Đề tài Lợi thế so sánh đối với mặt hàng dừa ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Lời Mở Đầu 1

Chương 1: 4

Tổng quan về lợi thế so sánh và vận dụng đối với mặt hàng dừa ở Việt Nam hiện nay 4

1. Cơ sở lý luận 4

1.1.Tổng quan về lợi thế so sánh 4

1.2 .Căn cứ để tính lợi thế so sánh 4

1.2.1. Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo 4

1.2.2. Lý thuyết của Heckscher – Ohlin về lợi thế tương đối 7

1.2.3. Lý thuyết của Haberler về lợi thế tương đối 9

1.2.4. Balassa với công thức tính hệ số của lợi thế so sánh RCA 10

1.3. Lợi thế so sánh của mặt hàng hoa quả nói chung và mặt hàng dừa nói riêng. 11

1.3.1. Lợi thế về điều kiện tự nhiên 11

1.3.2. Lợi thế về nguồn lao động, chi phí sản xuất và chế biến 11

1.3.3. Lợi thế về mức độ cung cấp sản phẩm dừa 12

1.4. Sơ lược ngành sản xuất và xuất khẩu dừa ở Việt Nam 13

1.4.1. Vai trò của ngành sản xuất và xuất khẩu dừa 13

1.4.2. Đặc điểm ngành sản xuất dừa ở nước ta 15

Chương 2. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu dừa của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 17

2.1. Kết quả tình hình xuất khẩu 17

2.1.1. Về thị trường xuất khẩu 17

2.2. 2.Về cơ cấu chủng loại và chất lượng sản phẩm 19

2.3.3. Về giá cả sản phẩm 19

2.2. Đánh giá chung 20

2.2.1. Ưu điểm và triển vọng của ngành sản xuất và xuất khẩu dừa trong những năm tới 20

2.2.1.1.Ưu điểm 20

2.2.1.2. Triển vọng trong thời gian tới 21

2.2.2. Những tồn tại và nguyên nhân 22

2.2.2.1. Những tồn tại 22

2.2.2.2. Nguyên nhân 23

Chương 3. Giải pháp đẩy mạnh ngành sản xuất và xuất khẩu dừa ra thị trường thế giới 24

3.1. Từ phía doanh nghiệp 24

3.1.1. Nâng cao chất lượng dừa và đa dạng các sản phẩm chế biến từ dừa nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh 24

3.1.2. Tăng cường tìm hiểu, cập nhật thông tin về thị trường 24

3.1.3. Đẩy mạnh xây dựng và quảng bá thương hiệu ra thị trường 24

3.2. Kiến nghị với Nhà nước 24

3.2.1. Hoàn thiện việc quy hoạch nguồn lực, mạng lưới chế biến, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu sản phẩm dừa 24

3.2.2. Nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ đối với doanh nghiệp xuất khẩu 25

3.2.3. Đẩy mạnh chiến lược tổng thể về hội nhập, đàm phán tham gia các hoạt động thương mại song phương 25

