Đề tài Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: LÍ LUẬN CHUNG 2

I. Khái quát về nội dung của quy luật muâu thuẫn 2

I.1. Một số khái niệm cơ bản của quy luật 2

I.2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn 2

I.3 Một số loại mâu thuẫn 4

II. Nguyên tắc chung vận dụng quy luật mâu thuẫn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế 6

II.1. Quy luật kinh tế cũng tồn tại khách quan và chứa đựng mâu thuẫn 6

II.2. Thực hiện cách mạng xã hội để xây dựng nền kinh tế 7

PHẦN II: VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 8

I. Khái quát chung về kinh tế thị trường và đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 8

II. Một số mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 10

II.1. Kinh tế thị trường là nền kinh tế TBCN hay XHCN 10

II.2. Phân tầng xã hội và sự xuất hiện giai cấp ở Việt Nam hiện nay 12

II.3. Lợi ích là một trong những động lực của nền kinh tế: lợi ích cá nhân hay lợi ích xã hội? 14

II.4. QHSX ở Việt Nam liệu đã phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX 14

II.5. Mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội 16

III. Kết luật, giải pháp cho tình hình nền kinh tế thị trường ở nước ta 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tượng và quá trình kinh tế khách quan.” [ Kinh tế chính trị Mác- Lê nin, Nxb Giáo dục, 1998, tr 30]. Quy luật kinh tế có tính khách quan, nó ra đời, phát huy tác dụng và mất đi không phụ thuộc vào ý chí của con người. Người ta không thể tự ý tạo ra những quy luật kinh tế đồng thời cũng không thể xoá bỏ chúng. Quy luật kinh tế ra đời trên những cơ sở kinh tế chung nhất. Cơ sở trực tiếp làm nảy sinh những quy luật kinh tế đặc thù là quan hệ sản xuất. Đến lượt nó, QHSX lại do tính chất và trình độ của LLSX quy định. Mà” theo C.Mác, người ta không thể tự ý lựa chọn được LLSX. Do vậy, quy luật kinh tế có tính khách quan.”[ Kinh tế chính trị hoc Mác- Lê nin, tập I, Nxb Giáo dục, 1998, tr 31]. Khách quan không có nghĩa là tự phát, con người hoàn toàn có khả năng để nhận thức và vận dụng ngày càng tốt hơn sự họat động của các quy luật kinh tế . Trong hoạt động kinh tế , cần phải nhấn mạnh tính khách quan của các quy luật kinh tế . Có như vậy mới tránh được tình trạng chủ quan, duy ý chí,nâng cao được hiệu quả kinh tế – xã hội của những hoạt động kinh tế. Tính mâu thuẫn của các quy luật kinh tế thể hiện ở phương thức hoạt động cuả nó. Các quy luật kinh tế hoạt động thông qua hoạt động của con người, con người lại hoạt động vì lợi ích của mình-mà lợi ích, hiện nay được phân phối không đồng đều giữa các cá nhân, tổ chức, các giai cấp ( chủ yếu ở xã hội TBCN), các Nhà nước . Vì vậy, ở nước ta, vận dụng các quy luật kinh tế phải nhằm thực hiện tốt việc giải quyết lợi ích cho người lao động . II.2. Thực hiện cách mạng xã hội để xây dựng nền kinh tế . Lịch sử xã hội loài người là một quá trình phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội. Việc chuyển một hình thái kinh tế –xã hội này sang một hình thái kinh tế –xã hội khác gọi là cách mạng xã hội . Hay ta còn có cách hiểu khác: cách mạng xã hội là những bước chuyển biến mới của lịch sử trên phạm vi thế giới, nó là quá trình lịch sử có thể diễn ra hàng trăm năm, đồng thời việc giành chính quyền chỉ là một giai đoạn của cách mạng. Vì yếu tố nền tảng của bất kì hình thái kinh tế –xã hội nào cũng là phương thức sản xuất và sâu xa hơn nữa là cơ sở hạ tầng, nên cách mạng xã hội trước hết phải là sự thay đổi chính bản thân các quan hệ kinh tế hợp thành cơ sở hạ tầng của xã hội. Hệ quả của những thay đổi này là sự chuyển biến tương ứng về kiến trúc thượng tầng cũng như toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội . Cách mạng xã hội là sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác; là việc xoá bỏ QHSX cũ, lỗi thời và xây dựng QHSX mới phù hợp với LLSX. tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Đây là cách mạng kinh tế. Cách mạng kinh tế là nhân tố căn bản của các cuộc cách mạng xã hội . Nó vừa là điểm khởi đầu, vừa là mục cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Sức hấp dãn và tính hiện thực của những kết quả mà cách mạng kinh tế có thể mang lại là động lực thúc đẩy sự tham gia của đông đảo dân chúng.