Đề tài Lý luận về sự cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và các loại cạnh tranh 1

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và các loại cạnh tranh 2

1.1. Quan niệm về cạnh tranh và các loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 2

1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh 2

1.1.2. Các loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 11

1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 12

Chương 2: Sự vận dụng lý luận của cạnh tranh vào Việt Nam và những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn lý luận cạnh tranh vào nước ta trong thời gian tới 15

2.1. Thực trạng của sự vận dụng lý luận cạnh tranh vào nước ta 15

2.1.1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của nước ta 15

2.1.2. Những yếu tố chủ yếu làm hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ 25

2.2. Những giải pháp để vận dụng tốt hơn lý luận cạnh tranh vào nước ta 27

2.2.1. Phát triển nguồn nhân lực. 27

2.2.2. Duy trì sức cạnh tranh chống độc quyền. 31

2.2.3. Khai thác lợi thế so sánh. 33

2.2.4. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường sức cạnh tranh 35

Kết luận 39

 

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3257 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận về sự cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nền kinh tế thị trường Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn...để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Cạnh tranh, làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước. Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi người và cho cộng đồng, xã hội. Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng sau: - Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu. - Cạnh tranh hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất. - Cạnh tranh tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất. - Cạnh tranh tác động một cách tích cực đến phân phối thu nhập: Cạnh tranh sẽ hạn chế hành vi bóc lột trên cơ sở quyền lợc thị trường và việc hình thành thu nhập không tương ứng với năng suất. - Cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới. Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi cung một hàng hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những cơ sở kinh doanh nào đủ khả năng cải tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán sản phẩm mới có thể tồn tại. Với ý nghĩa đó cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất. Khi cung một hàng hoá nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá đó trở nên khan hiếm trên thị trường, Giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực của nững cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất làm tăng thê lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh nâng cao năng lực sản xuất trong tòan xã hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàn toàn tự nhiên, không theo và không cần bất cứ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nước. Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá. Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị phá sản. Đối với xã hội, phá sản doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hội được chuyển sang cho nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà là sự huỷ diệt sáng tạo. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả còn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội hơn là phá sản. CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CẠNH TRANH VÀO VIỆT NAM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN LÝ LUẬN CẠNH TRANH VÀO NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 2.1. Thực trạng của sự vận dụng lý luận cạnh tranh vào nước ta 2.1.1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của nước ta Việc đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia có thể được tiếp cận trên ba cấp độ (nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp). Dưới dây sẽ đề cập đến trên cấp độ nền kinh tế. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam được đánh giá ở mức độ rất thấp. Hệ thống tài chính chưa năng động. Các nguồn thu vào ngân sách còn chứa đựng những yếu tố bất ổn định, nhất là các khoản thu từ thuế xuất nhập giảm xuống làm cho mức thâm hụt càng lớn so với nhu cầu có thể giải quyết đồng bộ các vấn đề kinh tế xã hội, hệ thống ngân hàng thương mại với 4 trụ cột lớn vẫn chủ yếu thực hiện chức năng là tổ chức tín dụng chứ chưa phải là nhà đầu tư. Hơn 60%tín dụng cấp cho các doanh nghiệp là ngắn hạn, tỷ trọng đầu tư vào các doanh nghiệp của hệ thống ngân hàng hầu như là không đáng kể. Hệ thống tài chính theo kiểu trực tuyến với các cấp của hệ thống ngân sách. Chúng ta còn thiếu hẳn hệ thống các tổ chức tài chính trung gian năng động cho nền tài chính quốc gia như: các công ty thuê mua, công ty nhận nợ, công ty chứng khoán... Lượng tiền trong lưu thông còn qua lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của hệ thống tài chính công. Hệ thống chứng từ kế toán chưa phản ánh các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế. Các khoản chi tiêu có chứng từ làm cho luật thuế VAT phải có những điều chỉnh không đáng có, làm cho tính pháp lý của thuế chưa cao. Việc điều chỉnh thuế suất thuế VAT sẽ gây phức tạp cho việc tổ chức thực hiện. Hệ thống kế toán chưa theo kịp các thông lệ quốc tế cũng là một cản trở lớn cho sự hội nhập, trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Kết cấu hạ tâng kỹ thuật - thông tin còn thấp kém lại không đồng đều giữa các vùng là nguyên nhân trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, bởi từ đó chi phi đầu vào cho các doanh nghiệp tăng cao. Từ trạng thái phát triển không đều giữa các vùng, nhanh chóng thay đổi cơ cấu dân cư khiến một số đô thị nhanh chóng quá tải đang là gánh nặng cho ngân sách vì các vấn đề xã hội và sinh thái. Trình độ, chất lượng nguồn nhân lực dồi dào nhưng không mạnh. Đội ngũ nhân lực trình độ cao để sẵn sàng đối phó với phân công lao động quốc tế chưa nhiều. Đây là vấn đề thách thức lớn cho hệ thống đào tạo, nhất là đào tạo nghề nghiệp, năng lực thực hành. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cả ở tầm vĩ mô và các doanh nghiệp đều bộc lộ những yếu kém, đặc biệt là kiến thức về thị trường và tài chính. Theo báo cáo mới đây của chính phủ gần 70% giám đốc doanh nghiệp không đọc nổi các báo cáo tài chính. Kết quả đợt tổng điều tra mới đây về trình độ cán bộ quản lý các doanh nghiệp cho thấy trong số 127 cán bộ quản lý được hỏi chỉ có 7 người được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn lại trong nước sau năm 1990, 9 người được bồi dưỡng ở nước ngoài với thời gian từ một đến ba tháng. Thiết chế kinh tế còn mang nặng tính tập trung, một số ngành vẫn duy trì độc quyền ở các cấp độ, các hình thức. Khu vực kinh tế dân doanh chưa được khuyến khích thoả đáng, trong nhiều lĩnh vực nhiều khu vực vẫn chưa tìm thấy sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách vĩ mô với vấn đề của các doanh nghiệp dân doanh. Mặc dầu thời gian gần đây, sự thông thoáng đã thể hiện rõ qua việc thực hiện luật doanh nghiệp mới nhưng hệ thống doanh nghiệp dân doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa nhận đựơc sự hỗ trợ khích lệ thoả đáng từ phía nhà nước. Các vấn đề như quyền sử dụng đất, vấn đề quy hoạch tổng thể, sự phối hợp liên ngành của các cơ quan quản lý nhà nước vẫn tiếp tục hạn chế đầu tư dài hạn vào sản xuất của khu vực kinh tế dân doanh. Công nghệ sản xuất còn thấp, mặc dù đã có một số công nghệ đạt trình độ tiên tiến trên thế giới nhưng nhìn chung mặt bằng còn thấp. Trong các ngành sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu chủ yếu là công nghệ có được thông qua chuyên giao công nghệ và khả năng quản lý công nghệ chưa đạt yêu cầu của sự phát triển công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Một số ngành khác chưa có công nghệ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thế giới dẫn tới chất lượng sản phẩm kém thiếu sức cạnh tranh, giá thành sản xuất cao. Mặc dù nước ta đã có một số thành tựu đáng kể trong phát triển công nghệ tuy nhiên vai trò nghiên cứu và triển khai còn thấp. Thực tế về xếp hạng của Việt Nam: Diễn đàn kinh tế thế giới WEF - bắt đầu xếp hạng kinh tế Việt Nam từ năm 1997 và liên tục xếp hạng cho đến nay. Một số nền kinh tế khác không đủ dữ liệu nên không thể xếp hạng được mặc dù WEF có nguyện vọng xếp hạng tất cả các nền kinh tế trên hành tinh này nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Bảng 1 sau đây cho thấy vị trí xếp hạng của Việt Nam qua các năm cho đến nay như sau: Bảng 1: Vị trí xếp hạng của Việt Nam Năm 1997 1998 1999 2001 2002 2003 2004 Xếphạng/tổng số 49/53 39/53 48/53 60/75 65/80 60/102 77/104 Khoảng cách đến nước thấp nhất 4 14 5 15 15 42 27 Vị trí xếp hạng không trực tiếp cho thông tin chính xác về cao hay thấp vì còn phụ thuộc vào số nền kinh tế được xếp hạng, nói Việt Nam được xếp hạng 39 mà không nói trên 53 nước dễ gây hiểu nhầm rằng vị trí đó cao hơn hiện nay. Vì vậy hàng 3 nêu khoảng cách Việt Nam và nước cuối cùng là thước đo chính xác hơn hiện nay. Đ ánh giá của WEF chỉ xem xét thực trạng, không xét đến tốc độ phát triển. Tốc độ về điện thoại và công nghệ thông tin Việt Nam cao nhất nhì thế giới, trong 15 năm qua tăng khoảng 1.000%, song đó là do xuất phát điểm thấp nên mặc dù tốc độ cao, xếp hạng về công nghệ thông tin của Việt Nam do nhiều tổ chức quốc tế khác nhau như ITU ( Hiệp hội thông tin quốc tế) xếp hạng, hoàn toàn phù hợp với WEF, Việt Nam vẫn có vị trí thấp và đó là sự phản ánh chính xác. So sánh với Trung Quốc và Thái Lan Bảng 2: So sánh vị trí xếp hạng chỉ số GCI với Thái Lan và Trung Quốc 2002 2003 2004 Thái Lan 37 32 34 Trung Quốc 38 44 46 Việt Nam 65 60 77 Phân tích kỹ các chỉ số chi tiết của từng nhóm thành tố, ta sẽ thấy rõ hơn những mặt mạnh yếu của nước ta. Bảng 3: So sánh các yếu tố của GCI - Chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng Việt Nam (77) Thái Lan (34) Trung Quốc (46) Chỉ số xếp hạng môi trường kinh tế vĩ mô 58 23 24 Chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô 23 7 5 Chỉ số về mức độ chi tiêu lãng phí của chính phủ 68 16 30 Chỉ số về tín nhiệm tài chính của đất nước 68 42 45 Chỉ số xếp hạng về các thể chế công 82 45 55 Chỉ số về thi hành luật pháp và hợp đồng 55 45 54 Chỉ số về tham nhũng 97 52 60 Chỉ số xếp hạng về công nghệ 92 43 62 Chỉ số về sáng tạo công nghệ 79 37 70 Chỉ số về công nghệ thông tin 86 55 62 Chỉ số về chuyển giao công nghệ 66 4 37 Ta có thể thấy về tất cả các chỉ tiêu, Thái Lan và Trung Quốc đều đã vượt lên đáng kể, trong đó sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng cao hơn ta, các chỉ tiêu về thể chế công và công nghệ cả hai nước đều đã vượt lên rất nhiều, khoảng 30-40 bậc. Bảng 4: So sánh nhóm tiêu chí về môi trường kinh tế vĩ mô và công nghệ mà Việt Nam có thế