Kết luận 27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3457 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lợi thế so sánh đối với mặt hàng dừa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga. Song nếu chúng ta xét theo chi phí so sánh thì lại có cách nhìn khác: Bảng 1.2: Chi phí so sánh Sản phẩm Chi phí so sánh Việt Nam Nga 1 đv thép/1 đv quần áo 5 4 1 đv quần áo/1 đv thép 1/5 1/4 Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao hơn Nga: để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo, trong khi ở Nga chỉ cần 4. Nhưng ngược lại, chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại thấp hơn Nga: để sản xuất một đơn vị quần áo ở Việt Nam chỉ cẩn 1/5 đơn vị thép, trong khi Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này cho thấy Việt Nam có thể xuất khẩu quần áo sang Nga và nhập khẩu thép từ Nga. Khi đó cả hai quốc gia đều có lợi. Một cách tổng quát, thì ta có công thức tính lợi thế so sánh như sau: > thì quốc gia I sẽ có lợi thế so sánh ở mặt hàng Y, quốc gia II sẽ có lợi thế so sánh ở mặt hàng X Hoặc: > Thì quốc gia I sẽ có lợi thế so sánh ở mặt hàng Y, quốc gia II sẽ có lợi thế so sánh ở mặt hàng X. Mô hình của Ricardo là mô hình đơn giản nhất cho thấy sự khác biệt giữa các quốc gia đưa đến thương mại và những cái lợi từ thương mại. Trong mô hình này, các quốc gia sẽ xuất khẩu các sản phẩm mà họ sản xuất tương đối có hiệu quả và nhập khẩu những sản phẩm mà họ sản xuất tương đối kém hiệu quả. Đó chính là mô hình sản xuất của một nước được xác định bằng lợi thế so sánh. Nhưng lý thuyết của Ricardo mới chỉ đề cập đến lao động là yếu tố sản xuất mà không đề cập đến vốn, đất đai, khoa học công nghệ, và các quốc gia có lao động là giống nhau về trình độ, năng suất lao động…Đó là điểm hạn chế của lý thuyết mà cần có một lý thuyết khác giải thích một cách chính xác hơn. Lý thuyết của Heckscher – Ohlin về lợi thế tương đối Để giải thích về lợi thế tương đối trong thương mại, thầy trò H-O đưa ra giả thiết rằng thế giới chỉ có hai quốc gia sản xuất hai loại hàng hóa là X và Y với chỉ hai yếu tố đầu vào là Tư bản và Lao động, trong đó X chứa nhiều lao động còn Y chứa nhiều tư bản. Hay nói cách khác, hàng hóa Y là hàng hóa có tỷ số Tư bản/Lao động (K/L) được sử dụng để sản xuất lớn hơn so với hàng hóa X trong cả hai quốc gia. Nếu quốc gia thứ hai có sẵn tư bản hơn quốc gia thứ nhất, thì đường giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia này sẽ nghiêng về trục Tư bản, và của quốc gia thứ nhất sẽ nghiêng về trục Lao động. (Hình 1.3) K K L L Quốc gia thứ 2 Quốc gia thứ nhất Hay nói cách khác, các quốc gia có nhiều tư bản hơn thì họ sản xuất tương đối nhiều các sản phẩm cần nhiều vốn, và các quốc gia có nhiều lao động sẽ sản xuất tương đối nhiều sản phẩm cần nhiều lao động. Học thuyết của H-O đưa ra một mô hình cân bằng chung là lượng cầu về các yếu tố sản xuất, cùng với lượng cung sẽ xác định giá cả và yếu tố sản xuất trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Giá cả yếu tố sản xuất cùng với công nghệ sẽ xác định giá cả của hàng hóa cuối cùng. Sự khác biệt về giá tương đối cuối cùng của hàng hóa giữa các nước quyết định lợi thế so sánh và mô hình thương mại, tức là nước nào sản xuất những mặt hàng gì Hình 1.4 Quá trình hình thành giá cả sản phẩm của H-O Giá cả sản phẩm Kỹ thuật công nghệ Giá cả sản phẩm so sánh cân bằng nội địa Cầu yếu tố sản xuất Giá cả yếu tố sản xuất Cầu sản phẩm cuối cùng Mô hình mậu dịch Phân phối thu nhập Thị hiếu người tiêu dùng Cung yếu tố sản xuất Như vậy, có thể nói tóm lại về lý thuyết lợi thế so sánh của H-O qua sơ đồ trên chính là sự khác biệt cung các yếu tố sản xuất khác nhau giữa các