Đề tài Lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong các tác phẩm kinh điển và sự vận dụng của học thuyết đó ở nước ta hiện nay

 

TRANG MỤC LỤC

 

Mở đầu 1

Chương 1 : Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và cơ sở lý luận, phương pháp luận của nó.

1.1.Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và nội dung cơ bản của nó.

1.2.Cơ sở lý luận và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa.

Chương 2 : Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong các tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”, “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, “ Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”.

2.1.Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa.

2.2. Nội dung học thuyết kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”.

2.3. Nội dung học thuyết kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”.

2.4. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta”.

2.5. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế xã hội trong tác phẩm “ nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của nhà nước”.

Chương 3 : Ýnghĩa của việc nghiên cứu lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong các tác phẩm kinh điển và sự vận dụng của học thuyết đó ở nước ta hiện nay.

3.1.Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa.

3.2. Sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13298 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong các tác phẩm kinh điển và sự vận dụng của học thuyết đó ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yết hình thái kinh tế - hội Cộng sản Chủ nghĩa. Nhưng nó đã đóng góp một phần quan trọng trong lý luận chung của Mác và Ăngghen về xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp của giai cấp công nhân. Qua tìm hiểu, phân tích và nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Ăngghen sẽ có thêm cơ sở thực tiễn và lý luận cho việc hoàn thiện học thuyết Cộng sản Chủ nghĩa trong tương lai. Điều đó có ý nghĩa to lớn đối với những người giảng dạy nghiên cứu lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học, lý luận chính trị vô sản và chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung. Đối với nước ta hiện nay,việc nghiên cứu tác phẩm có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức, xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm hoàn thiện bước quá độ tiến lên xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và Cộng sản Chủ nghĩa. Đảng đưa ra các chính sách phải xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, của nhân dân. Lãnh đạo đảng và nhà nước phải là những người ưu tú nhất,có cả tâm và tài, tự nhận thức được vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Kim chỉ nam cho mọi hành động là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng một nhà nước Việt Nam vững mạnh, công bằng và văn minh. 2.3. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm “ ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” (1851) 2.3.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Đến giữa thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra ở nhiều quốc gia châu Âu, quan hệ sản xuất Tư bản Chủ nghĩa vẫn còn khả năng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp. Nhưng vào năm 1847 – 1848 Chủ nghĩa Tư bản châu Âu lại bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế trong công nghiệp và thương nghiệp, cũng vào trong thời kỳ này, nạn mất mùa trong nông nghiệp càng làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Toàn bộ tình hình đó đã dẫn đến cao trào cách mạng trên khắp các lục địa. Nhưng từ năm 1850, kinh tế châu Âu lại lại bước nhanh vào thời kỳ phồn thịnh do đó các thế lực phản động lại có điều kiện giành được địa vị thống trị Ở Pháp lúc bấy giờ tình hình xã hội tương đối phức tạp , mâu thuẫn giai cấp chằng chịt và rất khó giải quyết. Trong tình hình đó ngày 2 tháng