mạnh Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng Việt Nam Thái Lan Trung Quốc Môi trường kinh tế vĩ mô Hệ số tiết kiệm quốc gia, năm 2003 14 11 1 Chênh lệch lãi suất ngân hàng 2003 15 43 26 Kỳ vọng có thể xảy ra suy thoái 34 4 14 Tỷ giá hối đoái thực 2003 38 47 35 Bội thu /chi ngân sách 2003 39 14 44 Tiếp cận tín dụng 41 25 80 Công nghệ Kết quả khuyến khích công nghệ thông tin (CNTT) của chính phủ 28 12 23 Ưu tiên của chính phủ về CNTT 33 16 43 Khả năng tiếp thu công nghệ ở tầm doanh nghiệp 38 26 34 Ta thấy về môi trường kinh tế vĩ mô, các chỉ số của Việt Nam khá tốt, có thể xếp cùng hạng với hai nước trên, trong khi khả năng tiếp cận tín dụng được đánh giá cao hơn Trung Quốc nhưng lại thấp hơn nhiều so với Thái Lan, phản ánh trình độ phát triển của tín dụng ngân hàng. Về công nghệ thứ bậc của Việt Nam tương đương với Trung Quốc, song thua kém hẳn so với Thái Lan. Đó là những mặt mạnh của nền kinh tế nước ta. Bảng 5 so sánh những mặt được coi là bất lợi hay yếu kém trong năng lực cạnh tranh của nước ta với hai nước trên. Bảng 5: So sánh các chỉ tiêu bất lợi của nước ta Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng Việt Nam Thái Lan Trung Quốc Môi trường kinh tế vĩ mô Chỉ số về tín nhiệm tài chính của đất nước 2004 68 42 35 Mức độ lãng phí trong chi tiêu của chính phủ 68 16 30 Lạm phát 2003 52 28 17 Các thể chế công Chi tiền ngoài pháp luật trong xuất nhập khẩu 100 72 54 Chi tiền ngoài pháp luật trong thu thuế 97 47 62 Chi tiền ngoài pháp luật trong sử dụng các dịch vụ công 91 45 63 Luật tài sản 66 41 62 Tội phạm có tổ chức 61 58 67 Tính độc lập của tư pháp 59 44 61 Thiên vị trong quyết định của quan chức chính phủ 55 50 38 Công nghệ Mức độ sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài 99 11 59 Thuê bao internet 2003 99 64 86 Chất lượng cạnh tranh trong dịch vụ cung cấp internet (ISP) 96 35 48 Luật pháp liên quan đến công nghệ thông tin 94 45 51 Sử dụng điện thoại di động 2003 89 59 63 Sử dụng máy tính cá nhân 2003 84 64 72 Hợp tác giữa trường đại học và nghiên cứu công nghiệp 82 31 22 Mức độ sẵn sàng về công nghệ 81 39 60 Tỉ lệ học sinh trung học phổ thông 81 41 75 Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ 79 8 52 Sử dụng bằng phát minh 2003 79 52 62 Điện thoại hữu tuyến 2003 79 72 56 Chỉ tiêu doanh nghiệp về nghiên cứu triển khai 71 43 27 Người sử dụng internet 2003 69 54 63 Trường học tiếp cận với internet 55 42 49 Bảng 5 cho thấy các vấn đề về thể chế công của Việt Nam thua kém rõ rệt so với Thái Lan và Trung Quốc trong khi tội phạm có tổ chức ở Trung Quốc lại trầm trọng hơn ở Việt Nam. Về công nghệ, Trung Quốc có chỉ số rất tốt về hợp tác giữa trường đại học và nghiên cứu công nghiệp, còn cao hơn Thái Lan trong khi Thái Lan đạt chỉ số rất cao về đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ. Chỉ tiêu của doanh nghiệp cho nghiên cứu và triển khai của hai nước cũng cao hơn hẳn nước ta. Trong những món "quà Tết mà năm 2007 ban tặng cho chứng ta có một thứ mang tính chất hai mặt. Cái thứ mang tính chất hai mặt đó chính là cạnh tranh - cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu và cạnh tranh ngay tại sân nhà của chúng ta. Cạnh tranh là một thách thức, nhưng đồng thời cũng là một cơ hội. Thách thức là vì chúng ta phải đấu nhau với cả những "gã khổng lồ" có tiềm lực to lớn và có kinh nghiệm đầy mình. Cơ hội là vì chúng ta có được một sức ép lành mạnh để vươn lên. Không có sức ép, chắc gì chúng ta đã chịu từ bỏ cách nghĩ, cách làm cũ. Thực ra, cạnh tranh không phải là một vấn đề. Năng lực cạnh tranh yếu mới là một vấn để đáng bàn. Năng lực cạnh tranh yếu