quốc gia dẫn đến sự khác biệt của nhiều yếu tố khác và làm cho giá cả tương đối của hàng hóa khác nhau, diễn ra thương mại quốc tế. Đường in đậm chính là sự khác biệt về khả năng cung cấp tương đối các yếu tố dẫn đến sự khác nhau về giá cả tương đối của các yếu tố và của hàng hóa. Lý thuyết của Haberler về lợi thế tương đối Theo quan điểm của Gottfried Haberler, việc xem xét lợi thế tương đối dưới góc độ chi phí cơ hội sẽ chính xác hơn. Theo ông, chi phí cơ hội của một hàng hóa là số lượng các hàng hóa khác phải cắt giảm để có thêm được các tài nguyên để có thể sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa thứ nhất. Như vậy, quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp trong việc sản xuất ra loại hàng hóa nào đó thì có lợi thế so sánh trong việc sản xuất ra hàng hóa đó. Các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế so sánh để đổi lấy sản phẩm của các nước khác sản xuất rẻ hơn một cách tương đối, và trong trường hợp này thì các quốc gia đều có lợi. Và chính sự khác nhau về chi phí cơ hội trong sản xuất là nguyên nhân dẫn đến thương mại quốc tế Balassa với công thức tính hệ số của lợi thế so sánh RCA Nhà kinh tế học Balassa đề xuất công thức xác định hệ số lợi thế so sánh vào năm 1965 nhằm lượng hóa cụ thể mức độ so sánh của một mặt hàng: RCA = / trong đó: i là nước i, w là toàn thế giới, và j là sản phẩm j, X là giá trị xuất khẩu Trong công thức trên, nếu tỉ trọng xuất khẩu của nước i so với thế giới về mặt hàng j mà lớn hơn tỉ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i so với tổng xuất khẩu của toàn thế giới, tức là RCA >1 thì nước i có lợi thế so sánh ở mặt hàng j, hệ số này càng cao thì lợi thế so sánh càng cao, còn RCA <1 thì không có lợi thế so sánh ở mặt hàng j. Công thức chỉ ra lợi thế so sánh là lợi thế so sánh phụ thuộc vào 4 yếu tố sản xuất là : kim ngạch xuất khẩu một mặt hàng của một nước và của thế giới, tổng kim ngạch xuất khẩu của một nước và của cả thế giới. Do đó để làm tăng chỉ số này, cần gia tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tương đối. Lợi thế so sánh có thể thay đổi rất nhanh chóng, vì nó phụ thuộc vào 4 yếu tố luôn thay đổi thường xuyên. Như vậy, việc mở rộng thị trường ra thế giới trong điều kiện hội nhập nhanh chóng như hiện nay là cơ hội lớn để gia tăng lợi thế so sánh, đặc biệt là các sản phẩm có khả năng tăng sản lượng nhanh và kim ngạch xuất khẩu. 1.3. Lợi thế so sánh của mặt hàng hoa quả nói chung và mặt hàng dừa nói riêng. 1.3.1. Lợi thế về điều kiện tự nhiên Việt Nam là một nước có lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng ở một nước nhiệt đới, tạo điều kiện để sản xuất nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu. Điều kiện sinh thái thuận lợi ở nhiều vùng nước ta rất thuận lợi để sản xuất rau quả nói chung vào vụ đông, trong khi cùng thời gian ở vùng viễn Đông nước Nga hay ở Trung Quốc thì bị tuyết bao phủ và không trồng trọt được gì. Người lao động Việt Nam cần cù, có nhiều kỹ năng kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp cũng là một lợi thế đáng kể. Dừa là một giống cây thích hợp với khí hậu và đất đai ở nước ta, có thể trồng rộng rãi ở các miền nông thôn, xung quanh hồ ao, mương rạch, lạch sông, cây lại mọc khỏe, ưa đất thoáng dày, ẩm ướt. Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như nó ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa bình thường điều này giúp nó trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Dừa cần độ ẩm cao để có thể phát triển một cách tối ưu nhất, điều này lý giải tại sao nó rất ít khi được tìm thấy trong các khu vực có độ ẩm thấp , thậm chí cả khi các khu vực này có nhiệt độ đủ cao. Nó rất khó trồng và phát triển trong các khu vực khô cằn. Do đó, loại cây này có thể trồng phổ biến, với nhiều lợi ích đem lại về nhiều mặt, gia tăng sản lượng của giống cây này sẽ đem lại giá trị kinh tế vô cùng to lớn. Lợi thế về nguồn lao động, chi phí sản xuất và chế biến So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như dệt may, giầy da, cơ khí hay lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của mặt hàng nông sản nói chung tương đối thấp, nên thu nhập ngoại tệ ròng của mặt hàng xuất khẩu này là cao hơn nhiều. Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ. So với các loại cây lâu năm thì trồng dừa có ưu thế nhất là tiết kiệm được chi phí cho phân thuốc và công chăm sóc. Hơn nữa hiện nay người nông dân còn trồng xen cây ca cao, dưới mương nuôi được các loại cá nước ngọt để có thêm nguồn thu nhập. Ngoài ra người trồng dừa có thời gian nhàn rỗi để làm các công việc khác trong gia đình. Các sản phẩm từ dừa hiện nay rất phong phú và có nhiều cơ hội cho công nghiệp dừa của Việt Nam phát triển thông qua chế biến, đa dạng hóa sản phẩm. Nguồn lao động của nước ta rất dồi dào và chi phí lao động rẻ, từ đó sẽ tận dụng được thời gian nông nhàn và lao động dư thừa ở nông thôn, gia tăng thu nhập cho người trồng dừa, góp phần xóa đói giảm nghèo, là cơ hội giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. 1.3.3. Lợi thế về mức độ cung cấp sản phẩm dừa Cây dừa được mệnh danh là cây của cuộc sống, cây của 1001 công dụng do tính chất đa dụng của nó, tất cả các phần của cây dừa từ thân, lá, trái, vỏ, xơ, gáo, nước… đều có thể sử dụng phục vụ đời sống con người. Có lẽ không có loại cây trồng nào có thể sản xuất ra nhiều loại sản phẩm bằng cây dừa. Tất cả các sản phẩm từ cây dừa đều hữu ích cho con người, ngoài các sản phẩm phụ như thân dừa được sử dụng như là cây lấy gỗ cho mục đích xây dựng hay làm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, chất đốt thì trái dừa là sản phẩm chính tạo ra nhiều mặt hàng có giá trị cao làm tăng giá trị trái dừa, đồng thời cũng mở ra những ngành nghề ở nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, gia tăng thu nhập và phát triển kinh tế ở địa phương. Cơm dừa với thành phần chính là dầu dừa. Sản phẩm truyền thống từ cơm dừa là cơm dừa khô, là nguyên liệu cho các nhà máy ép dầu dừa, cung cấp cho các ngành công nghiệp và phụ phẩm là bã dừa sau khi ép lấy dầu là nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn cho ngành chăn nuôi. Cơm dừa tươi cũng là nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến thực phẩm. Gáo dừa sau khi hầm thành than là nguyên liệu làm than hoạt tính, được sử dụng trong các ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm, hóa chất…. Vỏ dừa trước đây chỉ dùng để làm chất đốt thì nay được dùng để lấy chỉ xơ dừa làm nguyên liệu để sản xuất các loại thảm, lưới sinh thái, dây thừng…, bụi xơ dừa được xử lý làm “đất sạch” cho sản xuất cây cảnh và rau an toàn cũng đem lại lợi tức rất lớn. Một phụ phẩm khác từ trái dừa là nước dừa từ trái dừa khô, trước đây dùng làm dấm, hay nước màu thì nay dùng làm thạch dừa, một lọai thức uống khá bổ dưỡng và có giá trị cao. Cây dừa với tán lá thưa, dưới tán dừa có thể trồng xen nhiều loại cây ăn trái, rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày hay cỏ làm thức ăn gia súc sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Cây dừa được sử dụng đa dạng, rất hữu dụng với đời sống con người, là nguyên liệu cho sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và du lịch. Nếu trồng đúng kỹ thuật và khai thác hết các tiềm năng và giá trị của nó, cây dừa sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn. 1.4. Sơ lược ngành sản xuất và