Đề tài Làm thế nào để thu hút vốn FDi dưới góc độ chính sách và pháp luật

Mở đầu 4

Phần I: Tổng quan về ĐTNN và các yếu tố tác động đến FDI 5

I. Tổng quan về ĐTNN và FDI ở Việt Nam 5

 1. Tổng quan về ĐTNN và FDI 5

 2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 6

II. Yếu tố tác động đến FDI ở Việt Nam 7

 1. Sự ổn định thể chế chính trị - xã hội 7

 2. Thị trường bản địa 7

 3. Sự phong phú đa dạng của nguồn tài nguyên thiên nhiên và

 lợi thế của đất nước ta 7

 4. Nguồn nhân lực 8

 5. Cơ sở hạ tầng 8

 6. Sự ổn định, thống nhất của hệ thống chính sách, luật pháp 8

Phần II: Quản điểm về chính sách luật pháp ở Việt Nam về thu hút FDI 9

I. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản và pháp

 luật Nhà nước về thu hút FDI 9

 1. Quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam 9

 2.Quan điểm về thu hút FDI trong chính sách, luật pháp của

 Nhà nước 9

II. Quá trình vận dụng chính sách trong thu hút FDI ở Việt NAm 11

 1. Những kết đạt được 11

 2. Những mặt hạn chế 17

III. Nguyên nhân những hạn chế trong chính sách pháp luật

 thu hút FDI ở Việt Nam 21

 1. Nguyên nhân khách quan 21

 2. Nguyên nhân chủ quan 22

Phần II: Biện pháp chủ yếu về chính sách luật pháp nhằm tăng cường

 sức hấp dẫn thu hút vốn FDI ỏ Việt Nam 24

I. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo ra

 một môi trường đầu tư thực sự thông thoáng và hấp dẫn 24

II. Xây dựng những chính sách thu hút vốn FDI phù hợp với

 tiềm năng trong nước và xu thế quốc tế 25

III. Thực hiện cải cách hành chính 25

IV. Đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ làm luật 26

Phần kết 27

 