có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Có những nguyên nhân nằm ở cái sự "trẻ người, non dạ của nền kinh tế thị trường mà chứng ta đang trong quá trình xây đựng. Ví dụ, phần lớn trong hơn 200.000 doanh nghiệp tư nhân của nước ta vừa mới được hình thành sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời cách đây chưa đến chúc năm. Mà như vậy, thì các doanh nghiệp tư nhân, chủ thể quan trọng hàng đầu của kinh tế thị trường, nói chung đều khá nhỏ bé, năng lực tài chính thấp, kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều. Đó là chưa nói tới các truyền thống kinh doanh cha truyền con nối đã bị đứt đoạn và mới chỉ được chắp nối một phần. Những nguyên nhân như vậy chỉ có thể khắc phục được trong quá trình phát triển tiếp theo và qua chọn lọc tự nhiên của thị trường. Mọi sự "quá trẻ đều chỉ là vấn đề của thời gian. Có những nguyên nhân nằm ở cơ chế . Ví dụ thứ nhất, các doanh nghiệp Nhà nước thường vừa bị thiếu động lực chú sớ hữu, vừa bị gò bó bới những quy định lỗi thời chậm được thay đổi, làm cho chúng thường rất kém hiệu năng. Ví dụ thứ hai, hệ thống hành chính giải quyết công việc chậm chạp, phiền hà làm tăng các chi phí không đáng có cả về mặt thời gian lẫn về mặt tài chính cho các doanh nghiệp. Ví dụ thứ ba, các đầu tư công kém hiệu quả làm cho hệ thống cơ sở hạ tầng không phát huy được tác dụng (hoặc ít phát huy tác dụng) trong việc hỗ trợ nền kinh tế... Để loại bỏ những nguyên này điều cần thiết là phải đẩy nhanh qúa trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước và tiến hành những cải cách sâu rộng về pháp luật và thể chế. Có những nguyên nhân nằm ở mối quan hệ lao động. Các tranh chấp lao động xảy ra thường xuyên có thể làm hỏng môi trường kinh doanh và cơ hội làm ăn của nhiều doanh nghiệp. Điều quan trọng ở đây là phải hình thành một văn hoá đối thoại giữa những người lao động với những người sử dựng lao động, hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp lao động trên cơ sở thương thuyết và mặc cả. Muốn vậy tổ chức công đoàn phải mạnh và phải gắn bó với những người công nhân cả về quyền lợi và trách nhiệm. Chính quyền khó có thể áp đặt cách giải quyết của mình cho mọi cuộc tranh chấp lao động, nhưng có thể báo đảm một môi trường lao động lành mạnh và các khuôn khố pháp lý để dẫn dắt hành vi cho cá hai bên tranh chấp nhằm tránh xung đột và đổ vỡ. Cuối cùng, có những nguyên nhân nằm ở hệ thống giáo đục và đào tạo. Tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, tình trạng có bằng cấp nhưng không có kiến thức và kỹ năng phản ánh những bất cập rất lớn về nguồn nhân lực mà chúng ta đang có. Trong lúc đó, cỗ máy đào tạo vẫn tiếp tục chạy theo quán tính và tiếp tục cho "ra lò" những sản phẩm mà thị trường ít có nhu cầu. Điều này bắt buộc nhiều doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo lại nhưng người đã qua đào tạo. Rõ ràng chúng ta đang chi phí hai lần cả về thời gian và cả về tài chính cho một việc. Mà như vậy thì năng lực cạnh tranh của cả quốc gia là không thể cao. Cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo theo đòi hỏi của thị trường lao động là rất cần thiết để loại bỏ những nguyên nhân loại này. Cuối cùng, với món quà cạnh tranh, chúng ta không thể không cám ơn hội nhập. Tuy nhiên, sau ơn huệ, điều quan trọng phải làm ngay là xây dựng và triển khai một chiến lược toàn điện để nâng cao năng lực canh tranh. 