xuất khẩu dừa ở Việt Nam 1.4.1. Vai trò của ngành sản xuất và xuất khẩu dừa Vai trò xã hội: Dừa là một loại cây tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất cho nhiều đối tượng xã hội khác nhau, đặc biệt là nông dân nghèo mà không một loại cây trồng nào có được. Theo thống kê, bình quân dưới 0,5 ha cho một hộ gia đình từ 4-5 người, như vậy có khoảng 110 triệu người sống dựa vào cây dừa. Hàng trăm mặt hàng được sản xuất từ các phần khác nhau của cây dừa giải quyết việc làm ổn định cho hơn 50% lao động nông nhàn nông thôn, chính vì thế mà cây dừa được gọi là cây của cuộc sống. Mặc dù bình đẳng nam nữ đã được cải thiện, tại một số quốc gia trên thế giới sự phân biệt đối xử vẫn còn khá nghiêm trọng. Thông qua việc chế biến đa dạng hóa sản phẩm từ cây dừa người phụ nữ có thể lao động tại chổ để kiếm tiền, tham gia quán xuyến gia đình mà không phải chỉ dựa vào người chồng. Vai trò môi trường của cây dừa: Cây dừa là một trong số ít các loại cây trồng có thể chịu đựng và tồn tại được trong những điều kiện khắc nghiệt của môi trường như khô hạn, ngập úng, đất cát nghèo dinh dưỡng, nước mặn xâm nhập, bão tố… Ở Việt Nam, trong điều kiện khắc nghiệt của khô hạn, bão tố, đất cát nghèo dinh dưỡng… của miền Trung và lũ lụt, mặn xâm nhập, nhiễm phèn… ở Đồng bằng sông Cửu Long thì cây dừa vẫn tỏ ra thích nghi tốt. Với vai trò là cây trồng tiên phong, cây dừa còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, tạo tiểu khí hậu ổn định, chống xói mòn, giữ vai trò quan trọng trong du lịch sinh thái ở ĐBSCL và ven biển miền Trung, tham gia phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Vai trò kinh tế của cây dừa đối với đời sống cộng đồng: Nếu chỉ sản suất các sản phẩm truyền thống có giá trị thấp, khó tiêu thụ như cơm dừa khô và dầu dừa thì cây dừa được liệt vào loại cây trồng có thu nhập thấp. Nhìn chung cây dừa có tiềm năng kinh tế lớn và có nhiều lợi thế riêng, có khả năng cạnh tranh với các loại cây ăn quả khác. Thực tế cho thấy nếu nông dân trồng giống dừa năng suất cao, biết áp dụng các biện pháp trồng xen, nuôi xen thích hợp trong vườn dừa đồng thời chế biến các phần của cây dừa thành các sản phẩm có giá trị cao tham gia thị trường, biến vườn dừa trở thành hệ sinh thái nông nghiệp sản xuất và kinh doanh nhiều loại sản phẩm để tận dụng tài nguyên đất đai, ánh sáng, nước, tay nghề lao động trong cộng đồng… thì hiệu quả kinh tế thu được từ cây dừa rất cao. Đã có thời kỳ nông dân chặt dừa trồng nhãn, trồng cây có múi nhưng giờ đây, cùng với sự phát triển của công nghiệp chế biến trái dừa, cây dừa nghiễm nhiên quay trở lại và trở thành loại cây trồng chủ đạo trong cơ cấu cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao.   Cây dừa dễ trồng, không kén đất, không đòi hỏi đầu tư chăm sóc nhiều. Hầu như người trồng dừa rất ít khi bón phân cho cây dừa, hoặc có bón thì lượng phân cũng rất khiêm tốn nhưng cây dừa vẫn cho mỗi tháng một quày, mang lại nguồn thu đều đặn hàng tháng cho nông dân mà không tập trung vào một ít tháng trong năm như các loại cây ăn quả khác.  Một ưu điểm khác của cây dừa là vấn đề sâu, bệnh gây hại không nghiêm trọng như các cây trồng khác. Thường cây dừa có thể dễ dàng vượt qua và phục hồi nhanh chóng, tiếp tục mang trái sau khi bị tấn công bởi những loài côn trùng, động vật gây hại không nghiêm trọng hoặc được phát hiện sớm mà không cần bất kỳ biện pháp xử lý tốn kém nào. Ưu điểm quan trọng nhất của cây dừa đó là tất cả các phần của cây dừa đều có thể tạo ra thu nhập. Thậm chí khi cây đã chết, thân dừa cũng có thể làm hàng thủ công mỹ nghệ và dụng cụ gia đình có thể dùng để trang trí và sử dụng. Ở những nước văn minh hơn, con người thường có