doc27 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Làm thế nào để thu hút vốn FDi dưới góc độ chính sách và pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo môi trường tài chính, tiền tệ lành mạnh... củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngay tại điều 1, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã khẳng định: “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật của Việt nam bình đẳng và các bên cùng có lợi. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư nước ngoài và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam”. điều 20, luật đầu tư nước ngoài tại việt nam cũng quy định: “Nhà nước Việt nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam.”. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được ban hành 12/97, chỉ ngay sau thời kì đổi mới hơn 1 năm , từ 1990 đến nay đã được sửu đổi bổ xung 4 lần theo hướng thông thoáng, rộng mở hơn để cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư. Đồng thời, Chính phủ và các ban ngành có liên quan cũng liên tục có những sửa đổi, bổ xung các quy định trong các chính sách và pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam để thu hút hơn nữa nguồn FDi. Bên cạnh những thay đổi trên, để nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam an tâm khi thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình, điều 21a, luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ xung tháng 5,6/2000 quy định như sau: “Trong trường hợp thay đổi quy định của pháp luật Việt nam làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh itếp tục được hưởng các ưu đãi đã được qui định trong giấy phép đầu tư và được nhà nước giải quyết thoả đáng theo các biện pháp sau đây: +Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án +Miễn giảm thuế trong khuôn khổ pháp luật +Thiệt hại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp +Được xem xét bồi thường thảo đáng trong một số trường hợp cần thiết. Các qui định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi được cấp giấy phép đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Nhìn chung, Đảng và nhà nước ta đã coi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thực hiện chủ trương đó, hệ thống chính sách và pháp luật đã không ngừng được cải thiện sửa đỏi và bổ xung theo hướng gnaỳ càng cởi mở, góp phần quan trọng vào mục tiêu thu hút FDi của nước ta. ii . Quá trình vận dụng chính sách luật pháp trong thu hút FDi nước ta FDi là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia, là một trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước. Với quan điểm nhất quán như vậy, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã được ban hành tháng 12/87 và đã được 4 lần sửa đổi bổ xung để góp phần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời nhiều chính sách và qui định khác cũnh được sửa đổi và bổ xung từng bước để phù hợp với thông lệ quốc tế và thông thoáng hơn với nhà đầu tư.Chính vì vậy , luồng vốn đầu tư nước ngoài vào nước tảtong những năm qua (hơn 10 năm ) đã có những bước thăng trầm nhất định (do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác trong và ngoài nước ).Trên khía cạnh chính sách, luật pháp, chúng tôi có thể nêu ra những kết quả cũng như yếu kém trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài như sau: 1 Những kết quả đạt được: Thông qua những chủ trương cũng như các chính sách, pháp luật được ban hành và thực hiện trong suốt những năm qua đã cho thấy một cách nhìn mới, hướng đi mới đối với hoạt động thu hút FDi. Chúng ta thường nói “con đường nước ta đang đi là chưa có tiền lệ” thì hợp tác đầu tư với nước ngoài trong điều kiện nước ta lại càng chưa có tiền lệ. Chúng ta đang phải tự tìm tòi, khám phá. Điều may mắn là qua hơn mười năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, trong nhịp sống chung của công việc đổi mới, chúng ta đã thu được những kết quả ban đẩút đáng khích lệ về các mặt: kinh tế, xã hội, tài chính..., đã tạo dựng được một nền móng khá vững chắc cho một lĩnh vực hết sức mới mẻ trong kinh tế đối ngoại. Thời gian qua, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam không những đưa lại cho chúng ta bao nhiêu dự án, bao nhiêu vốn đầu tư, mà điều quan trọng không kém là đã đưa lại cho chúng ta thêm những kinh nghiệm, bài học thực tế “được”và “ chưa được”trong lĩnh vực mới mẻ này. Đặc biệt , nó đã cung cấp cho chúng ta thêm nhều hiểu biết trong nhận thức về FDi, dẫn đến những thay đổi tích cực trong nhận thức về FDi. - Thứ nhất, phải nói đến kết quả trong nhận thức về FDi: Đã có những thay đỏi tích cực trong nhận thức về FDi;chẳng hạn như ban đầu, có hai luồng tư tưởng cho rằng : +Coi nhẹ , thậm chí lên án FDinhư là một nhân tố có hại cho nền kinh tế đọc lập, tự chủ. +Quá đề cao FDi, gắn cho nó một vai trò tích cực, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời những cố gắng cải thiện môi trường đầu tư, dẫn đến ỷ lại vào FDi mà không khai thác tối đa các lợi thế bên trong. Nhưng hiện nay, quan điểm cho rằng FDi không gây tình trạng nợ nần, không phương hại đến chủ quyền của đất nước đã trở nên phổ biến --khẳng định: “đầu tư trong nước là chủ yếu và đầu tư nước ngoài là quan trọng .” đã được thể hiện trong các văn bản pháp quy của nhà nước. Chính điều này đã cho phép chúng ta có những suy nghĩ và giải pháp đúng đắn hơn trong các chính sách vận động thu hút FDi vào nước ta, thể hiện qua việc sửa đổi bổ xung và điều chỉnh các chính sách, luật pháp trong hoạt động đầu tư nước ngoài của nhà nước ta thời gian qua và giai đoạn sắp tới, được đa số các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là rộng mở hơn. Đồng thời quan điểm coi nước ta là một nơi “phì nhiêu” nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư vào mà không cần phải có biện pháp thu hút, khuyến khích đã được thay bằng các quan điểm như: chấp nhận cạnh tranh trong thu hút FDi ; cần nhanh chân hơn trong thu hút đầu tư nước ngoài(Đoàn Năng, vụ trưởng vụ pháp chế , bộ kế hoạch công nghiệp và môi trường) trải chiếu hoa đón các nhà đầu tư (UBND tỉnh Bình Dương);cứ lo cho họ thì họ sẽ lo cho mình ..... Nói tóm lại,nhận thức về FDi tại Việt nam ngày càng thông thoáng và hợp lý hơn với chuẩn mực quốc tế. - Thứ hai, chúng tôi muốn đề cập đến mức độ hoàn thiện về hệ thống luật pháp trong thu hút FDi, đây cũng là nội dung trọng tâm mà chúng tôi muốn đề cập đến ở phần này. Trước hết, chúng tôi muốn nói đến những thay đổi được đánh giá là hết sức tích cực trong hệ thống chính sách và pháp luật của nước ta : * Về luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam: từ khi được ban hành tháng 12/87 đã liên tục được sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và các yêu cầu khách quan cũng như chủ quan của việc thu hút FDi(xây dựng những qui chế pháp lí phù hợp với từng giai đoạn của quá trình thu hút FDi). Cụ thể sau 4 lần sửa đổi, bổ xung (90,96,2000), các khoản mục của luật ngày càng rộng mở hơn, đặc biệt là lần sửa đổi bổ xung tháng 6/2000, đã có những thay đổi quan trọng , chẳng hạn như: Về đất đai: +Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng: đây là một vướng mắc lớn lâu nay vẫn làm chậm tiến độ triển khai dự án, khiến nhà đầu tư nước ngoài nản lòng, e ngại. Vì vậy, luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ xung khoản 2 điều 46 quy định: “trong trường hợp bên Việt nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thì bên Việt nam có trách nhiệm đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để chuyển quyền sử dụng đất. Trong trường hợp nhà nước Việt nam cho thuê đất thì uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dự án đầu tư tổ chức thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất.” Quy định này đã làm giảm nhẹ phần nào nghĩa vụ của bên nước ngoài về các hoạt động có liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng, được các nhà đầu tư nước ngoài rất ủng hộ. +Vấn đề đất đai khi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài giải thể hoặc phá sản: trong điều luật đầu tư nước ngoài 96, chưa có quy định về việc giải quyết vấn đề này gây rất nhiều phiền hà, luật sửa đổi bổ xung đã khắc phục như sau: “trường hợp bên Việt nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc bị phá sản thì giá trị còn lại của quyền sử dụng đất đã góp vốn thuộc tài sản thanh lí của doanh nghiệp.” Trước đây,do không có qui định này nên bên Việt nam đã tận dụng “thế sân nhà” chiếm đất gây thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài. Quy