chạp năm 1851 một sự kiện không bình thường diễn ra ở Pháp, đó là những phần tử theo Tổng thống Lui Bônapac đã làm cuộc đảo chính, giải tán Quốc hội, thiết lập chế độ độc tài, Lui Bônapac tự xưng là Hoàng đế. Có nhiều ý kiến trái ngược nhau về sự kiện này. Trong hoàn cảnh đó bằng khả năng thiên tài của mình mà Mác đã viết tác phẩm “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” nhằm giải thích đúng đắn sự kiện đã diễn ra và vạch ra bản chất xấu xa phản động của Lui Bônapac với một thái độ khinh miệt. 2.3.2. Nội dung về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac”. Tới tác phẩm này thì những nôi dung lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa đã có bước phát triển hơn so với tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” . Tư tưởng chung của Mác trong tác phẩm là toàn bộ diễn biến của cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp đã tạo ra những điều kiện và hoàn cảnh để Lui Bônapac – một tên bịp bợm lại đóng vai anh hùng. Những cuộc đấu tranh ấy phản ánh những đối kháng giai cấp ở Pháp đã đạt tới giai đoạn mà mọi sự phát triển hơn nữa của cách mạng sẽ kéo theo sau nó việc thực hiện những nội dung và biện pháp Xã hội Chủ nghĩa. “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” luận giải rõ hơn các hình thức, thể chế chính trị xã hội trước khi hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời. Đó là sự lựa chọn nhà nước cộng hòa hay dân chủ của bọn tư sản, mục đích của chúng cũng chỉ là để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp mình. Nhưng cuối cùng thì những hình thức nhà nước đó sớm muộn cũng sẽ bị tiêu tan và mất đi. Giai cấp tư sản hình thành các khối liên minh, tuy nhiên đồng thời giai cấp công nhân cũng có những khối liên minh của giai cấp mình “ Đối lập với khối liên minh tư sản đã hình thành khối liên minh giữa những người tiểu tư sản và công nhân, tức cái gọi là đảng dân chủ - xã hội” (3,182). Trong hoàn cảnh nước Pháp lúc đó, với tình hình chính trị phức tạp. Các đảng phái, các tư tưởng khi bàn về các vấn đề kinh tế xã hội đều co kết luận cuối cùng là Chủ nghĩa Xã hội nhưng bản thân họ lại không biết được bản chất thực sự của Chủ nghĩa Xã hội là như thế nào. Họ cho rằng “ Làm một con đường sắt ở chỗ đã có sông đào rồi đó là Chủ nghĩa Xã hội. Dùng một cái gậy để tự bảo vệ khi người ta cầm gươm đâm chém mình, đó cũng là Chủ nghĩa Xã hội” ( 3,199). Tuy vậy, thông qua thực tiễn lịch sử lúc đó thì giai cấp tư sản đã dần hiểu ra những cái gọi là tự do công dân và thiết chế tiến bộ đều đe dọa tới sự thống trị của giai cấp tư sản. Vì vậy lẽ tự nhiên là sẽ có một hình thái mới thay thế cho hình thái xã hội đương thời, đó chính là hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa “ Giai cấp tư sản đã nhìn thấy rất đúng rằng các bí quyết của Chủ nghĩa Xã hội là ở trong sự đe dọa và tấn công ấy, nó đánh giá ý nghĩa và xu hướng của Chủ nghĩa Xã hội đúng hơn cả chính ngay cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội tự đánh giá mình” ( 3,200). Vậy ở đây Mác đã nhận định rằng sự thay thế của Chủ nghĩa Cộng sản đối với tư bản là đúng quy luật lịch sử, là điều sớm muộn sẽ xảy ra. Tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức lý luận và những hoạt động thực tiễn của giai cấp sẽ đảm nhận vai trò quyết định trong tiến trình xây dựng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Sự khủng hoảng của nền kinh tế Tư bản Chủ nghĩa sẽ có tác động sâu sắc và to lớn tới sự tồn tại hay tàn lụi của chế độ chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm này có đề cập tới cuộc tổng khủng hoảng thương nghiệp ở Pháp. Nó đã khiến cho giai cấp tư sản Pháp hoảng loạn, lung lay. Bên cạnh đó là những tin đồn về chính biến, các cuộc đấu tranh chính trị, họ đã sợ tới mức phát điên và phải thét vào mặt của chế độ mình “ Một sự kết thúc khủng khiếp còn hơn là một sự khủng khiếp không bao giờ kết thúc” (3,249). Kết thúc của phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa sẽ là mở đầu cho cho sự xác lập phương thức sản xuất Cộng sản Chủ nghĩa, là cơ sở cho hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa hình thành và phát triển. Chính sự khủng hoảng trong việc lựa chọn hình thức chính trị, chế độ chính trị khi mà giai cấp tư sản muốn xác lập sự thống trị của giai cấp mình. Nó chứng minh rằng sự thống trị của giai cấp tử sản sẽ là không bền vững , luôn biến động, bởi nó chỉ bảo vệ lợi ích của bọn tử bản – chiếm số ít trong xã hội. Đòi hỏi loài người phải xây dựng một hình thức, một chế độ mà nó có thể tồn tại vĩnh viễn, đem lại lợi ích cho toàn xã hội, đó chính là chế độ Cộng sản Chủ nghĩa. Tư tưởng về xây dựng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm này là bắt nguồn từ việc khi Lui Bônapac nắm quyền lãnh đạo nhà nước, mà Lui Bônapac lại là đại biểu của tầng lớp tiểu nông – là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội Pháp lúc đó. Nhưng sau đó tầng lớp tiểu nông dần nhận ra lợi ích của giai cấp mình không thể hòa hợp với lợi ích của giai cấp tư sản như dưới thời Na-pô-lê-ông nữa mà nó đã mâu thuẫn với lợi ích của của giai cấp tư sản, của nhà tư bản, “ Người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là bạn đồng minh, là người lãnh đạo tự nhiên của mình” ( 3,269). Đây là một luận điểm tạo thành yếu tố rất quan trong trong quá trình xây dựng hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Bởi nó chỉ thành công nếu được sự ủng hộ của nhân dân lao động. Do vậy hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa thay thế cho xã hội tư sản đương thời chỉ còn là vấn đề thời gian. Vậy ở tác phẩm này những lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đã được thể hiện sâu sắc và đầy đủ hơn so với tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, nếu như ở tác phẩm “ Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” có đề cập đến một xã hội khác với xã hội tư bản đương thời nhưng lại chưa luận giải được sâu sắc, đầy đủ cách thức để xây dựng thành công xã hội đó. Đến tác phẩm “ Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac” đã làm rõ hơn lý luận về cộng sản chủ nghĩa. Từ thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến 1851, Mác đã tổng kết các sự kiện lịch sử chính trị lớn ở Pháp. Đồng thời bổ sung và phát triển những nguyên lý lý luận cho học thuyết Cộng sản Chủ nghĩa. Những vần đề lý luận đó cho đến ngày nay vẫn còn giá trị to lớn và đòi hỏi giai cấp vô sản và Đảng của nó phải vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình như vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vấn đề nhà nước, vấn đề cách mạng Xã hội Chủ nghĩa, vấn đề xây dựng khối liên minh giai cấp công nhân với đa số nhân dân lao động khác như : nông dân, tri thức, thợ thủ công. Đối với Việt Nam, tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt đối với việc thực hiện nhiệm vụ trong công cuộc cách mạng nước nhà về mọi mặt. hoàn thành mục tiêu quá độ lên xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản. Muốn lam được điều đó phải thực hiện các biện pháp phát triển đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. chống tệ nan quan liêu, tham nhũng, mua chức mua quyền. Dù là trong thời bình vẫn luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng chống lại mọi âm mưu diễn biến hòa bình của bọn phản động. lợi ích của giai cấp thống trị lãnh đạo phải đồng nhất với lợi ích của toàn dân. Đảng lãnh đạo phải tạo được niềm tin và nhận được sự ủng hộ của nhân dân. Tác phẩm là một bài học tiêu biểu về sự lựa chọn thể chế chính trị của một nhà nước, là bài học về nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. 2.4. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta” ( 1875) 2.4.