khuynh hướng sử dụng những vật liệu có khả năng tái chế, không gây ô nhiễm môi trường theo xu thế bảo vệ môi trường sạch và bền vững thì cây dừa càng có ý nghĩa hơn nữa về khía cạnh này. 1.4.2. Đặc điểm ngành sản xuất dừa ở nước ta Hiện trên thế giới, dừa được trồng tại 93 quốc gia và vùng lãnh thổ, với diện tích trên 12 triệu ha, trong đó trên 80% diện tích dừa là ở Đông Nam Á, đứng đầu phải kể đến Philippin và Indonesia. Việt Nam với diện tích trên 200000ha dừa, là một trong những nước cung cấp sản phẩm dừa xuất khẩu chủ yếu trên thế giới. Dừa ở nước ta được trồng ở Đồng bằng sông Cửu Long là chủ yếu. Vườn dừa tập trung ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau,Vĩnh Long…và cũng là nguồn thu chủ yếu của người dân nơi đây. Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm từ dừa trên thế giới đang tăng mạnh, cho thấy tiềm năng xuất khẩu dừa và các sản phẩm từ dừa của Việt Nam là rất lớn. Nhiều hộ gia đình trồng dừa trong các tỉnh phía nam đã ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và chế biến dừa, và có những kiến thức cơ bản về kỹ thuật chăm sóc dừa, các sản phẩm chế biến từ dừa cũng đa dạng phong phú hơn, Chương 2. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu dừa của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 2.1. Kết quả tình hình xuất khẩu 2.1.1. Về thị trường xuất khẩu Những năm gần đây, dừa luôn là một trong những mặt hàng rau quả xuất khẩu chính của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng cao. Năm 2006, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Hong kong, Ả rập Xê út, Achentina… Năm 2007, đã xuất sang 47 thị trường trên thế giới sản phẩm cơm dừa, và xuất sang các thị trường lớn đó là Trung Quốc, Thái Lan… Tính đến 5/ 2009 có đến 58 thị trường nhập khẩu dừa và các chế phẩm từ dừa của Việt Nam, tăng 19 thị trường so với cùng kỳ năm 2008 Ba thị trường nhập khẩu chính sản phẩm dừa của Việt Nam là Trung Quốc, Ai Cập và Xiri (3 thị trường này đạt 11,8 triệu USD, chiếm 60,4% tổng kim ngạch). Có khá nhiều thị trường đạt kim ngạch cao trong 5 tháng đầu năm, trong đó, Trung Quốc là thị trường đạt kim ngạch cao nhất trong 5 tháng đầu năm 2009 với 7,6 triệu USD, tăng 54,4% so với cùng kỳ 2008. Tiếp đến là Ai cập đạt 2,8 triệu USD, tăng 169%; Xiri đạt 1,4 triệu USD, tăng 152,1%. Tuy nhiên cũng có nhiều thị trường giảm đáng kể về kim ngạch như Hàn Quốc giảm 8,1%; Pháp giảm 64%; Ba Lan giảm 72,4%; ả rập xê út giảm 91,4%... Bảng 1.5 Thị trường xuất khẩu dừa và chế phẩm từ dừa 5 tháng đầu năm 2009 Thị trường 5T/2009 5T/2008 5T/2009 so với 5T/2008 (%) Trị giá (USD) Trị giá (USD) Trung Quốc 7.605.310,0 4.926.528,2 54,4% Ai Cập 2.851.621,8 1.059.945,5 169,0% Xi ri 1.355.453,5 537.717,1 152,1% Đến cuối năm 2009, tổng số thị trường nhập khẩu đã lên tới 84 thị trường, trong đó có 69 thị trường nhập khẩu cơm dừa.Thị trường Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) vươn lên đứng thứ 3 trong số các thị trường nhập khẩu dừa lớn của Việt Nam, 3 thị trường Trung Quốc, Ai cập, UAE đạt kim ngạch 23,7 triệu USD, chiếm 56,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảng 1.6 Thị trường xuất khẩu dừa và chế phẩm từ dừa 10 tháng/2009 Thị trường 10T/2009 10T/2009 so với 10T/2008 (%) Trị giá (USD) Trung Quốc 16 -14,2% Ai Cập 5,2 354,9% UAE 2,6 157% EU là thị trường mới mẻ của Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu dừa, năm 2009 vừa qua tỉnh Bến Tre đã xuất sang EU 20 tấn dừa tươi được gọt vỏ, tạo hình bắt mắt và được xử lý và bảo quản bằng công nghệ hiện đại. 2.2. 