định mới này đã cho nhà đầu tư nước ngoài an tâm hơn trong khi đầu tư vào Việt nam. Về cân đối ngoại tệ, mở tài khoản tại ngân hàng Việt nam và việc chuyển nhượng vốn: + Về cân đối ngoại tệ: luật mới đã cho phép doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ tại ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác theo quy định của pháp luật. Luật cũ hạn chế việc bán ngoại tệ cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định này mặc dù có tính định hướng doanh nghiệp xuất khẩu, song lại gây khó khăn cho các doanh nghiệp không có hàng xuất khẩu, không có nguồn thu ngoại tệ tại chỗ (điều 33-luật sửa đổi bổ xung 2000). +Về chuyển nhượng vốn và mở tài khoản ở nước ngoài: để khuyến khích đầu tư nước ngoài, luật sửa đổi bổ xung đã có những quy địng thông thoáng hơn, thể hiện trong điều 34-35: “nhà đầu tư trong doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài có quyền chuyển nhượng vốn của mình. Trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh lợi nhuận thì bên chuyển nhượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vối thuế suất 25%”. Quy định trước đây là phải ưu tiên doanh nghiệp Việt nam trong chuyển nhượng vốn và được miễn, giảm thuế lợi tức chuyển nhượng vốn khi chuyển nhượng cho doanh nghiệp Việt nam. Quy định này là phù hợp thực tế hơn vì doanh nghiệp Việt nam có rất nhiều hạn chế về vốn,kỹ năng quản lý nên việc tiếp nhận doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài là rất khó thực hiện, như quy định mới là đã rộng mở hơn, khả thi hơn. Về đối tượng được hưởng ưu đãi: Luật đầu tư nước ngoài (12/87) quy định chỉ dành một số ưu đãi cho các doanh nghiệp liên doanh, không ưu đãi cho doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài. Trong thực tế, các dự án 100% vốn nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn: không có sự hỗ trợ của đối tác Việt nam, chịu rủi ro một mình, trong khi nhiều dự án này cũng thuộc diện ưu tiên của Việt nam. Vì vậy, sau nhiều lần sửa đổi, bổ xung, đến luật đầu tư nước ngoài năm 96 và luật sửa đổi bổ xung 2000 đã quy định: “Nhà nước cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt nam đảm bảo đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam.” Các vấn đề về thuế: +Thuế thu nhập doanh nghiệp: “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi quyết toán thuế với cơ quan thuế mà bị lỗthì được chuyển khoản lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế. Thời hạn được chuyển lỗ không quá 5 năm .” Trong khi trước đây, quy định này chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp liên doanh. Quy định này đã giảm phân biệt đối xử, khẳng định một lần nữa chủ trương đối xử công bằng với mọi hình thức đầu tư nước ngoài. +Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: quy định trước sửa đổi bổ xung 2000 thì nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài phải nộp một khoản thuế là 5%,7%,10%, số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. Để cải thiện môi trường đầu tư, tịa điều 43, luật sửa đổi bổ xung 2000 quy định: “khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phỉa nộp thuế là 3%, 5%, 7% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài.” Như vậy, mức thuế phải nộp đã giamr đi đáng kể, đmả bảo mức lợi nhuận hợp lí cho nhà đầu tư nước ngoài sau khi thực hiện đầu tư ở Việt nam. Các biện pháp bảo đảm: + Về tham gia hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, điều 15 của luật đầu tư nước ngoài 1987 quy định “thời hạn không quá 20 năm, trong trườnh hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn”. Nghị định 28 HĐ-BT, điều 44 quy định các doanh nghiệp liên doanh được quyền thảo thuận một thời hạn dài hơn nhưng không quá 50 năm”. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực đầu tư cần có một thời gian dài hơn, vì vậy luật đầu tư sửa đổi bổ xung 2000 đã quy định thời gian này có thể dài hơn nhưng không quá 70 năm. Điều này sẽ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tích cực hơn trong tìm kiếm và đầu tư vào những địa bàn và lĩnh vực khác nhau. + Về nguyên tắc hồi tố và bảo lãnh của chính phủ: để phù hợp với thông lẹ quốc tế cũng như tăng thêm “chữ tín” đối với nhà đầu tư, luật sửa đổi, bổ xung 2000 đã có những quy định rõ ràng hơn, cụ thể minh bạch hơn (thể hiện trong điều 21a và điều 66). +Quy định về thanh lý, phá sản: các quy định trước đây chưa có nội dung: “trong trường hợp bên Việt nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc bị phá sản thì giá trị òcn lại của quyền sử dụng đất đã góp vốn thuộc tài sản thanh lý của doanh nghiệp”.Khoản 2,3,4 điều 53 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ( luật 2000) Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài + Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài : điều 55 được sửa đổi bổ xung như sau: “chính phủ quy định việc thẩm định cấp giấy phép đầu tư, việc đăng kí cáp giấy phép đầu tư, căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế--xã hội, lĩnh vực, tính chất, quy mô của dự án đầu tư, quyết định việc phân cấp cấp giấy phép đầu tư cho uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định việc cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất”. +Điều 59, 60, 17 luật sửa đổi, bổ xung2000 cũng đã có những quy định, ban hành những thay đổi về thủ tục hành chính, thời hạn cấp giấy phép đầu tư, chế độ thanh tra , kiểm tra đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi hơn, thông thoáng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài. *Các văn bản cụ thể dưới luật, quy định cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam: Chúng ta nhận thấy, cùng với luật, các văn bản cụ thể dưới luật cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Chính vì vậy, cùng với các đợt sửa đổi bổ xung (tháng 6-90 và tháng 12-92 cho đến đầu 1996, Thủ tướng chính phủ, các bộ, ngành liên quan đã ban hành trên 90 văn bản pháp quy nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành luật. Chẳng hạn như nghị định 28 HĐ-BT. Đặc biệt là từ khi luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ xung lần thứ 3, năm 96, chính phủ và các bộ, các ngành có liên quan đã tích cực trong việc nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp quy dưới luật quy định và hướng dẫn thi hành hoạt động đầu tư nước ngoài và các hoạt động liên quan. Có thể kể ra mộ số các văn bản sau: + NĐ 12/97 NĐ-CP ngày 18/2/97 quy định chi tiết các thủ tục khi hoạt động đầu tư nhằm tạo dựng môi trường đầu tư thông thoáng hơn. + NĐ 10/1998 NĐ-CP ngày 31/1/98 về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: khẳng định tính nhất quán, ổn định của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Đồng thời với việc ban hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 và có hiệu lực từ 1/1/99, chính phủ cũng đã ban hành NĐ30/98 NĐ-CP ngày 13/5/98 quy định: thời điểm bắt đầu tính miễn giảm thuế ( điều này là có lợi cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài). - Về thuế thu nhập cá nhân: cùng với nghị định 05- CP ngày 20/1/1995 của Chính phủ, kèm theo thông tư hướng dẫn số 27- TC/TCT ngày 30/3/1995 của Bộ tài chính, pháp lệnh sửa đổi một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ngày 6/2/1997 và ngày 30/6/1999 của uỷ ban thường vụ Quốc hội số 14/1999-PL-UBTVQH 10, và Bộ tài chính đang thực hiện sửa đổi, bổ sung chính sách thuế thu nhập cá nhân. Chúng ta có thể hy vọng rằng, sẽ tạo ra nhiều điều kiện tốt hơn, hạn chế được nhiều hơn những kêu ca phàn nàn. Thứ nhất, Bộ Kế hoạch- Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan, đã và đang tiếp tục nghiên cứu chính sách giảm giá thuê đất, giảm giá dịch vụ, giảm giá điện nước, vận tải... cho phù hợp với mặt bằng giá trong nước và quốc tế, đơn giản hóa thủ tục cấp visa,thủ tục xuất nhập cảnh cho giới doanh nhân nước ngoài đến làm ăn tại Việt Nam. Thứ hai, ngoài những đổi mới trong chính sách thuế, Chính phủ và các Bộ , ngành liên quan cũng đã tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền Bộ, Ngành mình như: luật đất đai, thuế sử dụng đất, luật hải quan, nghị định về quản lý ngoại hối, luật dầu khí..., quy định mức lương tối thiểu, ngạch lương của công nhân khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho phù hợp với thực tế. Thêm vào đó là các thông tư hướng dẫn việc bán ngoại tệ cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thông tư hướng dẫn chi tiết hoạt động đầu tư nước ngoài, thông tư về quản lý