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. “Phê phán cương lĩnh Gôta” là một trong những tác phẩm quan trọng của C.Mác, trong đó chứa đựng những nội dung có tính chất nguyên tắc được tổng kết, đúc rút liên quan đến sự phát triển lý luận của Mác về Chủ nghĩa xã hội khoa học và về học thuyết kinh tế của người trong suốt chặng đường khoảng 30 năm kể từ khi ông viết Tuyên ngôn. Mác viết tác phẩm vào ngày 5/5/1875, thời kỳ sau công xã Pari này phong trào công nhân phát triển mạnh ở đức. Điều này có vai trò của Đảng dân chủ xã hội Đức. Đó là đội ngũ mạnh nhất và có tổ chức nhất của phong trào xã hội Chủ nghĩa quốc tế. Đảng này giành được sự kính trọng của công nhân các nước và được thừa nhận như là sự tiên phong của giai cấp vô sản quốc tế. Thành tích của Đảng dân chủ xã hội Đức rất lớn. Trong những năm chiến tranh Pháp Phổ, họ đã thể hiện rõ lập trường quốc tế của mình. Trong thời kỳ công xã Pari, Đảng đã đấu tranh anh dũng để bảo vệ công xã. Ở trong nước dù thường xuyên bị khủng bố nhưng Đảng đã hoạt động rất linh hoạt và có kết quả trong lãnh đạo công đoàn: tổ chức xuất bản báo chí của Đảng, tham gia vào bầu cử quốc hội, sử dung khéo léo diễn đàn trong quốc hội để vạch trần chế độ độc tài Bixmac tuyên truyền cho tưởng Chủ nghĩa xã hội cách mạng. Cũng thời gian này phong trào công nhân ở đức có sự phân biệt bởi cùng tồn tại bên cạnh Đảng công nhân dân chủ xã hội Đức là tổ chức hội công nhân toàn Đức. Không phải chỉ có hội công nhân mới ảnh hưởng tưởng Latxan mà cả Đảng công nhân dân chủ xã hội Đức cũng bị ảnh hưởng, kể cả một số lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình phân biệt của phong trào công nhân Đức ấy đã có nhiều ý kiến yêu cầu thống nhất hai tổ chức trên. Thế là hai tổ chức này đã quyết định thống nhất lại. Để chuẩn bị cho đại hội thống nhất sẽ diễn ra ở Goota các nhà lãnh đạo hai tổ chức soạn thảo một cương lĩnh, bản soạn thảo này có gửi cho Mác góp ý kiến. Mác và Ăngghen lúc đó đang ở Anh các ông rất quan tâm và chăm lo tới phong trào công nhân Đức. Nó được thể hiện bằng nhiều hình thức: động viên thắng lợi của phong trào tuyên truyền lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học vào Đức, đưa ra đòi hỏi cao và nghiêm khắc đối với các lãnh tụ Đảng, không bỏ qua và góp ý thẳng thắn đối với những sai lầm trong sách lược đường lối của Đảng. Nhận được bản dự thảo cương lĩnh Mác đã nhận thấy cương lĩnh đầy rẫy những sai lầm, bởi nó ảnh hưởng và thỏa hiệp nhiều tư tưởng của phái Latxan, xa rời quan điểm khoa học của phong trào vô sản. Mác nói:”một cương lĩnh mà tôi tin chắc là hoàn toàn vô dụng, và đang làm cho đảng bị mất tinh thần”[6,468]. Do vậy Mác đã khuyên công nhân Đức không vội vã thống nhất tổ chức. Lúc này hay nhất là chỉ nên ký một bản thỏa hiệp đồng chung chống kẻ thù của hai Đảng mà thôi. Từ sự khuyên nhủ này, Mác đẫ có một nhận định nổi tiếng: “một bước tiên phong của phong trào thực sự còn quan trọng hơn một tá cương lĩnh”[6,396]. Một mặt khuyên nhủ như vậy, mặt khác ông đã viết lời nhận xét bản dự thảo cương lĩnh mà hai đảng đã gửi tới. Bất chấp sự khuyên nhủ của Mác hai đảng vẫn tổ chức đại hội thống nhất tại Gôta vào ngày 22 đến 27/5/ 1875 với bản cương lĩnh sự thảo và rất ít chú ý đến những nhận xét của Mác. Bản nhận xét của Mác đã trổ thành một tác phẩm nổi tiếng, bút chiến chống chủ nghĩa cơ hội với cái tên”phê phán cương lĩnh Gôta” là tài liệu kinh điển của chủ nghĩa Mác nói chung.(mãi đến năm 1891 tác phẩm mới có dịp được in). 2.4.2. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta”(1875). Tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta” ra đời sau “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” nên nó có bước phát triển cao hơn về lý luận. Những quan điểm của C.Mác-Ph.