2.Về cơ cấu chủng loại và chất lượng sản phẩm Năm 2007, Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu cơm dừa nạo sấy và chỉ sơ dừa hàng đầu thế giới, song song đó hàng trăm mặt hàng thủ công mĩ nghệ, phục vụ khách du lịch và xuất khẩu đạt trị giá trên 20 tỷ đồng. Năm 2008, chỉ riêng tỉnh Bến Tre, kim ngạch xuất khẩu dừa đạt trên 66 triệu USD, và tập trung xuất khẩu 23 mặt hàng khác nhau trong đó nhiều nhất là cơm dừa nạo sấy (21 triệu USD) và chỉ xơ dừa (11 triệu USD) Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu dừa ước đạt 50 triệu USD, trong đó, tỷ trọng các sản phẩm dừa xuất khẩu như sau: (Hình 1.7) Nhằm làm tăng chất lượng sản phẩm, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đang gấp rút tiến hành áp dụng khoa học kỹ thuật và quy hoạch đất trồng dừa. 4 loại dừa có năng suất cao và chất lượng tốt được nhân gien giống thành công là dừa xiêm, dừa ẻo, dừa dứa và dừa sáp. Các giống dừa này đã xuất sang Mexico theo chương trình hợp tác của hai Viện nghiên cứu Dầu thực vật của hai nước. 2.3.3. Về giá cả sản phẩm Năm 2007, các doanh nghiệp xuất khẩu dừa cho các thị trường lớn ở Châu Á với mặt hàng dừa sấy khô là 1210 USD/tấn, các lô hàng dừa khô xuất sang Trung Quốc thông thường là 0,16-0,17 USD/quả theo điều kiện giao hàng FOB. Giá thạch dừa xuất sang Nhật Bản ở mức 9,5 USD/thùng, sang Đài Loan là 0,22 USD/kg Còn đối với giá thu mua tại vườn thì dao động ở 2500 – 2700 đ/trái, do đó với 1 ha dừa,người dân có thể thu được lãi từ 25-30 triệu đồng mỗi năm. Năm 2009, đơn giá xuất khẩu mặt hàng dừa sấy khô là 950-1700 USD/tấn, một số thị trường như Nga, EU, Ma rốc giá tương đối cao từ 2000 – 2400 USD/tấn, như vậy là giá xuất khẩu mặt hàng dừa nói chung năm 2009 nhìn chung tăng gần gấp 2 lần so với năm 2007. Đây là niềm vui lớn đối với các nhà vườn. 2.2. Đánh giá chung 2.2.1. Ưu điểm và triển vọng của ngành sản xuất và xuất khẩu dừa trong những năm tới 2.2.1.1.Ưu điểm Theo số liệu của ngành Dầu thực vật thì tổng diện tích dừa của Việt Nam đạt tới 330000 ha vào cuối thập niên 80, đến nay là khoảng 200000 ha, được trồng từ Bắc tới Nam, nhưng nhiều nhất vẫn là đồng bằng sông Cửu Long với trên 70% diện tích trồng dừa. Diện tích trồng dừa giảm trong giai đoạn thập niên 90 là do giá bán dừa trái thấp, hiệu quả kinh tế từ cây dừa không bằng các loại cây trồng khác nên nhà vườn chuyển đổi sang vườn cây ăn trái như xoài, sầu riêng, nhãn. Từ năm 2004 đến nay do hoạt động chế biến dừa trái gia tăng, giá bán nguyên liệu dừa trái lên rất cao nên diện tích trồng dừa ở các địa phương liên tục tăng. Bến Tre giữ vị trí là địa phương có diện tích trồng dừa lớn nhất cả nước. Nhận định cây dừa là cây truyền thống, đồng thời cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ cây dừa, Bến Tre cùng một số địa phương trồng dừa khác đã thực hiện nhiều biện pháp như: thâm canh, đốn tỉa bớt vườn dừa quá dày; trồng xen để tăng thu nhập; đa dạng hóa các sản phẩm từ cây dừa để tăng nguồn hàng xuất khẩu… Ở Việt Nam trong những năm gần đây, mặt hàng nông sản chiếm một tỷ trọng tương đối lớn là gần 15% trong cơ cấu xuất khẩu, ngoài những mặt hàng chủ lực như gạo, cà phê, cao su… thì phải kể đến mặt hàng rau quả hiện nay cũng được coi là mặt hàng xuất khẩu nhiều tiềm năng, trong đó dừa cũng chiếm khoảng 15% trong trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 2009 là 50 triệu USD trong tổng con số 350 triệu USD. Ngày nay, kỹ thuật trồng dừa cũng đã được cải thiện tương đối so với những năm 90 về việc chọn giống dừa, hay kỹ thuật chăm sóc để đạt năng suất cao, đặc biệt việc thâm canh được chú trọng nên các vườn dừa ở các địa phương đem lại hiệu quả kinh tế hơn ngày xưa. Việc điện khí hóa nông thôn như trong việc chế biến dừa có nhiều khâu được điện hóa như hàng thủ công mĩ nghệ, cơm dừa nạo sấy, kẹo dừa, ép dầu dừa, quay