2.1.2. Những yếu tố chủ yếu làm hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ Thứ nhất, chi phí sản xuất trong từng ngành, từng sản phẩm trong toàn bộ nền kinh tế còn cao. Trong nông nghiệp, chi phí sản xuất còn chiếm 40% giá trị sản xuất. Các phương thức canh tác còn lạc hậu, giống cây trồng vật nuôi có chất lượng và năng suất thấp, thiết bị chế biến còn lạc hậu, làm cho chi phí sản xuất cao. Khi giảm thuế nhập khẩu và dỡ bỏ các rào cản phi thuế sẽ hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh so với hàng nhập khẩu. Chắc chắn sẽ có những doanh nghiệp, những ngành sản xuất trong nông nghiệp bị thu hẹp quy mô, thậm chí không tồn tại nếu như ngay từ bây giờ không nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Trong công nghiệp, chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm còn cao, chiếm bình quân khoảng 70% giá trị sản xuất. Giá thành một số sản phẩm như xi măng, thép, giấy, vải, phân bón, hoá chất cơ bản, đường...đều cao hơn giá thành sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực từ 20- 30%. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu do tồn tại yếu kém ở nhiều khâu: trước hết là trình độ công nghệ và trang thiết bị của nền kinh tế còn thấp, các thiết bị công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm đến 60- 70%, lạc hậu hơn các nước trong khu vực hai đến ba thế hệ. Trình độ tay nghề còn thấp, vì vậy năng suất lao động thấp hơn nhiều so với các nước tiến. Chi phí nguyên liệu đầu vào nhìn chung là cao do chủ yếu nhập khẩu, chất lượng nguyên liệu sản xuất trong nước kém, không ổn định, cộng với chi phí sản xuất kinh doanh còn cao. Về mặt quản lý, các doanh nghiệp chưa quan tâm tìm giải pháp giảm các chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất để tham gia hội nhập có hiệu quả, vẫn có tư tưởng trông chờ vào nhà nước về cấp vốn, hạ lãi suất, bù lỗ, miễn giảm thuế...Mặc dù năm 2003 đã đến thời hạn cắt giảm thuế theo hiệp đinh AFTA. Việc đầu tư nghiên cứu phát triển thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp còn quá ít. Công tác xúc tiến thị trường tiếp thị còn lúng túng, ít được đầu tư và nhìn nhận đúng vai trò của nó. Thứ hai, chất lượng lao động, năng suất lao động thấp. Trong nông nghiệp và khu vực nông thôn, năng suất lao động còn quá thấp. Hiện nay, kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam dựa trên gần 12 triệu hộ nông dân đảm nhận, quy mô bé, phương tiện canh tác lạc hậu, năng suất chất lượng và hiệu quả thấp, sức cạnh tranh về hàng hoá nông sản trên thị trường kém. Lực lượng lao động ở nông thôn dồi dào nhưng đội ngũ lao động có tri thức còn mỏng, mới sử dụng khoảng 75% quỹ thời gian. Đất nông nghiệp bị chia cắt manh mún đang trở thành trở ngại lớn trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp. Trong công nghiệp, trình độ lao động, trình độ tay nghề chưa thể đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của quá trình phát triểnvà là một nguyên nhân quan trọng hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, đổi mới quy trình sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp hiện nay. Hiện có khoảng 73% lực lượng lao động công nghiệp không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ đại học/ trung cấp/công nhân kỹ thuật của Việt Nam là 1/1,5/2.5 trong khi của thế giới là 1/2,5/3,5. Công tác đào tạo lại chưa được quan tâm đúng mức thiếu quy hoạch dài hạn, cộng với việc sử dụng đãi ngộ chưa thoả đáng. Thứ ba, chi phí dịch vụ còn cao. Theo điều tra của các tổ chức quốc tế và phản ánh của các doanh nghiệp, nhiều chi phí đầu vào tại Việt Nam được đánh giá cao hơn nhiều so với các nước trongkhu vực như cước điện thoại, viễn thông, phí giao thông vận tải, cảng biển, giá các sản phẩm độc quyền như xi măng, điện nước...Cụ thể là cước viễn thông quốc tế cao hơn từ 30- 50%; giá điện cao hơn Mianma, Thái Lan, Singapo, Indonesia, Lào