Đề tài Lý luận về lạm phát tiền tệ, thực trạng và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

Ở Việt Nam theo phương pháp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm quyền số lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng hoá tính CPI. Trong các năm trước đây, mặc dù nhiều nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, những nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm, nhất là giá lúa gạo, giá cao su, hạt điều, thịt lợn, rau hoa quả biến động thất thường. Trong các năm 1991-1993-1994-1998 giá lương thực và thực phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng tăng cao. Ngược lại, trong các năm 1997, 1999,2000 các mặt hàng lương thực, thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm cho CPI ở mức rất thấp, thậm chí là âm. Nhưng năm 2004 nhóm mặt hàng này đã tăng tới 15%; trong đó giá lương thực tăng 12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8%, đã tác động mạnh làm gia tăng cao chỉ số CPI nói chung. Do đó, nếu loại bớt được sự gia tăng giá đột biến gây những cú sốc trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm pháp không cao như đã công bố.

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận về lạm phát tiền tệ, thực trạng và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ sở lý luận về lạm pháp và tiền tệ. I. Cơ sở lí luận về lạm phát. 1.1. Lạm phát Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không có nghĩa là giá cả của mọi hàng hoá và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỉ lệ mà chỉ cần mức giá trung bình tăng. Lạm phát cũng có nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng nội tệ.Mỗi nước có một tình trạng lạm phát riêng không giống nhau. Lạm phát tiền tệ được hiểu là mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết ,biểu hiện là sự mất giá chung của dồng bản tệ.Có nghĩa là tại thời điểm lạm phát đẻ mua cho một mặt hàng cố định thì cần dùng một lượng tiền nhiều hơn so với thời điểm không xảy ra lạm phát.hay nói khác là trong bối cảnh lạm phát thì một đơn vị tiền tệ mua được ít hàng hoá và dịch vụ hơn,và sẽ phải chi nhiều đồng nội tệ hơn để mua một giỏ hàng hoá và dịch vụ cố định. 1.2 Phân loại lạm phát Dựa theo tính chất,mức độ và tỉ lệ lạm phát chúnh ta có thể phân lạm phát ra làm 3 loại :lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. Lạm phát vừa phải :được đặc trưng bởi giá cả tăng chậm có thể dự đoán trước được. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một con số thường được coi là lạm phát vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, mọi người vẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch và kí các hợp đồng dài hạn tính theo đồng nội tệ vì họ tin rằng giá và chi phí của hàng hoá mà họ mua và bán sẽ không chênh lệch quá xa. Lạm phát phi mã là lạm phát trong phạm vi hai con số một năm, thường được coi là lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã. Lạm phát phi mã chỉ xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh. Khi loại lạm phát này hình thành một cách vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó đồng tiền bị mất giá rất nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ một lượng tiền tối thiểu cho các giao dịch hàng ngày.Và mọi người có xu hướng tích trữ hàng hoá, mua bất động sản, ngoại tệ mạnh… để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích trữ của cải. Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, ở mức trên 300%. Điển hình là lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh siêu lạm phát nổi bật nhất trong lịch sử siêu lạm phát thế giới, giá cả tăng từ 1 đến 10 triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lưu thông tiền tệ, lưu thông hàng hoá gặp nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế trì trệ không thể phát triển được. ở Việt Nam điển hình của siêu lạm phát là thời kì 1986-1988 lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trưng của nề kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. 1.3. Đo lường lạm phát. Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kì nhất định, các nhà thống kê sử dụng chỉ tiêu lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung. Công thức: IIt: tỉ lệ lạm phát của thời kì t Pt: mức giá thời kì t Pt-1: mức giá của thời kì trước đó. Ngoài ra các nhà kinh tế còn sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP( DGDP) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm phát về mức sống thì chỉ số tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tình trên cơ sở CPI. 1.4. Nguyên nhân gây ra hiện tượng lam phát: Có 3 nguyên nhân chính là do cầu kéo, do chi phí đẩy và do lạm phát ỳ. 1.4.1. Lạm phát do cầu kéo: Xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt mức tự nhiên hoặc vượt quá mức tự nhiên. Nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng, đầu tư. Ví dụ: có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát tăng lên và ngược lại. Trong nhiều trường hợp lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương trình, chỉ tiêu chính phủ, khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng thì giá cả sẽ tăng và ngược lại. Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên hàng xuất khẩu tác động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu tăng lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây lạm phát đặc biệt trong chế độ tỉ giá hối đoái cố định. 1.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Trong dồ thị tổng cầu tổng cung, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển lên trên sang bên trái. Trong bối cảnh đó mọi biến cố kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế dều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm ,thất nghiệp và lạm phát đều tăng, chính vì vậy lạm phát nay được gọi là lạm phát chi phí đẩy. Ba loại lạm phát có thể gây ra chi phí đẩy là: tiền lương ,tiền thuế gián thu và giá nguyên vật liệu nhập khẩu. 1.4.3. Lạm phát ỳ: Trong nền kinh tế hiện đại lạm phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm mức giá tăng lên theo một tỉ lệ khá ổn định. Tỉ lệ lạm phát này được gọi là lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước và tính đến khi thoả thuận về cá biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai .chúng ta có thể coi đó là tỉ lệ lạm phát cân bằng trong ngắn hạn và nó sẽ dược duy trì cho đến khi cá cú sốc tác động đến nền kinh tế. 1.5. Những tổn thất xã hội của lạm phát. 1.5.1. Đối với lạm phát được dự tính trước: Lạm phát hoàn toàn được tính trước, khi xảy ra lạm phát đúng như dự định thì chúng ta có thể hạn chế được những tổn thất do lạm phát gây ra. Thứ nhất:lạm phát hoạt động giống như một loại thếu đánh vào những người giữ tiền và được gọi là thuế lạm phát. Thâm hụt chính phủ được tính bằng sự chênh lệch giữa chi tiêu và thu nhập thuế chính phủ. Chính phủ có thể in đúc tiền và khi in tiền mới chính phủ đã đánh thuế lạm phát. Lượng tiền được cung ứng nhiều hơn gây ra lạm phát , làm giảm giá trị của đồng tiền dang lưu hành và thuế lạm phát gây ra tổn thất cho xã hội. Lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa do đó làm giảm nhu cầu về tiền. Sự bất tiện của việc gĩư tiền hơn tạo nen chi phí mòn giày, việc đến ngân hàng nhiều làm cho giày bạn chóng mòn nhanh hơn. Thứ hai: lạm phát có thể gây ra những thay đổi không mong muốn trong giá tương đối. Trong chừng mực ma mà lạm phát gây ra sự thay đổi giá cả không đều và đó làm thay đổi giá tương đối, thì sức mạnh của thị trường bị hạn chế và nội dung tuyền đạt thông tin của giá cả bị suy giảm. Thứ ba: lạm phát có thể lám thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái vối ý định của người làm luật.thực tế cho rằng thuế thường không tính đến tác động của lạm phát và do vậy mọi người phải nộp thuế cao hơn ngay cả khi thu nhập của họ không đổi. 1.5.2. Lạm phát không dự tính trước. Lạm phát có một tác hại lớn là khi nó bất ngờ xaỷ ra ngoài dự tính.Lạm phát bất ngờ phân phối lại thu nhập lại của cải của xã hội khi có lạm phát thì tỉ lệ lạm phát thường lớn hơn tỉ lệ lạm phát dự tính, điều đó có nghĩa là người tiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong khi người di vay trả vốn gốc và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với ban đầu. Trên thực tế lạm phát cao thường có xu hướng biến động mạnh và khó dự đoán trước, gây ra những bất định cho các hoạt động tiết kiệm và đàu tư và do đó không có lợi cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. II. Tiền tệ. 2.1. Khái niệm và bản chất. Tiền tệ là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hoá hay dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả món nợ. Bản chất của tiền được nhắc tới trong chức năng của tiền. 2.2. Chức năng và phân loại tiền tệ. 2.2.1. Chức năng của tiền tệ: gồm ba chức năng. Là phương tiện trao đổi, là một vật được mọi người chấp nhận để đổi lấy hàng hoá và dịch vụ. Là phương tiện cất giữ giá trị: người ta có thể qui ra những giá trị hiện vật ra thành tiền để cất giữ đơn giản và tiện lợi. Là đơn vị hạch toán vì đã được chấp nhận rộng rãi trong mọi giao dịch.Mọi người sử dụng một đơn vị tiền tệ chung để niêm yết và ghi các khoản nợ. 2.2.2. Phân loại: -Tiền hàng hoá:đó là khi muối, vỏ sò, kim loại, vàng, … tồn tại dưới hình thức một hàng hoá cố hữu thì tiền được gọi là tiền hàng hoá -Tiền pháp định: là loại tiền tạo ra nhờ một pháp lệnh của chính phủ 2.3. Mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát. Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện tượng lạm phát, lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ. Friedman đã kết luận rằng: lạm phát ở đâu và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ… và nó chỉ xuất hiện một khi cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng vì rằng: -Thứ nhất, lạm phát gây ra bởi sự dư thừa tổng cầu so vơí tổng cung và nguyên nhân là do có quá nhiều tiền trong lưu thông. -Thứ hai, các nguồn lực khan hiếm và có giới hạn ở trong nền kinh tế do đó xuất hiện dư cầu trên thị trường hàng hoá gây áp lực làm gia tăng giá cả và dẫn tới lạm phát. Sự gia tăng cung ứng tiền tệ sẽ dẫn tới sự mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Như vậy tiền tệ và lạm phát có mối quan hệ tương tác với nhau, sự thay đổi của cái này sẽ gây ảnh hưởng lớn tới cái kia đồng thời kéo theo sự mất ổn định trong nền kinh tế và ngược lại. B. Thực trạng tình hình lạm phát tiền tệ ở nước ta trong những năm gần đây. I. Thực trạng tình hình lạm pháp tiền tệ ở nước ta. 1.1. Lạm phát tiền tệ ở nước ta giai đoạn trước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kì khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, sản xuất sút kém, gía cả tăng với tốc độ phi mã, cao điểm nhất là thời kì 1986-1988 khi mà nền kinh tế vẫn hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung. Nguồn lực thì khan hiếm, chất lượng hàng hoá kém nhưng nhu cầu đòi hỏi lại rất cao dẫn tới nhà nước phải phát hành tiền và tổng cầu dần vượt mức tăng quá so với tổng cung, nền kinh tế ở trạng thái mất cân bằng, lạm phát đạt tơí mức 3 con số: -Năm 1986 lạm phát là 774%, năm 1988 giảm xuống còn 308%. Việc lạm phát tăng cao đã gây nên sự mất long tin của người dân vào đồng tiền nội tệ. Để ổn định nền kinh tế Chính Phủ đã đưa ra hai thay đổi lớn là: Đưa tỉ giá hối đoái lên ngang với giá thị trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương nhằm đưa lại giá trị thực của đồng tiền. 1.2. Tình hình lạm phát tiền tệ trong giai đoạn từ năm 1989 đến nay. Vào những năm 1989-1991 nền kinh tế Việt Nam chuyển sang giai đoạn cơ chế thị trường nhiều thành phần với một loạt các chính sách đổi mới quản lí làm cho cơn sốt làm phát dần dần giảm xuống từ 308% (năm 1988) xuống còn 68% (năm 1991) . Thời kì từ năm 1992-1995 nền kinh tế việt nam cơ bản thoát khỏi khủng hoảng và dần về thế ổn định , năm 1992 lạm phát ở mức 17,5% và năm 1993 là 5,3% .Đến năm 1996 nền kinh tế chuyển sang một thời kì mới, công nghiệp hoá -hiện đại hoá vafduwj kiến tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng kinh té trong 2 năm 1996-1997 đạt tốc độ cao (tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 đạt 9,34% và năm 1997 đạt 8,15% ).Đặc biệt, trong 2 năm này mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng cao nhưng mức lạm phát lại giảm. Năm 1996 tổng phương tiện thanh toán tăng 32,7% so với năm 1995 nhưng tỷ lệ lạm pháp chỉ là 4,5 % và năm 1997 tổng phương tiện thanh toán tăng 26,1% so với năm 1996 nhưng tỷ lệ lạm pháp chỉ ở mức 3,6%. Vì vậy, Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến kìm chế lạm pháp. Và công cụ chủ yếu là thực thi chính sách tiền tệ hợp lý, tăng cung tiền ở mức thích hợp, không bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách cung tiền. 1.3. Hậu quả của lạm phát tiền tệ. Một trong những mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô hàng đầu của các quốc gia là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát vì khi để lạm phát xảy ra thì sau đó để chống lại nó phải chịu một phí tổn rất lớn. Lạm phát làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị, do đó xã hội không thể tính toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình . Tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để Nhà Nước điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát . Do vậy tác động điều chỉnh của thuế bị hạn chế. Lạm phát làm phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến giàu lên nhanh chóng. Và những người có các hàng hoá mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và những người giữ tiền bị nghi. Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của quốc gia: hoạt động kinh tế méo mó, biến dạng nghiêm trọng, gây tâm lí xã hội phức tạp và làm lãng phí trong sản xuất. Chính vì tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát trở thành một trong những mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì được lạm phát ở mức vừa phải và điều tiết được thì lạm phát sẽ trở thành một công cụ điều tiết kinh tế (ví dụ như lạm phát ở Mỹ và cộng hoà liên bang Đức năm 1960). Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tốc độ tăng TPTTT 3,27 26,1 25,6 56,6 39,0 23,7 21,2 24,7 20,7 Tỷ lệ lạm phát 4,5 3,6 8,6 0,1 -0,6 0,8 4,0 3,0 9,5 Tăng trưởng kinh tế 9,34 8,15 5,8 4,8 6,7 6,84 7,04 7,27 7,7 Vòng quay tiền tệ 4,2 3,8 3,5 2,.5 1,9 3,3 3,4 3,5 3,7 II. Nguyên nhân lạm pháp ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu sự biến động của giá cả và lạm pháp ơ Việt Nam chúng tôi cho rằng lạm pháp ở Việt Nam (đặc biệt năm 2004) do những nguyên nhân sau: 2.1. Nguyên nhân khách quan. Do gốc của nền kinh tế nước ta là nước nông nghiệp còn lạc hậu so với nhiều nước khác. Nước ta gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh lớn chống Pháp và chống Mỹ nên nhu cầu chi tiêu lớn trong khi nguồn thu ngân sách có hạn. 2.2. Nguyên nhân chủ quan. 2.2.1. Về phương pháp tính. Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với Việt Nam. Một là các nước thường loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán…; hai là giá đó là giá giao dịch mua buôn, bán buôn trên thị trường hàng của các nhà kinh doanh, còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối với nhiều mặt hàng thì vẫn ổn định; ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ tính CPI. ở Việt Nam theo phương pháp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm quyền số lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng hoá tính CPI. Trong các năm trước đây, mặc dù nhiều nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, những nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm, nhất là giá lúa gạo, giá cao su, hạt điều, thịt lợn, rau hoa quả biến động thất thường. Trong các năm 1991-1993-1994-1998…giá lương thực và thực phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng tăng cao. Ngược lại, trong các năm 1997, 1999,2000… các mặt hàng lương thực, thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm cho CPI ở mức rất thấp, thậm chí là âm. Nhưng năm 2004 nhóm mặt hàng này đã tăng tới 15%; trong đó giá lương thực tăng 12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8%, đã tác động mạnh làm gia tăng cao chỉ số CPI nói chung. Do đó, nếu loại bớt được sự gia tăng giá đột biến gây những cú sốc trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm pháp không cao như đã công bố. 2.2.2. Điều tiết vĩ mô kém. Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước những biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị trường trong nước là còn nhiều bất cập. Ví dụ: Đến khi giá thuốc tân dược leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao gây rối loạn thị trường thuốc chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc tân dược Các quyết định quản lý được đưa ra để điều tiết thị trường thường là chậm trễ, vì thế hiệu quả điều tiết kém. Ví dụ: Việc điều tiết giảm thuế thép, phôi thép mặc dầu được kiến nghị từ tháng 1/2004 nhưng đến tháng 3/2004 mới được thực hiện, vào lúc này giá phôi thép đã tăng lên 480-500USD/tấn và giá thép xây dựng đã tăng lên tới 500-520USD/tấn. Do vậy các doanh nghiệp khi nhập khẩu tại thời điểm này khó có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp đã nhập phôi thép trước đó ;Tình trạng độc quyền, đầu cơ trục lợi vẫn còn phổ biến dẫn đến thao