chỉ sơ dừa, ép mụn dừa…góp phần quan trọng nâng cao năng suất, cải tiến kỹ thuật, làm đẹp mẫu mã, góp phần quan trọng trong việc làm tăng thị phần ở thị trường trong nước cũng như trên thế giới. 2.2.1.2. Triển vọng trong thời gian tới Dừa và các sản phẩm được chế biến từ dừa hiện nay giữ một vai trò quan trọng không những của những người nông dân trồng dừa và sống dựa vào cây dừa, đóng góp giá trị lớn vào việc sản xuất cung ứng cho tiêu thụ nội địa, mà nó còn góp một phần quan trọng trong chiến lược hướng ra thị trường thế giới của nước ta trong những năm gần đây. Gần đây, nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu chuỗi giá trị của cây dừa, tính toán nhiều sản phẩm làm ra từ cây dừa, trồng xen nhiều cây dưới cây dừa để hoạch định chiến lược hữu hiệu nhất cho các vườn dừa ở nước ta. Đây là một cơ hội lớn cho sản phẩm dừa mang thương hiệu Việt Nam vươn xa ra ngoài thị trường không chỉ trong khu vực và các nước lân cận mà còn trên toàn thế giới. Theo nhận định của các chuyên gia thì đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành nước xuất khẩu cơm dừa nạo sấy lớn thứ hai trên thế giới, mặt hàng dễ sản xuất và tiêu thụ, dầu dừa sẽ dùng làm nhiên liệu sinh học thay cho nhiên liệu hóa thạch. Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm được làm từ dừa hiện nay trên thế giới đang tăng mạnh do xu hướng tiêu dùng các sản phẩm có lợi cho sức khỏe và không gây ô nhiễm môi trường, cho thấy tiềm năng xuất khẩu sản phẩm dừa của Việt Nam là rất lớn. Nếu có hướng đi phù hợp, nâng cao cải tiến công nghệ, đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm, tạo thế đứng mới cho cây dừa, thì Việt Nam có thể nhanh chóng rút ngắn khoảng cách và theo kịp các nước xuất khẩu hàng đầu trong vài năm tới. 2.2.2. Những tồn tại và nguyên nhân 2.2.2.1. Những tồn tại Nhìn chung trong những năm vừa qua, sản xuất và xuất khẩu dừa đã đạt được những thành tựu đáng kể, vai trò của trái dừa Việt Nam đã sánh ngang với nhiều mặt hàng chủ lực khác, tuy nhiên từ việc cung ứng đến xuất khẩu sản phẩm này vẫn còn đối mặt với rất nhiều khó khăn. Thứ nhất là vấn đề thị trường, trong những năm gần đây giá dừa mà bán trong nước cũng như xuất khẩu là không được cao, thậm chí năm 2004 giá dừa trái tương đối thấp, chỉ ở khoảng 500-700 đ/trái, làm cho nhiều hộ nông dân sản xuất dừa đã chuyển sang trồng những loại trái cây khác làm giảm đáng kê diện tích dừa Năm 2007 con số này là 2500 – 2700 đ/trái, nên mỗi năm các hộ nông dân chỉ thu được 25-30 triệu đồng /1 ha dừa. Năm 2009, kể cả sản lượng cũng như giá cả xuất khẩu dừa ra các nước trên thế giới cũng giảm so với năm 2008. Thứ hai, là vấn đề sản xuất và cung ứng sản phẩm dừa của nước ta còn tương đối manh mún, nhỏ lẻ, chưa có quy mô lớn và dễ biến động theo thị trường. Vì thế thương hiệu sản phẩm dừa của Việt Nam vẫn chưa được nâng cao ở mức xứng đáng. Thứ ba, là sự đa dạng hóa các sản phẩm dừa chưa được mở rộng và quan tâm đúng mức, trong khi một số nước xuất khẩu dừa lớn trên thế giới như Philippin, Indonesia… có thể sản xuất được trên 100 sản phẩm khác nhau từ dừa thì Việt Nam mới chỉ sản xuất và chế biến được vài ba chục sản phẩm. 2.2.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân của việc cung ứng sản phẩm chưa cao là ở chỗ diện tích trồng dừa của Việt Nam đã giảm so với trước kia. Nếu cuối những năm 80, diện tích dừa đạt trên 330000 ha trên cả nước, thì đến 2004 con số này chỉ còn 154000 ha, và đến nay là khoảng 200000 ha, do có những thời điểm giá dừa sụt giảm, sâu bệnh hại mùa nên năng suất thấp, người nông dân chuyển sang nuôi trồng những sản p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25809.doc
Tài liệu liên quan