Ăngghen về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa được Mác củng cố và bổ sung trong tác phẩm này. Tác phẩm chia làm bốn giai đoạn, qua phê phán cac quan điểm sai lầm của cương lĩnh Gôta, đem đến cho chúng ta những nội dung đáng lưu ý. Trong đó học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa được thể hiện rõ, lần đầu tiên Mác đề cập khá chi tiết đến thời kỳ quá độ lên Cộng sản Chủ nghĩa và cũng là lần đầu tiên Mác đưa ra và luận chứng đầy đủ lý luận về sự phân lý hai giai đoạn hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Thông qua việc phê phán quan điểm của cương lĩnh về vấn đề lao động, phân phối sản phẩm Mác đã chỉ ra sự bất bình đẳng trong xã hội Tư bản Chủ nghĩa và cũng chỉ ra điều kiện để hình thành hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Cương lĩnh viết “ Lao động là nguồn gốc của mọi của cải và mọi văn hóa, và vì lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội, cho nên thu nhập do lao động để lại thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội không bị cắt xén”. Đây là luận điểm không đầy đủ và sai lầm của Látxan. Theo Mác, tầm của cương lĩnh phải diễn đạt là “ giới tự nhiên cũng như lao động là nguồn gốc của những giá trị sử dụng” (6,503). Trong xã hội tư bản thì tư liệu sản xuất lại do một số người nắm , còn những người khác chỉ độc có sức lao động đã trở thành nô lệ. Mác chỉ ra tính chất sai lầm và phản động của phái Látxan khi quan niệm về cái gọi là “ quy luật sắt của tiền lương”, theo đó như là một ảo tưởng về cải thiện điều kiện lao động của người công nhân. Mác chỉ ra quan điểm đòi phân phối “ cho mọi thành viên không bị cắt xén theo những nguyên tắc ngang nhau” là không thể có được,đó là quan điểm mị dân của các tầng lớp bóc lột. tất cả những luận điểm của Mác đưa ra đã thấy được tính chất bất bình đẳng trong xã hội tư bản và tư tưởng phản động của phái Látxan. “Muốn thay đổi một cách căn bản tình trạng của xã hội hiện tại không có con đường nào khác là giai cấp vô sản phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản và thay thế nó bằng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất’ [ 6,19]. Mác chỉ ra tính chất phản động trong quan niệm của phái Latxan và đồng bọn khi cho rằng “ việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân, đối diện với giai cấp này là tất cả các giai cấp khác chỉ hợp thành một khối phản động” [6,514]. Mác cho rằng khái quát này của cương lĩnh thật phi lý, bởi mỗi giai cấp có vị trí xã hội và tính chất lịch sử khác nhau. Lúc này giai cấp tư sản được coi là giai cấp cách mạng hơn so với giai cấp phong kiến, tuy nhiên “ giai cấp vô sản lại cách mạng hơn so với giai cấp tư sản, vì bản thân nó là con đẻ của đại công nghiệp, muốn giải phóng lực lượng sản xuất ấy tức muốn cho nền sản xuất trút bỏ cái tổ chức tư bản chủ nghĩa” [6,515]. Mác khẳng định cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân “ có tổ chức dân tộc không phải về mặt nội dung của nó mà về mặt hình thức của nó” [6,516]. ở đây Mác đã đề cập đến tính chất quốc tế của giai cấp công nhân, nó là một tất yếu vì chủ nghĩa tư bản cũng mang tính quốc tế và công nhân quốc tế phải có sự phối hợp hoạt động thực tế chứ không phải chỉ bằng lời nói suông. Đây là điều kiện tốt và cần thiết để Chủ nghĩa Cộng sản có thể thiết lập trên toàn thế giới. Trong tác phẩm, Mác chỉ ra con đường giải phóng cho giai cấp công nhân cũng như là giải phóng toàn xã hội để tiến lên xã hội mới tiến bộ hơn. Không chỉ đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế mà còn đấu tranh tren lĩnh vực chính trị, tư tưởng mới có thể tự giải phóng hoàn toàn, lật đổ chế độ Tư sản và thiết lập Chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích những sai lầm của phái Latxan thì lần đầu tiên Mác nói đến thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Cộng sản “ giữa xã hội Tư sản chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị” [6,524]. Mác đưa ra tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Cộng sản, hai thời kỳ này khác nhau về chất nên phải có một giai đoạn chuyển tiếp. mác chỉ ra đặc điểm của thời kỳ quá độ, thứ nhất mác đề cập đến thời kỳ quá độ chỉ có thể bắt đầu nhờ cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo,thứ hai mác đề cập đến nội dung kiên quyết chủ yếu nhất là chính trị, phải thiết lập được chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và từng bước thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, thứ ba trong thời kỳ ấy sự đan xen, tồn tại bên cạnh nhau giữa cái cũ và cái mới tạo nên tính chất khó khăn phức tạp, làm nên tính chất quá độ của sự chuyển biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia.đó là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. “ xã hội mới thoát thai từ Chủ nghĩa Tư bản, một xã hội về mọi phương diện kinh tế , đạo đức , tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó mới lọt lòng ra [ 3,510], “ trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Cộng sản tất yếu tồn tại một nhà nước và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” [6,524]. Với “ Phê phán cương lĩnh Gôta” lần đầu tiên Mác đã nêu ra và luận chứng một cách rõ ràng lý luận về sự phân kỳ của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Lý luận trở thành đặc trưng của tác phẩm và của chủ nghĩa Mác, đó là sự dự đoán về xã hội tương lai,lý luận về hai giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa . Mác cho biết, xã hội tương lai thay thế xã hội Tư bản Chủ nghĩa là xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, xã hội đó “ tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất”[6,510]. Xã hội này phát triển qua hai giai đoạn “ giai đoạn đầu không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cở sở của chính nó hoặc là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa và giai đoạn cao hay xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó”[6,510]. Mác dự đoán những đặc điểm của giai đoạn đầu của Chủ nghĩa Cộng sản đó là một xã hội mà về mọi phương diện mang dấu vết của xã hội cũ mà nó mới lọt lòng ra. Giai đoạn Chủ nghĩa Xã hội là cần thiết , một sự vận động nhằm thực hiện cải biến cách mạng cho sự xác lập hoàn toàn hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa . Mác chỉ ra đặc trưng cơ bản của giai đoạn này, trước hết là về kinh tế , điển hình trong phân phối “ ở giai đoạn đầu, sự phấn phối cho người lao động sau khi đã khấu hao và trừ đi những đóng góp cần thiết thì thực hiện theo chế độ phân phối lao động [6,511]. Đó là kiểu phân phối tiến bộ hơn sự phân phối trước đó. Nhưng trong thực tế sự bình đẳng vẫn nằm trong “ khuôn khổ tư sản”, “ quyền tư sản”, “ về nguyên tắc cái quyền ngang nhau đó bao giờ cũng vẫn còn bị giới hạn trong khuổn khổ tư sản”[6,511], nghĩa là còn thiếu sót, chưa thực sự ngang nhau, vẫn tạo ra sự phân hóa xã hội nhất định. Kiểu phân phối này muốn tránh khỏi thiếu sót phải tiến lên thực hiện phân phối theo nhu cầu, nghĩa là ở giai đoạn cao của cộng sản chủ nghĩa, còn ở “giai đoạn thấp thì không thể tránh khỏi lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra sau nhiều cơn đau đẻ dài”[6,513]. Nhà nước đề ra các chính sách nhằm phát triển sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng. sau đó là đặc trưng về xã hội chính trị, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản nhằm thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xây dựng đời sống tinh thần của xã hội, phát triển khoa học giáo dục nhằm nâng cao dân trí cho công nhân và nhân dân lao động. Lần đầu tiên, Mác giành sự chú ý đặc biệt đưa ra các dự báo, các phác thảo khoa học nghiêm túc về Chủ nghĩa Cộng sản ở giai đoạn cao. Nói là dự báo, là phác thảo vì thời kỳ đó chưa thể và không thể có các dữ liệu, cứ liệu thực tế cho các phân tích khoa học về Cộng sản Chủ nghĩa. Nhưng những dự báo đó mang tính khoa học bởi ngoài kinh nghiệm của công xã Pari, phân tích từ thực tiễn Chủ nghĩa Tư bản và hoạt động của các đảng phái công nhân. Mác chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận vững chắc của mình đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử ( trực tiếp là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ), học thuyết giá trị