công trình có vốn đầu tư nước ngoài... Như vậy, thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như đã nêu ở trên cùng những cố gắng trong cải cách hệ thống chính sách pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư nức ngoài tại Việt nam đã có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng hơn. Đây được coi là bước đột phá để cải thiện quan hệ với các nhà đàu tư nước ngoài, và được các nhà đầu tư nước ngoài đón nhận một cách tích cực. Có thể nói, về cơ bản luật và các chính sách liên quan đã phù hợp với chiến lược kinh tế mở, phù hợp với tình hình, đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội của Việt nam, vừa tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. * Mức độ hoàn thiện về chính sách, pháp luật về FDi. Qua hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ban hành luật mới, có thể nói, mặc dù hệ thống pháp luật, chính sách về FDi còn nhiều bất cập song theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài và các chuyên gia về đầu tư thì đã dần dần đi vào ổn định, tạo ra một cơ chế đồng bộ hợp lý hơn và có những đóng góp ngày càng tích cực vào tăng thu hút FDi ở nước ta. Kết quả của những đổi mới trong luật pháp thời gian qua đã có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, đại đa số các nhà đầu tư nước ngoài và các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hệ thống chính sách, luật pháp đang có những hướng thay đổi tích cực hơn, chủ động hơn và sát thực tế hơn. Đây là một kết quả đáng mừng ở khía cạnh chính sách, luật pháp trong việc thu hút FDi cho dù những kết quả đó còn là nhỏ bé. Trong pham vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số thay đổi cụ thể trong nội dung một số điều luật của luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam sửa đổi bổ sung6/2000 so với những quy định trước đây. 2) . Những mặt hạn chế Bên cạnh những kết quả thu được thì việc vận dụng những chính sách, pháp luật váo thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều hạn chế 2.1) Nhận thức về FDi Chúng ta phải thừa nhận rằng, đã có không ít có những cố gắng của các cấp , các ngành trong việc thực hiện nhằm thay đổi tư duy nhận thức về FDi được quy định cụ thể trong các chính sách luật pháp. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại mang tư duy sai lệch, không đúng theo đường lối, chủ trương của Đảng về FDi , có những nhận thức khác nhau dẫn đến những lúng túng, thiếu nhất quán trong hoạch định chính sách, xử lý vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài cần tiếp tục được thay đổi bằng những biện pháp mạnh mẽ chẳng hạn như: + Luật đầi tư nước ngoài đã quy định : “Nhà nước Việt nam đảm bảo đối xử công bằng với mọi loại hình đâù tư FDi” nhưng trong quá trình thực hiện,loại hình doanh nghiệp liên doanh lại được hưởng nhiều ưu đãi “bất thành văn” hơn. + Nhiều chủ trương của chính phủ được hiểu sai và thực hiện sai: chẳng hạn như Chính phủ khuyến khích các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư vào địa phương mình, nhưng để thu hút FDi vào địa bàn mình, uỷ ban nhân dân, chính quyền địa phương đã tung ra những biện pháp khuyến khích không hợp lý ( giảm thuế thuê đất quá thấp, giảm giá lao động, đơn giản hoá chính sách thuế dẫn đến phân tán, manh mún các nguồn vốn đầu tư) làm ảnh hưởng đếnlợi ích chung của cả nước. Cần sớm có biện pháp điều chỉnh và khắc phục một cách hợp lý để việc đầu tư FDi tập trung và có trọng điểm hơn. 2.2. Chính sách, luật pháp về đầu tư nước ngoài và các hoạt động liên quan. * Về luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam: Mặc dù từ 1990 đến nay, chúng ta đã tiến hành nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đặc biệt là lần gần đây nhất 6/2000, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là rộng mở, thông thoáng hơn, nhưng hệ thống chính sách luật pháp về đầu tư nước ngoài và các hoạt động có liên quan vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém và bất hợp lý. ở đây chúng tôi xin nêu ra một số nội dung chủ yếu về việc không được miễn thuế nhập khẩu, vật tư thiết bị xây dựng công trình, hạn chế việc thực hiện chế độ kế toán nước ngoài. - Hiện nay, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã được sửa đổi nhưng cũng