Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và vận dụng lí luận đó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Triết học Mác Lênin đã chỉ rõ: "Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy". Hình thái kinh tế - xã hội là những nấc thang kế tiếp nhau trong quá trình phát triển của nhân loại như một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.

C.Mác đã nghiên cứu sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử: từ nguyên thủy đến nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng sản chủ nghĩa, trong đó C.Mác đã nghiên cứu rất kỹ mô hình xã hội tư bản, vạch ra các quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong tất yếu của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời của một hình thái kinh tế- xã hội cao hơn – hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.

 

docx32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 40555 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và vận dụng lí luận đó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam có thể thu hút tới 12 tỷ USD đầu tư FDI. Kinh tế phát triển không chỉ cải thiện đời sống mà còn tạo cho công nhân và người dân Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn về công ăn việc làm với đồng lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn. Năm 2007 là một năm đáng ghi nhận của Việt Nam. Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), với tư cách này, Việt Nam trở thành một địa chỉ đầu tư hấp dẫn trong cộng đồng doanh nghiệp thế giới. Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, với nhiều nền văn hoá khác nhau. Mỗi nền văn hoá mang một bản sắc riêng biệt tạo nên một bản sắc văn hoá Việt Nam. Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lê Nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên CNXH. Trước đổi mới:Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, đã tạo dựng được bản sắc riêng của mình từ xưa đến nay. Nhưng trong thời kỳ trước đổi mới, do chúng ta thực hiện chính sách “ bế quan tỏa cảng” không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong cả lĩnh vực văn hóa, do đó nước ta rất hạn chế trong việc giao lưu với các quốc gia bên ngoài (trừ những nước XHCN). Sau Đổi mới: Phát huy những cái vốn có của dân tộc, chúng ta càng phát triển hơn nền văn hóa đậm đà bản sắc của mình, đặc biệt là hiện nay ta đang hội nhập với thế giới, ta càng cần phải phát huy hơn nữa, giới thiệu những tinh hoa văn hóa của mình đến bè bạn thế giới. Đồng thời phải biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loai, ta cần “hòa nhập nhưng không hòa tan vào dòng chảy của thời đại” . Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc... và coi đây là đặc trưng riêng có của CNXH ở Việt Nam Trước đổi mới: Sau khi có hoà bình, độc lập, thống nhất, chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ (ở miền Bắc sau 1954, ở miền Nam sau 30-4-1975) với hy vọng bằng cách đó sẽ có xã hội không còn người bóc lột người; mọi người đều sống trong công bằng, bình đẳng, có cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một cao, con người hoàn toàn được giải phóng. Song, kết quả của cải tạo xã hội chủ nghĩa - đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - lại làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, cuộc sống của nhân dân ngày một khó khăn, những quan hệ xã hội ngày càng diễn biến phức tạp... Sau đổi mới: Sau khi nhận ra được những khuyết điểm của mình, Đảng ta đã sửa chữa. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường , chúng ta đã thực hiện “làm theo năng lực hưởng theo lao động”, điều đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta đi lên. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, khi Việt Nam gia nhập vào các tổ chức lớn trên thế giới, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, đời sống của người dân được nâng lên rất nhiều. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau... Trước đổi mới: Từ trong chiến tranh nhân dân ta đã phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc để giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống lại hai đế quốc hung mạnh Mỹ và Pháp, điều đó đã chứng tỏ sức mạnh đoàn kết của toàn thể dân tộc. Hiện nay: Khi đất nước đã độc lập thì sức mạnh đoàn kết đó càng được phát huy. Nhà nước ta đã có rất nhiều chính sách quan tâm đến các dân tộc thiểu số như các chương trình 134, 135…Gần đây , có một số vụ bạo động xảy ra ở vùng núi và Tây Nguyên, đã gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Nhờ những chính sách của Đảng và nhà nước mà các vụ bạo động đã được dẹp yên, vẫn giữ vững được mối đoàn kết của toàn dân tộc. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới! Trước đổi mới: do chính sách “ bế quan tỏa cảng”, nước ta chỉ giao lưu với các nước XHCN, nên mối quan hệ đối ngoại giữa nước ta với các nước trên thế giới rất hạn chế. Đặc biệt trong thời gian này, Mỹ thực hiện chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, điều này cũng một phần làm cho mới quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước bị hạn chế nhiều. Sau đổi mới: khi Mỹ đã bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, và sau đó lần lượt các nước lớn đặt mối quan hệ bang giao với nước ta thì mối quan hệ này được cải thiện nhiêu. Và hiện nay, chúng ta đã mở rộng quan hệ quốc tế đa phương, đa dạng, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, với chiến lược đúng đắn và lộ trình thích hợp, theo tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, vì hòa bình, độc lập, và phát triển". Trong xây dựng kinh tế, phải dựa vào nguồn lực bên trong là chính, đồng thời tranh thủ tối đa những nguồn lực từ bên ngoài. Qua những thành tựu trong công cuộc đổi mới, con đường xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng được khẳng định, cuộc sống thay đổi từng ngày, nhân dân càng tin vào Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. 6/ Những giải pháp để rút ngắn thời gian quá độ lên chủ nghĩa tư bản. Công cuộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mặc dù gặp nhiều thuận lợi từ tiềm lực bên trong đến sự giúp đở của bên ngoài nhưng thử thách và khó khăn đặt ra cho Việt Nam không phải là không có. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ TBCN, từ một xã hội vốn là nữa thực dân, nữa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, trình độ nghèo nàn. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh đã để lại hậu qủa nặng nề, những tàn dư của thực dân phong kiến, chế độ cũ để lại còn nhiều. Các thế lực thường xuyên tìm cách chống phá chế độ XHCN nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trong cuộc họp đại biểu giữa nhiệm kỳ VII đã xác định các vấn đề quan trọng đáng quan tâm: Nguy cơ bị tụt hậu xa về kinh tế so với các nước trên thế giới, nguy cơ lệch khỏi định hướng XHCN, tệ nạn tham nhũng, quan liêu ở các cơ quan nhà nước, nguy cơ về các “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch ngày càng phức tạp tinh vi nhằm phá hoại công cuộc cách mạng của Đảng và nhà nước. Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: Đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường. Để quá trình quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội được rút ngắn, những mục tiêu đặt ra nhanh chóng được hiện thực hoá Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp thiết thực dựa trên việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tường Hồ Chí Minh. Các nhiệm vụ đặt ra là: Qua suốt 20 năm đổi mới, hoàn thiện trên con đường đi lên XHCN, Đảng đã xác định là con đường mà thời kỳ quá độ đất nước còn dài, có nhiều khó khăn, phải trải qua nhiều chặn đường. Đảng ta xác định bỏ qua nhưng phải tôn trọng lịch sử - tự nhiên, tính tuần tự không chủ quan, nóng vội. Bỏ qua những khâu trung gian những hình thái quá độ, không bỏ quan nền sản xuất hàng hóa. Bỏ qua nhưng phải kế thừa, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Bỏ qua lực lượng sản xuất nhưng không lặp lại quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa vừa rút ngắn quá trình ấy. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách nó giữ vai trò thống trị xã hội chứ không xóa sạch các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Phát triển nhanh mạnh lực lượng sản xuất, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại, gắn liền với phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thống nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra: "Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần vừa có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên CNXH, tiến hành CNH XHCN để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN là một tất yếu khách quan. Không tiến hành CNH thì không thể xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, không thể thực hiện phân công lao động xã hội, không có CNXH. Đảng khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN. Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc trong nước, tiếp thu những tri thức văn hóa nhân loại xây dựng một xã hội dân chủ văn minh vì lợi ích và phẩm giá con người. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước. Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ không thể tách rời nhau đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải luôn cảnh giác củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, an toàn xã hội bảo vệ vững chắc mọi thành quả cách mạng. Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Những mục tiêu phương hướng cơ bản trên vừa đảm bảo tính nguyên tắc, đảm bảo không chệch hướng XHCN vừa quán triệt tinh thần đổi mới, cải tạo nhằm xây dựng thành công CNXH ở nước ta. C/ KẾT LUẬN Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với quyết tâm khắc phục khó khǎn, với tinh thần kiên trì và tích cực trong tìm tòi thử nghiệm, nhân dân ta vẫn không nao núng trước những biến động về kinh tế - xã hội. Đảng ta vẫn quyết tâm làm chuyển biến tư duy, nhận thức và tư tưởng, xác định nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách mới, nhằm khắc phục khủng hoảng và tìm mọi cách đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN. Nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. A/ PHẦN MỞ ĐẦU I/ Lí do chọn đề tài Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đó là vấn đề trung tâm, cốt lỗi trong đường lối cách mạng nước ta, nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng…của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng và phức tạp nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện vẫn không ít nội dung phải tiếp tục nghiêm cứu, cắt nghĩa, lí giải, trả lời. Cuộc đấu tranh tư tương diễn ra gây gắt trong nhiều năm nay chủ yếu cũng trên vấn đề này. Thực tiễn chứng minh trong cuộc cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những thành tựu đó luôn gắn liền với qúa trình vận dụng sáng tạo, bổ xung phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, những thành tựu to lớn và quan trọng đó là cơ sở khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng. Bất chấp thực tiễn hùng hồn đó, trong những năm qua và hiện nay vẫn có một số người hoặc do thông tin không đầy đủ hoặc do sự bất cập trong nhận thức lý luận và thực tiễn, bị những kẻ phản động dụ dỗ đã ra sức tấn công, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng. Họ phủ nhận, xuyên tạc những thành quả đổi mới, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phủ nhận vai trò của Đảng, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta. Để chống lại những luận điệu xuyên tạc đó Đảng và nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí Minh và lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và khẳng định sự lựa chọn con đường đúng đắn của Đảng ta. Là sinh viên, lớp trí thức trẻ, nhận thức rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đồng thời muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình vào chính sách tuyên truyền đường lối của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng niềm tin trong nhân dân và đánh bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của những kẻ phản động. Đó là lí do chính để em chọn đề tài này. Mặc dù đây là đề tài không mới, nhưng với các tiếp cận cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, hy vọng đây là nguồn tư liệu cho sinh viên ĐH Quảng Nam học tốt môn học “những nguyên lí cơ bản Mác – Lênin”. II/ Mục đích nghiên cứu Nhằm trang bị cho chúng ta những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Liên hệ những quan điểm đó qua công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trang bị cơ sở phương pháp luận giúp chúng ta biết vận dụng, phân tích cơ sở khoa học và quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Góp phần giáo dục tư tưởng chính trị, định hướng cho mọi người dân nhận thức rõ nét hơn về quan niệm của Mác – Lênin và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ đó biết tránh được sự dụ dổ của bọn phản động, chống phá, xuyên tác chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. III/ Giới hạn đề tài Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và vận dụng lí luận đó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. IV/ Phương pháp nghiên cứu · Phương pháp phân tích và xử lý tài liệu · Phương pháp lôgic · Phương pháp tổng hợp · Phương pháp tra cứu trông tin trên các trang web. · Phương pháp biện chứng duy vật B/ NỘI DUNG I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1/ Một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội a) Qua điểm của Mác - Lênin Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế - xã hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn. Để có cái nhìn một cách chính xác và đầy đủ chúng ta có thể cảm nhận về Chủ nghĩa xã hội qua các quan điểm sau: Chủ nghĩa xã hội với nghĩa là phong trào đấu tranh Cách mạng của quần chúng nhân dân chống chế độ tư hữu, bóc lột áp bức, bất công để đòi giải phóng…Ở ý nghĩa này nó được ghi nhận bởi lịch sử đấu tranh giai cấp của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là nhu cầu hoạt động thực tiễn của nhân dân lao động trong quá trình sản xuất ngày càng xã hội hóa và thực thi dân chủ. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là ước mơ, lý tưởng về một xã hội tốt đẹp: không còn tư hữu, giai cấp, áp bức bóc lột…Nó được xuất hiện khi những cuộc khởi nghĩa của nô lệ bị thất bại và đàn áp dã man. Nói đến chủ nghĩa xã hội là nói đến một xã hội bênh vực người lao động, một xã hội không còn tình trạng người bốc lộc người, một xã hội mà mỗi con người đều có quyền tự do. Chủ nghĩa xã hội đêm lại cho con người những điều tốt đẹp nhất cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Với ý nghĩa này, chủ nghĩa xã hội là một triển vọng tất yếu của nhân loại. Dù thăng trầm, chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu phát triển của tiến bộ xã hội trong mọi thời đại. Nếu như cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII - XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển của hình thái kinh tế. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Vận dụng quan điểm này của Mác chúng ta có thể lý giải sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Khi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời, sau một thời gian quá độ lâu dài với sự chuẩn bị cần thiết về cơ sở vật chất kỉ thuật, mang sắc thái chủ nghĩa xã hội và đáp ứng mọi yêu cầu của chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội – giai đoạn phát triển thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời. b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội: Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu nói một cách vắn tắt, mộc mạc, thì chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và có cuộc sống hạnh phúc. Nói cách khác, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân khỏi nghèo nàn, lạc hậu; là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, mọi người được hưởng quyền bình đẳng – nghĩa là ai cũng phải lao động. Ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không được ăn”. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên sở hữu xã hội đối với tư liệu sản xuất chủ yếu. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, còn là xã hội có văn hoá, khoa học - kỹ thuật phát triển cao; người với người là bạn; loại trừ mọi tha hoá, bất công, cường quyền... Con người trong chủ nghĩa xã hội có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để mọi khả năng của con người đều được thể hiện và thực hiện một cách đầy đủ vì hạnh phúc của mình và của cả xã hội, nhân cách con người với tất cả tính đa dạng của nó được tôn trọng. Hồ Chí Minh cho rằng: “...chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”. Chủ nghĩa xã hội là xã hội do chính nhân dân xây dựng nên, là sản phẩm nỗ lực chung của chính nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhấn mạnh đặc trưng này, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”, đó là công trình tập thể của quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tính xã hội chủ nghĩa thâm nhập và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, các phương diện cơ bản của một chế độ xã hội - từ kinh tế đến chính trị, văn hoá, con người trong đó, điểm then chốt nhất là con người, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh về vật chất và tinh thần cho tất cả mọi người. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. 2/ Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phát thảo một số nét cơ bản về xã hội tương lai, trong đó có nêu những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thứ nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu chủ nghĩa xã hội về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này thường xuyên được cũng cố và hoàn thiện, bảo đảm luôn thích ứng với tích chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đây là đặt trưng được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa bao trùm. Đặc trưng này thể hiện rõ nhất sự khác nhau về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất. Xây dựng nền kinh tế pháp triển cao là đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội trong đó cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp. Đây là điều kiện căn bản nhất để phục vụ con người và cũng chỉ khi có kinh tế cao thì chủ nghĩa xã hội mới chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, mới đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân dân của xã hội. Đặc trưng không thể thiếu khi nói đến chủ nghĩa xã hội đó là xã hội có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người phải được giải phóng khỏi áp bức bất công có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Con người được đặt vào trung tâm của đời sống xã hội, được xem là chủ thể chân chính của mọi quá trình xã hội. Chủ nghĩa xã hội phải là xã hội tạo ra được những điều kiện cho sự phát triển tự do của mỗi người là cơ sở cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đở nhau cùng tiến bộ. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tấc cả các nước trên thế giới. Các đặc trưng nói trên bao quát một cách toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội - từ chính trị đến kinh tế, văn hoá, xã hội, con người; từ đối nội lẫn đối ngoại. Các đặc trưng đó có mối liên hệ gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất; chúng vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần từng bước. Mọi hoạt động lãnh đạo và quản lý đều phải chú ý đến các đặc trưng đó, làm cho những đặc trưng đó được biến thành hiện thực. Đó chính là định hướng chính trị cơ bản trong hoạt động của mọi cấp, mọi ngành. Các đặt trưng trên đã thể hiện được bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, đặc trưng, lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là đối trọng để chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh, học hỏi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, ổn định hơn và trở nên tốt đẹp hơn để được xã hội loài người chấp nhận. II/ CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM 1/ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa – đích nhắm trong xây dựng kinh tế - xã hội của Việt Nam. Triết học Mác Lênin đã chỉ rõ: "Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxchu_nghia_xa_hoi_va_con_duong_tien_len_chu_nghia_xa_hoi_o_viet_nam_9617.docx
Tài liệu liên quan