thặng dư…trong hoạt động khoa học, hoạt động nghiên cứu và sáng tạo lý luận thì điều đó là bình thường là hoàn toàn có thể. Về sản xuất vật chất, đó là thời kỳ xã hội phát triển dựa trên cơ sở một phương thức sản xuất tiên tiến với một lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ và tính chất xã hội hoàn toàn một nền khoa học công nghệ phát triển đến mức năng suất cao chưa từng có . Tương ứng và phù hợp với tính chất và trình độ ấy của lực lượng là một quan hệ sản xuất mà mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về xã hội. thứ hai là về phân phối và tiêu dùng vì của cải vật chất làm ra dồi dào nên quan hệ phân phối trong xã hội cộng sản được thực hiện chủ yếu dựa trên nguyên tắc “ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”, “trong một giai đoạn cao hơn của xã hội Cộng sản Chủ nghĩa khi mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch khi mà con người và sự phân công lao động của họ không còn nữa và cùng với nó sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng không còn nữa khi mà lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống và cùng sự phát triển toàn diện của tất cả các cá nhân , sức sản xuất của họ cũng đầy lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cỏ của mình : làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [6,513]. Thứ ba về vấn đề chính trị xã hội thì trong giai đoạn này “ mọi sự bất bình đẳng về xã hội và chính trị bắt nguồn từ những sự khác biệt giai cấp, tự chúng không còn nữa” [6,521]. Con người trong xã hội cộng sản là con người phát triển một cách toàn diện, mọi người và mỗi người đều có điều kiện trau dồi, phát huy mọi tài năng, mọi khả năng, sở thích mà mình có, về giáo dục thì “ gạt bỏ mọi ảnh hưởng của chính phủ cũng như giáo hội đối với nhà trường” [6,527], “mỗi người được thỏa mãn những nhu cầu của mình về tôn giáo và thể xác” [6,528]. Nhà nước giai đoạn này như thế nào thì mác thận trọng cho biết chắc chắn nó sẽ biến đổi. “còn biến đổi ra sao, có chức năng nào giống như chức năng của nhà nước hiện nay thì cần phải giải đáp một cách khoa học chứ không thể tùy tiện trả lời, tùy tiện ghép vào một bất kỳ tính từ nào” [6,527]. Như vậy trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta”, mác đã vạch ra hai giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là điểm tiến bộ hơn hẳn so với các tác phẩm trước. Theo Lênin, để xác định hai giai đoạn của Cộng sản Chủ nghĩa Mác đã không bám vào những định nghĩa tưởng tượng có tính chất giả tạo, không bám vào những cuộc tranh luận vô ích về danh từ. trái lại mác dựa vào hoàn toàn sự phân tích một cách khoa học những trình độ chín muồi về kinh tế và văn hóa Chủ nghĩa xã hội : những nguyên tắc phương pháp của Xã hội Chủ nghĩa và Cộng sản Chủ nghĩa cũng hoàn toàn do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định chứ không phải ý muốn chủ quan của một người lãnh đạo hoặc những khả năng pháp lý nào mà có được. Nói tóm lại đây là tác phẩm mẫu mực về luận chứng khoa học, kiên quyết và thể hiện tấm gương không nhân nhượng về lý luận trước những quan điểm phi Macxit. Tác phẩm nhắc nhở công tác Đảng rằng phải thống nhất các tổ chức đảng để thống nhất lực lượng là điều cần thiết nhưng phải đúng lúc và có nguyên tắc. phải có quan điểm lý luận chính trị đúng đắn bởi nếu chưa có điều kiện đó thì chỉ nên ký một bản thỏa hiệp mà thôi. Lý luận về hai giai đoạn của Cộng sản Chủ nghĩa mang ý nghĩa phương pháp luận rất cao, trên cơ sở đó mà các đảng cầm quyền cần có sự phát triển lý luận và đường lối trong việc xác định những giai đoạn cụ thế của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Cã hội. trong thời đại ngày nay,sự hình thành và ngày càng lớn mạnh của hệ thống Cã hội Chủ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự phát triển hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa qua một số tác phẩm( phê phán cương lịn gô ta, làm gì).doc
Tài liệu liên quan