phải nói rằng nó đã không thông thoáng hơn luật cũ về việc: không được miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị, xây dựng công trinh, hạn chế việc thựchiện chế độ kế toán nước ngoài... đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư vào Việt nam. - Một số chính sách, luật pháp chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn, chủ yếu là do chưa thật phù hợp với thực tế cũng như nguyện vọng thiết thực của các nhà đầu tư nước ngoài. ví dụ như việc tồn tại đồng thời luật: khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã gây “cảm giác” về sự bất bình đẳng trong hệ thống pháp lý đối xử với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời trong thực tế một số chính sách ưu đãi hơn chỉ được áp dụng cho đầu tư trong nước như chế độ sử dụng đất, vay vốn, giá các dịch vụ này đã tạo ra một áp lực tâm lý về một sân chơi không bình đẳng đối với nhà đầu tư nước ngoài. - Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn nhiều quy định chung chung chưa cụ thể, chủ yếu là các vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như: đất đai, lố động, tiền lương, công nghệ, môi trường... được luật dẫn chiếu băng công thức: “ phải phù hợp với pháp luật Việt nam” trong khi đo luật pháp trong nước còn thiếu, chưa hoàn chỉnh. Nhiều trường hợp, các nội dung của các luật khác nhau còn “đá nhau”. Ví dụ như luật sửa đổi bổ sung mộ số điều của luật nđàu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sqr dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam”. Nhưng trong các văn bản pháp luật chuyen ngành khác như :luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai, pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt nam tại quy định: “tổ chức, cá nhân nước ngoài đàu tư vào Việt Nam theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được chính phủ cho thuê đất chỉ được quyền thế chấp giá trị quyền sử đất gắn liền với tài sản thuộc sở hữu của mình đã đầu tư, sản xuất kinh doanh phù hợp giấy phép đầu tư và pháp luật Việt nam”. Ngay cả nghị định 178- CP và thông tư 06 của Ngân hàng Nhà nước quy định: “ trường hợp chi nhánh ngân hàng nhà nước, ngân hàng liên doanh và tổ chức tín dụng Việt Nam cùng cho vay đối với một dự án tại Việt Nam mà tài sản đảm bảo tiền vay là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì tổ chức tín dụng Việt Nam phải là đại diện quản lý tài sản và giấy tờ của tài sản bảo đảm vay. Như vậy, luật đầu tư nước ngoài cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thế chấp giá trị quyền sư dụng đất tại mọi tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt nam, nhưng các văn bản luật chuyên ngành thì lại quy định chỉ được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng của Việt Nam, không được thế chấp tại các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nhà nước tại Việt nam, đồng thời không được tách giá trị q uyền sử dụng đất và giá trị tài sản gắn liền với đất ra khỏi nhau để thế chấp tại các ngân hàng khác nhau hoạt động tại Việt nam. Việc quy định thiếu nhất quán giữa luật đầu tư nước ngoài và các văn bản luật chuyên ngành khác là nguyên nhân chủ yếu cản trở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vay vốn có tài sản bảo đảm bằng giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng hoạt động tại Việt nam. - Một chính sách luật pháp và văn bản hướng dẫn chậm đượ ban hành cũng như phổ biến áp dụng ở nước ta. Điều này đã gây ra những ý kiến quản ngại không an tâm, cũng như hạn chế các hoạt dộng của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo kết quả được rà soát lại các văn bản pháp luật được ban tổ chức cán bộ chính phủ tiến hành tháng 11/2000 cho thấy: chính phủ còn nợ 37 nghị định hướng dẫn thi hành các luật và nghị định, ví dụ nghị định 10 -CP ngày 23/1/1998 quy định các doanh nghiệp đăng ký với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải xin giấy phép kinh doanh hành nghề nhưng thông tư số 02/98- TT- Bộ xây dựng lại hướng dẫn một hồ sơ đăng ký giấy xác nhận phức tạp. Chưa kể số lượng các thông tư hướng dẫn của các bộ chuyên ngành và rất nhiều văn bản pháp luật ở các cấp cần được sửa đổi bổ su

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0266.doc
Tài liệu liên quan