túng, gây rối loạn thị trường; Cũng do quản lí kém dẫn tới tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn. Hệ luỵ tất yếu của những tình trạng trên là thị trường trong nước thêm rối loạn; Khi chỉ số lạm phát gia tăng nhanh chóng trong những tháng đầu năm 2004, mặc dù tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế là phù hợp với các số kinh tế vĩ mô, nhưng sức ép của dư luận, ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm mức cung ứng tiền tệ. Như vậy ngân hàng nhà nước đã khắc phục bất hợp lý này bằng một bất hợp lý khác. Hệ quả của nó là đẩy lãi suất lên cao, tăng chi phí đầu tư, lì hãm sản xuất và tăng thất nghiệp.. 2.2.3. Cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng(nội và ngoại tệ). Nhân tố này về nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tuwcs là tổng phương tiện thanh toán tăng lên trong thời kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát sinh ở kỳ sau, trong ngắn hạn là 6 tháng, trung hạn và dài hạn là từ 1 năm trở lên. Trong 14 năm qua, mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân là 23%-26% năm, phù hơp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm phát, cũng như giảm phát. Năm 1999 tổng phương tiện thanh toán tăng cao nhất tới 39,25%, nhưng các năm 1999,2000 và 2001 tốc đọ tăng chỉ số CPI ở mức thấp, thậm chí năm 2000 còn giảm 0,6%. Các năm 1994,1995,1998, chỉ số CPI tăng cao, nhưng các năm đó và năm trước đó tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán vẫn ở mức trung bình nhiều năm. Năm 1998 tổng phương tiện tăng thấp nhất, chỉ có 20,33%, nhưng CPI lại tăng tới 9,2%. Trong 6 tháng đầu năm nay tổng phương tiện thanh toán tăng 7,26%, thấp hơn mức năm cùng kỳ năm 2003 là 8,28%. Song chỉ số tăng giá trong 6 tháng đầu năm 2004 đã là 7,2%. Còn trong năm 2004, tổng phuowng tiện thanh toán, tốc đọ tăng trưởng vốn huy động và tăng dư nợ cho vay,…đều thấp hơn mức cùng kỳ năm ngoái, nhưng CPI đã là 9.8%. Tất nhiên như đã nói ở trên là có độ trễ về mặt htowif gian, từ 6 tháng tới 1 năm. Như vạy có thể khẳng định lạm phát tại Việt Nam trong hơn 14 năm qua là lạm phát tiền tệ. 2.2.4. Do cầu kéo. Trong những năm qua phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào , đa dạng phong phú. Do đó hầu như không có tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường, dẫn tới tăng giá một hay một số mật hàng nào đó. Song trong năm 2004, do ảnh hương củ dịch cúm gia cầm xảy ra trenn diện rộng và kéo dài, đã làm giảm mạnh nguồn cung cấp sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tăng lên làm cho giá cả mặt hàng gia cầm tang đột biến. Đồng thời nhu cầu của người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang các mặt hàng khác. Mặt khác do biến động mạnh của bất động sản từ cuối năm 1999, do vậy nhu cầu về xây dựng tăng cao dẫn tới giá cả của nguyên vật liệu xây dựng tăng. Một diễn biến khác cũng xét từ nhân tố cầu kéo, có thể tháy do giá gạo xuất khẩu của việt Nam được cải thiện và khối lượng xuất khẩu gạo tăng, thị trường xuất khẩu thuỷ sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá của mặt hàng lương thực thuỷ hải sản tăng lên. 2.2.5. Do chi phí đẩy. Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép,…làm cho giá bán lẻ trong nước tăng lên. Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong năm 2004 đã dược điều chỉnh tăng 4 lần. Tình hình đó làm cho chi phí của một loạt lĩnh vực tăng lên, nhất là giao thông vận tải. Bên cạnh đó chi phí xăng dầu phân bón,…của người nông dân cũng tăng cao. Giá sắt thép tăng làm cho chi phí của một loạt nghành sản xuất và một loạt sản phẩm tăng giá bán. 2.2.6. Do tâm lý dân chúng. Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt hàng đang leo thang hàng ngày, gây tâm lý bất ổn định cho dân chúng(đầu năm 2004) Bộ nội vụ công bố dự kiến tăng lương mới(thực tế tăng từ 1/10/2004) đã kích thíc tâm ký tăng tiêu dùng củ a dân chúng, làm cho giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng nhanh từ đầu năm(không thường là tăng từ cuối năm). Mặt khác khi dân chúng đang lo sự sụt giá của đồng tiền viẹt Nam thì Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam lại phát hành thêm loại tiền mệnh giá 100.000đồng ới vào lưu thông. Vào cuối năm 2003, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam lại đưa tiếp loại tiền polyme mới với các mệnh giá 50.000, 100.000, 500.000, vào lưu thông. Dân cúng cho rằng Ngân Hàng Nhà Nước đang đưu thêm vào lưu thông một khối lượng tiền rất lớn và vì vậy giá trị của đồng tiền Việt Nam giảm mạnh. Do đó dân chúng càng có xu hướng chuyển từ tài sang VNĐ sang các tài sản tài chính khác và càng khuyến khích tâm lý tiêu dùng. Kết quả là giá cả các mặt hàng ngày càng leo thang. Như vậy qua nghiên cứu về diễm biến chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng nói chungvaf lạm phát nói riêng trong hơn 14 năm qua, cũng như riêng năm 2004 có thể khẳng định, lạm phát ở nước ta là lạm phát giá cả. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đẩy, quản lý vĩ mô kém, có một yếu tố nhỏ là cầu kéo và yếu tố tâm lý dân chúng. III. Giải pháp khắc phục. Về giải pháp tiền tệ, mặc dù khẳng định không phải do nhân tố này tác động trực tiếp, nhưng để chủ động góp phần vào kiềm chế lạm phát, nhất là trước diễn biến tâm lý và sức ép của một bộ phận dư luận, giải pháp điều hành chính sách tiền tệ đã được đưa ra, thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước đã có quyết định điều chỉnh tăng tỉ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tín dụng. Với quyết định này, Ngân Hàng Nhà Nước rút bớt khối lượng tiền trong lưu thông về, riêng đối với tiền gửi ngoại tệ tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, nhằm không khuyến khích các Ngân Hành Thương mại tăng lãi suất và không khuyến khích tăng cường huy động vốn ngoại tệ, hạn chế tài sản nợ trong hện thống ngân hàng. Giải pháp quan trọng là thúc đảy sản xuất kinh doanh phát triển liên tục và bền vững, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam, đẩy mạnh hoạt động sản xuất…Do đó cần phải thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện nước ta hiện nay, theo chúng tôi cần ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng, còn chỉ số giá tăng cao chr yếu do nhân tố bên ngoài thì có thể chấp nhận được tất nhiên là cần có biện pháp quản lý chặt chẽ giá cả theo đúng nguyên lý thị trường, không nên dùng kênh ngân sách bao cấp qua giá kéo dài, làm ảnh hưởng chung tới nền kinh tế quốc gia. Việt Nam cần tiếp cận phương pháp tính chỉ số lạm phát theo thông lệ quốc tế, đồng thời có nhận thức đúng về chỉ số giá cả hàng tiêu dùng hiện nay, để không tạo ra tâm lý bất lợi gây sức ép về dư luận lên việc điều hành chính sách tiền tệ. Tổng cục thống kê cần mở rộng danh mục hàng hoá tính chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng lên 86 mặt hàng. Đồng thời sớm công bố mức lạm phát hàng tháng, loại bỏ bớt các yếu tố tác động gây nên những đột biến về giá, nhất là giá thị trường thế giới biến động mạnh. Như đã nói, lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Thông tin về thước đo lạm phát đến với dân chúng hàng ngày hàng tháng,…chủ yếu được tính theo phương pháp CPI.Nhưng CPI không thể đo lạm phát chính xác, bởi vì nó bị tác động của một số yếu tố gây sai lệch rổ hàng hoá được quy định trước. Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của hiệp định thương mại Việt-Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễm biến theo sát thị trường quốc tế. Thời gian tới, giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp khó lường. Việt Nam cần tôn trọng quy lật khách quan của thị trường. Không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước: cáp bù lỗ, cấp bù lãi suất,..Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sẽ làm méo mó giá cả thị trường trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu mặt hàng. Nhìn lại diễn biến kinh tế vĩ mô ở nước ta trong 14 năm qua có thể thấy, đây là mức độ tăng chỉ số giá cả hàng tiêu dùng lớn nhất ở nước ta trong nhiều năm gần đây. Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, một trong những thành công lớn nhất của Việt Nam được dư luạn quốc tế đánh giá cao, đó là tăng trưởng kinh tế cao và kiền chế lạm phát. Bước sang năm 2006, chi phí nguyên nhiên vạt liệu và chi phí nhân công của doanh nghiệp vẫn sẽ chịu sức ép lớn về giá, chư kể sức ép tăng lãi suất, sẽ càng làm cho chi phí vốn vay của doanh nghiệp tăng thêm. bởi vậy cần tiến hành đồng thời các giải pháp về tiền tệ, ngân sách, quản lý giá cả thị trường. Kết Luận Lạm phát kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35769.doc
Tài liệu liên quan