khoảng trên 45%; chi phí vận tải đường biển contain cao hơn từ 40- 50%. Các mức phí và lệ phí hàng hải tại các cảng ở Sài Gòn còn cao hơn vài lần so với các cảng biển tại Bangkoc, Manila, Jakata. Thứ tư, bộ máy quản lý còn kém hiệu quả. Ở các doanh nghiệp, bộ máy quản lý còn cồng kềnh, thường chiếm từ 6- 9% tổng số lao động của doanh nghiệp; trong khi các nước trong khu vực chỉ chiếm từ 3- 4%. Chi phí quản lý doanh nghiệp trong nhiều ngành thường chiếm từ 5-8% giá thành là khá cao. Mặt khác do quy định của nhà nước nên nhiều vị trí trong bộ máy không kiêm nhiệm được và kém linh hoạt. Đáng lưu ý là tổ chức lao động ở nhiều doanh nghiệp chưa hợp lý và khoa học, biên chế quá lớn (đặc biệt là đội ngũ gián tiếp), chức năng nhiệm vụ không rõ ràng, kỷ luật lao động chưa nghiêm...làm cho năng suất và hiệu quả thấp. 2.2. Những giải pháp để vận dụng tốt hơn lý luận cạnh tranh vào nước ta 2.2.1. Phát triển nguồn nhân lực. Con người là một chủ thể, là một nhân tốđặc biệt trong số các nhân tố đầu vào của mọi hoạt động kinh tế. Nó khác biệt với các nhân tố khác vì nó vừa là nhân tố động lực đảm bảo cho sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung, song đồng thời cũng là mục tiêu phục vụ mà các doanh nghiệp và cả xã hội phải hướng tới. Là một chủ thể đặc biệt như vậy,vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển, là một chủ thể sống, cùng vận động để tồn tại và phát triển trong một xã hội luôn biến động và không ngừng phát triển, do vậy khi xét đến chủ thể này như một nhân tố tích cực trong việc nâng cao sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung thì cần phải chú ý hai mặt: - Làm sao để phát huy vai trò động lực của con người, tạo điều kiện để họ đóng góp cho xã hội được nhiều hơn. - Mặt khác, muốn “con tằm nhả tơ óng mượt hơn” thì phải đầu tư vào con người nhiều hơn, phải phục vụ họ được tốt hơn, tạo môi trường để họ tin tưởng, tự tin trong công việc... Một khi họ đã gắn bó với sự sinh tồn của doanh nghiệp thì họ sẽ gắng sức không ngừng cải tiến đổi mới công nghệ, phát huy sức sáng tạo, nỗ lực trong việc tìm kiếm thị trường... nhằm tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao nhất. Muốn vậy, để nâng cao sức cạnh tranh, thông qua yếu tố con người nên chăng cần chú ý giải quyết tốt những vấn đề sau: Một là, không ngừng tạo điều kiện cho người lao động (bao gồm cả công nhân lao động lẫn đội ngũ quản lý ở mọi cấp) được học tập, được đào tạo và đào tạo lại. Trong xã hội thông tin, viêc không ngừng nâng cao cập nhật kiến thức là một nhu cầu tất yếu, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà sự phát triển của mọi quốc gia đều hướng tới nền kinh tế tri thức- một xã hội tinh thần không ngừng học hỏi rèn luyện và nâng cao kiến thức. Tuy nhiên, cũng nên phân định rõ sự cần thiết trong việc đào tạo ở hai cấp độ: đào tạo nhân lực nói chung và đào tạo nhân tài nói riêng. Đào tạo nhân lực là đào tạo để đáp ứng phổ cập những kiến thức cơ bản tuỳ theo từng trình độ. Phù hợp với nhu cầu phát triển trên diện rộng. Còn đào tạo nhân tài là đào tạo với mục đích, hình thành nên đội ngũ cán bộ giỏi, cán bộ đầu ngành trong từng lĩnh vực, để họ có đủ năng lực kiến thức và khả năng tư duy, suy nghĩ độc lập và sáng tạo, đủ sức đảm đương những trọng trách mà xã hội giao phó hoặc đủ tầm đạt tới những đỉnh cao của khoa học công nghệ mới. Để nâng cao sức cạnh tranh thì việc đào tạo chuyên sâu là vô cùng cần thiết, vì có đào tạo chuyên sâu mới tạo ra đựơc độ ngũ quản lý giỏi. Ông cha ta đã t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLý luận về sự cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan