thành. Chính phủ giao cho NHNN điều hành lãi suất, điều chỉnh lãi suất theo yếu tố biến động của thị trường mà quan trọng nhất là lạm phát. Thực hiện cuộc cải cách, để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất,với quyết định 29/NH ngày 16/3/1989 lãi suất huy động được nâng lên một mức cao theo tỉ lệ lạm phát (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9%/tháng-tức là 109%/năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng-144 %/năm). Những thành công của việc thực thi chính sách lãi suất dương: - Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát. - Xoá bỏ bao cấp qua tín dụng ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự. - Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn tỉ lệ lạm phát, lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động, xử lí hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. - Lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp buộc phải cân nhắc việc vay vốn đầu tư, phải xem xét và lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả nhất. Cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp được tổ chức một cách hợp lý hơn, giảm thiểu bộ phận quản lý cồng kềnh để giảm thiểu chi phí. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay. - Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng. - Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất. Tuy có nhiều tác động tích cực nhưng nếu kéo dài tình trạng chênh lệch lớn lãi suất tiền gửi và lạm phát sẽ dẫn đến tác động xấu. - Do lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao nên càng khuyến khích gửi tiền hơn là vay tiền. Bên cạnh đó, lãi suất thực dương cao của ngân hàng đem lại khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn là đưa tiền vào đầu tư mà rủi ro lại thâp nên cũng khuyến khích cac doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng vay giảm dẫn đến tài sản nợ trong bảng cân đối của NHTM lớn hơn tài sản có. Như vậy cho dù lãi suất thực dương thì chưa chắc chắn NHTM đã hoạt động kinh doanh có lãi, nếu kéo dài tình trạng như vậy sẽ bị lỗ. - Lãi suất vay vốn không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mà các doanh nghiệp tích cực gửi tiền vào ngân hàng hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng giảm quy mô đầu tư dẫn đến một lực lượng lớn thất nghiệp không có lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế. - Trong tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, một phần lớn là đi vay của ngân hàng, bởi lãi suất vốn cao dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh lớn do đó giá thành phẩm cao, giá hàng hoá cao và như vậy hàng hoá sẽ giảm tính cạnh tranh trên thị trường. Ngày 1-6-1992 thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng: Đảm bảo lãi suất thực tế dương, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp hơn lãi suất tiền gửi. Ngân hàng nhà nước chỉ quy định mức cho vay tối đa và mức tiền gửi tối thiểu cụ thể với từng đối tượng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM tự quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng. Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế. Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần tập trung được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, ổn định và kích thích tăng trưởng. Năm 1992, lạm phát giảm mạnh từ 67,6% (1991) xuống 14,5% , tăng trưởng kinh tế từ 6% (1991) lên 8,6%. Năm 1993 lạm phát đạt mức thấp 5,2% và tăng trưởng kinh tế 8,1%. Mức lãi suất mới đã khắc phục được tình trạng lợi dụng vốn của ngân hàng để khách hàng ăn chênh lệch giá, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu hồi vốn và tăng nhanh quay vòng vốn. Đây là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất và tạo đòn bẩy quan trọng để các NHTM chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. 3. Trần lãi suất. Từ ngày 1/ 10/1993: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận. Theo quyết định 184/QĐNH1 ngày 28-9-1993, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể: a)Trần lãi suất: Đối với doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng. b)Thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,2 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng. Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động khoảng từ 0,7% - 1%/tháng làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và nông dân gặp nhiều khó khăn. Tác động tích cực - Nhờ những định mức trần lãi suất mà hạn chế được phần nào tình trạng lãi suất thực dương quá cao trong thời kỳ trước và do đó trong các NHTM cũng dần cân bằng giữa tài sản nợ và tài sản có, đảm bảo được lợi nhuận. Các doanh nghiệp cũng cần có thêm cơ hội vay vốn kinh doanh và mở rộng quy mô vốn đầu tư. - Nhờ có lãi suất thoả thuận mà hoạt động tín dụng giữa NHTM và doanh nghiệp linh hoạt hơn phù hợp với các đặc điểm hoạt động và tình hình cung cầu vốn, chính sách khách hàng va cạnh tranh của từng tổ chức tín dụng và chủ động điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất. Những hạn chế - Việc quy định lãi suất trần vẫn mang dáng dấp quản lý hành chính đối với một công cụ vô cùng nhạy bén và mang đậm tính thị trường và do đó vẫn hạn chế tính linh hoạt của NHTM trong hoạt động tín dụng, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. - Sự chệnh lệch cao giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đã đem lại cho các NHTM một số lợi nhuận đã khiến cho các ngân hàng không chú trọng việc tiết kiệm chi phí hoạt động. - Cơ chế lãi suất hiện hành thực sự gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc vay vốn sản xuất nhất là đầu tư sản xuất trong trung và dài hạn do chính các ngân hàng cũng khó huy động và có thể cho vay ở mức lãi suất cao. - Lãi suất cao làm cho người kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất có lợi nhuận cao tức thời và thu hồi vốn nhanh như: dịch vụ, thương mại, sản xuất nhỏ mất cân đối trong nền kinh tế Từ thực tế này, quốc hội khoá IX trong kì họp thứ 8 tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng nhân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/ tháng. Đây là lý do để ra đời chế độ lãi suất trần hoàn toàn và bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. Từ ngày 1/1/1996: Thực hiện chính sách trần lãi suất và khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng Quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 quy định chính sách trần lãi suất có phân biệt theo từng khu vực như sau: - Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: Là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị. Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn. cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời gian dài dễ gặp rủi ro. Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do điều kiện hoạt động và địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị. Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: Là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm quy mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao. Cụ thể : từ mức trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành thị và 2%/tháng dành cho khu vực nông thôn, lãi suất trần đã áp dụng thống nhất cho cả hai khu vực là 1,2%/tháng đối với vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với vay trung và dài hạn. Từ đó đã hình thành một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về phương diện “giá cả” của nó - đó là một hành lang mà đường biên cứng là mức lãi suất trần cho vay, còn đường biên còn lại thì không cố định mà được thay thế bằng mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không được quá 0,35%/tháng. Tác động tích cực. Thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ, qua đó các tổ chức tín dụng được tự chủ trong việc ấn định mức lãi suất huy động cụ thể. Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm; góp phần thực hiện công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước. Những hạn chế Các ý kiến phản đối cho rằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân cuả TCTD được quy định với mức 0,35%/tháng là không có cơ sở, quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu của hạch toán kinh doanh của TCTD. Từ ngày 21/1/1998: Xoá bỏ mức khống chế chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng. Ngày 17/1/1998, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 39/1998/QĐ-NH1, “quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam của các tổ chức kinh tế, dân cư và mức lãi suất tiền gửi bằng đồng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/1/1998. Nội dung chủ yếu của quy định lãi suất lúc này là: - Đưa ra mức trần lãi suất cho vay của các TCTD bằng VND: + Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng + Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn 1,25 % tháng. Mức lãi suất trần cho vay nói trên được áp dụng chung đối với cho vay trên địa bàn thành thị và cả trên địa bàn nông thôn. - Quy định trần lãi suất cho vay USD, quy định các mức lãi suất tiền gửi bằng USD của các tổ chức kinh tế. - Quy định lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN đối với các TCTD. - Ngoài ra trong quyết định 39 còn đưa ra một số mức lãi suất cho vay cụ thể đối với một số đối tượng đặc biệt như: + Cho vay sinh viên, học sinh. + Hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay thành viên. Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng. + Cho vay các tổ chức kinh tế và dân cư thuộc khu vực núi cao, hải đảo, vùng đồng bào Khơ me tập trung. Việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau: - Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi suất. - Để nâng cao lợi nhuận NHTM phải nâng cao mức dư nợ cho vay và huy động góp vốn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tuỳ theo hình thức cụ thể mà các NHTM đã đưa ra các mức lãi suất phù hợp. Nâng cao khả năng huy động vốn. - Doanh nghiệp được nhà nước bảo vệ, không phải vay với mức lãi suất vượt trần, tức là các doanh nghiệp không bị các ngân hàng ép khi đi vay tiền. Khi chính phủ quyết định giảm lãi suất cho vay, đồng thời đưa ra các biện pháp ưu tiên trong việc cho vay vốn sẽ khuyến khích doanh nghiệp vay vốn để đầu tư phát triển. Lãi suất là yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, bù đắp chi phí và lợi nhuận cho ngân hàng. - Khi lãi suất giảm làm giá thành sản phẩm rẻ tương đối, kết quả là tiêu dùng tăng và sản xuất tăng. - Quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD đối với các tổ chức kinh tế, góp phần hạn chế tình trạng giam giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi tại các TCTD. Trên cơ sở đó, các TCTD có thể sử dụng ngoại tệ một cách triệt để hơn, hữu ích hơn góp phần trong điều tiết tỷ giá, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hạn chế - Về thực chất đú là biện phỏp điều hành mang nặng tớnh can thiệp hành chớnh của Nhà nước. Chớnh vỡ vậy, cơ chế này thiếu tớnh linh hoạt, khụng phản ỏnh đỳng và kịp thời quan hệ cung cầu về vốn trờn thị trường. Đõy là nguyờn nhõn làm hạn chế khả năng cho vay và huy động vốn của cỏc TCTD. Bởi trờn thực tế, việc đưa ra một trần lói suất "cứng nhắc" và "chật hẹp" vụ hỡnh chung cũng đồng nghĩa với việc chỉ cho phộp cỏc TCTD tiếp cận v ới những dự ỏn cú độ rủi ro thấp và thời hạn vay vốn tương đối ngắn. - Trong cơ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0761.doc
Tài liệu liên quan