Đặc trưng căn bản của cách mạng kinh tế là tính chất bước nhảy. Chính bước nhảy biện chứng này làm cho chất lượng của hình thái kinh tế – xã hội sau bao giờ cũng cao hơn so với hình thái có trước. Có thể xem việc chuyển dổi nền kinh tế Việt Nam từ kinh tế bao cấp sang KTTT cũng là một cuộc cách mạng kinh tế . Đây là một cuộc cách mạng kinh tế mà đi đôi với nó là sự biến đổi về kiến trúc thuợng tầng của xã hội : sự thay đổi cơ chế quản lý, chủ trương chính sách, pháp luật, tư tưởng xã hội v.v…để thích ứng với nền kinh tế mới. Vậy ta có thể thấy tính chất bước nhảy của cách mạng xã hội góp phần quan trọng vào sự phát triển cuả mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội loài người. Phần II. Vận dụng quy luật mâu thuẫn vào việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam I.Khái quát chung về KTTT và đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. I.1. Khái quát chung về KTTT. Trước hết ta tìm hiểu hai khái niệm sau: khái niệm kinh tế hàng hoá và khái niệm cơ chế thị trường. “Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán và trao đổi trên thị trường”(1). “Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế (2). Từ đó ta có: “ kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi cơ chế thị trường hay vận động theo cơ chế thị trường gọi là “ kinh tế thị trường ””(3)[ (1) , ( 2 ),(3): Kinh tế chính trị Mác- Lê nin, tập hai, Nxb Giáo dục, 1996, tr 103, 191,104 ]. Hiện nay không có một nước nào trên thế giới có nền KTTT vận động hoàn toàn theo cơ chế thị trường “ hoàn hảo ” hoàn toàn do “ bàn tay vô hình ” theo cách nói của Adam-Smith, nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh ở thế kỷ XVIII. Trái lại, chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của các doanh nghiệp lớn và Nhà nước ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Và ở nước ta, kinh tế hàng hoá mà Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH là “ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ” [ Văn kiện Đại hội Đảng lần VII, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, tr21] I.2. Đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam . Nền KTTT định hướng XHCN cũng có những tính chất chung của nền kinh tế : nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh; có chủ thể kinh tế có tính độc lập, tự chủ ; thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế; giá cả do thị trường quyết định; Nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt những thất bại của thị trường. Nhưng bất cứ nền KTTT nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử-xã hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó, và do đó có đặc điểm riêng phân biệt với KTTT các nước khác. Nền KTTT ở Việt Nam có những đặc trưng sau: Thứ nhât, nền kinh tế dựa trên cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong nền KTTT ở nước ta tồn tại ba loại hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba hình thức sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế , nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh . Việc xác định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản chủ nghĩa. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó. Kinh tế Nhà nước tạo cơ sở cho chế độ xã hội mới- chế độ XHCN. Thứ hai, trong nền KTTT định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội , trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế , mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải tạo đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội . Thứ ba, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Điều đó có nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta cũng vận động theo những quy luật nội tại của nền KTTT nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế . Việc quản lý của Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những” thất bại của thị trường “ , thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền KTTT hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài Nhà nước lại có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế sao cho phải tương hợp với thị trường. Thứ tư, nền KTTT ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn liền với thị trường thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra, đây không phải là đặc trưng của nền KTTT định hướng, mà là xu hướng chung của nền kinh tế trên thế giới hiện nay.Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển KTTT theo kiểu rút ngắn. Từ những đặc trưng và sự phát triển đúng hướng của nền KTTT ở nước ta, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Qua 7 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế 1991- 1997, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng 77% so với năm 1990, bình quân hàng năm tăng 8,5 % là một nhịp độ tăng trưởng cao trong khu vực. Đến năm 2000, GDP đạt 400USD/người. Từ năm 1996- 2000 đã có 24,7 tỷ USD đầu tư nước ngoài vào Việt Nam . Những chỉ tiêu có thể công nhận sự phát triển của Bưu chính viễn thông Việt Nam là tốc độ phát triển điện thoại nhanh vào bậc nhất thế giới: đầu 2000, cả nước có 2,7 triệu thuê bao, đạt 3,5 máy/100 dân thì đến nay là 3 triệu thuê bao với 3,8 máy/ 100 dân.[ Thời báo kinh tế Việt Nam, số 151- 2000]. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế giới, năm 1989 xuất 2,2 triệu tấn; năm 1990 : 2,5 triệu tấn; năm 1998: 4 triệu tấn; năm 2001 dự kiến xuất 6 triệu tấn [ Trần Đình Bút: Nhà nước và cơ chế thị trường, Nxb Trẻ, 1998, tr 30]. Đời sống của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân đã được cải thiện và nâng cao hơn trước, quốc phòng an ninh được đảm bảo, ổn định chính trị được giữ vững, các mối quan hệ kinh tế được mở rộng với nhiều nước trên thế giới, bộ mặt đất nước đã có những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực. Nói một cách tổng quát, thế và lực của nước ta đã được tăng cường hơn bao giờ hết. Tuy vậy, đi đôi với thành tựu là rất nhiều những khó khăn đòi hỏi phải có phương hướng giải quyêt đúng đắn. Đặc biệt, lao động và việc làm đang là vấn đề gay gắt, nổi cộm nhất hiện nay với tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 7,4% và tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là30%. Tỷ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật còn thấp trong tổng số lực lượng lao động: theo kết quả điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/1999, công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ chiếm 30,3%, lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 36,8%, trình độ cao đẳng và đại học chiếm 31,6%, trên đại học chiếm 1,3%[Kinh tế và phát triển,số 42, tháng 12/2000, tr 19]. Từ năm 2001, khi Việt Nam áp dụng chuẩn đói nghèo mới thì tỷ lệ đói nghèo sẽ còn khá lớn, khoảng 17% so với 11% chuẩn cũ. Hiện tại, mức tiêu dùng của dân cư thấp, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế mới đạt khoảng 25-27% GDP, còn tích luỹ ròng chỉ đạt dưới 20% GDP. Trong khi đó, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, sản lượng điện bình quân đầu người mới đạt trên 340 Kwh, mật độ đường giao thông tính trên 1000 dân còn thấp xa so với các nước xung quanh. Cụ thể: mật độ đường bộ là 1,48 km/1000 dân, đường sắt là 0,04km/1000 dân[ Thời báo kinh tế Việt Nam, số 151, 18/12/2000]. Một trong những nguyên nhân phát sinh ra những khó khăn trên là trong nội bộ nền kinh tế của nước ta vẫn còn tồn tại khá nhiều mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng KTTT. II. Một số mâu thuẫn trong nền KTTT ở Việt Nam hiện nay. II.1. KTTT là nền kinh tế TBCN hay XHCN? Có thể thực hiện KTTT dưới CNXH hay không? KTTT là thể chế kinh tế vận hành, nó có thể được thực hiện dưới CNTB cũng như dưới CNXH. Không nên đồng nhất KTTT với CNTB vì những lý do sau: Một là, KTTT không phải là sản phẩm riêng của CNTB. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá đã từng tồn tại trước CNTB. Kinh tế hàng hoá không phải là cái do CNTB tạo ra, mà là thành tựu văn minh mà loài người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình, còn bản chất cố hữu của CNTB là bóc lột lao động làm thuê và làm bần cùng hoá họ. Hai là, KTTT là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội. Dĩ nhiên, KTTTvà chế độ xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng đó không phải mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội là hệ thống QHSX thống trị,trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của CNXH là hệ thống quan hệ sản xuất XHCN dựa trên chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất . Ba là, KTTT và CNXH có thể dung hòa. KTTT là một thể chế kinh tế vận hành mà” chế độ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, mà thông qua cơ cấu quyền sở hữu được hình thành bởi một cơ chế sở hữu nào đó, tác động gián tiếp đến thể chể kinh tế”.[Cốc Thư Đường: Lý luận mới về kinh tế học XHCN, Nxb Chính trị quốc gia, HN,1997, tr129]. Vì vậy, trong chế độ công hữu XHCN cũng có thể thực hiện được KTTT. Hội nghị lần thứ 6( lần 2) Ban chấp hành trung ương khoá VIII cũng đã xác định:” tiếp tục làm rõ hơn một số vấn đề bức xúc như: KTTT và định hướng XHCN; vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước , cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước…”. Đó là câu trả lời dứt khoát đối với quan niệm sai lầm cho rằng định hướng XHCN là mâu thuẫn với KTTT. Tuy có những quan điểm rõ ràng như vậy, nhưng hiện nay người ta mới chứng kiến loại hình KTTT tư bản chủ nghĩa, còn KTTT xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình tìm kiếm và xây dựng. Nền KTTT ở nước ta mới là nền kinh tế định hướng và quá độ chứ chưa thực sự trở thành nền kinh tế thị trường XHCN, trong nó còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn ,trong đó có mâu thuẫn giữa KTTT với việc xây dựng con người XHCN. Hiện nay, ở Việt Nam , dưới tác động của KTTT, ngày càng có nhiều các tệ nạn phát triển : ma túy, mại dâm, buôn lậu, tham nhũng…nhưng nguy hiểm hơn đó là sự suy thoài đạo đức con người, tính ích kỷ, tôn sùng lợi ích cá nhân, bản lĩnh chính trị yếu kém, ý thức độc lập dân tộc suy giảm. Xu hướng chạy theo đồng tiền, bỏ măc các giá trị đạo đức xã hội, giá trị truyền thống, chà đạp lên các giá trị đó.” Thưong mại hoá”diễn ra trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội : văn hoá, giáo dục, y tế, nghệ thuật v.v… Ngoài ra, nhiều đặc trưng của xã hội tư bản đã xuất hiện ở Việt Nam như giai cấp, sự bóc lột công nhân làm thuê, sự tách rời giữa tư liệu sản xuất và lao động… Như vậy, ở đây đã có sự thống nhất giữa KTTT và định hướng XHCN nhưng không tách rời sự đấu tranh giữa chúng, xem xét sự đấu tranh đó với thái độ duy vật sẽ giúp ta tìm ra cách giải quyết vấn đề này.Muốn xây dựng KTTT mà không mâu thuẫn với định hướng XHCN cần phải: Nhà nước phải căn cứ vào cương lĩnh chính trị, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của Đảng mà đặt ra cơ chế chính sách quản lý KTTT. Bảo đảm và tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước để Nhà nước có đường lối và phương hướng đúng. Cơ chế quản lý kinh tế và chính sách của Nhà nước phải được thể chế hóa một cách đồng bộ và nhất quán tạo điều kiện và môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa cạnh tranh đi vào quỹ đạo đúng đắn. Phân định rành mạch chức năng quản lý hành chính- kinh tế của Nhà nước với quản lý kinh doanh của các đơn vị cơ sở Nhà nước phải xây dựng mới, sửa chữa, bổ sung và đồng bộ hóa hệ thống luật pháp kinh tế phù hợp với việc dân chủ hóa nền kinh tế theo cơ chế thị trường . Nhà nước phải xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế có đủ phẩm chất, kiến thức và năng lực thích ứng với cơ chế thị trường. II.2. Phân tấng xã hội và sự xuất hiện giai cấp là nguy cơ của Nhà nước Việt Nam XHCN. Trong xu hướng biến động của cơ cấu xã hội nước ta hiện nay, hiện tượng phân tầng xã hội đang nổi lên như là một vấn đề thời sự có tính cấp bách. Có nhiều người lo ngại rằng sự phân tầng hay nói rộng hơn là sự phân hóa xã hội hiện nay là không bình thường, trái với quy luật kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta, nó sẽ tạo điều kiện đưa nước ta đi lệch hướng XHCN. Nền kinh tế nước ta đã đi vào thế ổn định,tăng trưởng tốt, nhưng trong điều kiện KTTT hiện nay, sự tăng trưởng đã đi liền với nó là sự mất công bằng xã hội. Từ đó xuất hiện nhiều mâu thuẫn, mà những bất công xã hội – hậu quả trong việc giải quyết không tốt những mâu thuẫn này, sẽ tác động trở lại và kìm hãm sự phát triển kinh tế và tiến trình xây dựng nền KTTT ở nước ta. Trước hết, là mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột. Nước ta đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình sỏ hữu và kinh doanh , trong đó có cả hình thức kinh doanh có thuê mướn lao động. Như vậy, ở đây đã xuất hiện một mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà kinh doanh ( bóc lột) và lợi ích của người lao động( bị bóc lột). Nếu không giải quyết tốt mâu thuẫn này thì có thể xảy ra hai trường hợp: hoặc là lợi ích của người lao động, hoặc là lợi ích của nhà kinh doanh bị vi phạm, cả hai trường hợp đều ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân, của Nhà nước . Muốn giải quyết mâu thuẫn này, phải biết kết hợp hài hòa các lợi ích: lợi ích của người lao động, lợi ích của nhà kinh doanh, không được coi trọng lợi ích này, xem nhẹ lợi ích kia. Giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển kinh tế- xã hội, tạo điều kiện để kinh tế Nhà nước từng bước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Trong tương lai, phải dần dần tạo điều kiện cho người lao động trở thành người chủ của quá trình sản xuất, từ đó họ mới có thể làm chủ xã hội về mọi mặt. Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn này là giữa bình đẳng xã hội với tính cách là mục tiêu của CNXH đã mâu thuẫn với sự bất bình đẳng trong hưởng thụ do sự không ngang bằng nhau của các cá nhân, nhóm xã hội trong lao động và đóng góp trong nền KTTT. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết thường xuyên và đúng đắn có thể xảy ra hai trường hợp: hoặc là, do nhận thức không đúng, Nhà nước can thiệp một cách chủ quan vào tiến trình xã hội , vi phạm những nguyên tắc của công bằng xã hội dẫn đến kìm hãm sự phát triển kinh tế; hoặc là, do sự phát triển tự phát của KTTT Nhà nước không có biện pháp điều chỉnh thích hợp dẫn đến sự bất bình đẳng tích lũy dần, phân cực xã hội sâu sắc, xã hội ngày càng xa dời mục tiêu XHCN. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết từng mặt chứ chưa thể toàn diện trong nền KTTT hiện nay. Trước hết là phấn đấu từng bước bình đẳng về cơ hội- tức mọi người đều có quyền tham gia vào các quá trình sản xuất, kinh doanh v.v… Còn về mặt hưởng thụ chỉ có thể chỉ có thể phấn đấu bình đẳng ở sự thỏa mãn một số nhu cầu cơ bản nhất rồi dần dần phát triển lên. Và Nhà nước phải có những chính sách đúng có thể phát huy quyền làm chủ của mỗi người, bảo vệ định hướng XHCN mà không vi phạm những quy luật kinh tế làm kìm hãm sự phát triển kinh tế. Về lý thuyết, phân tầng xã hội sẽ dẫn đến sự xuất hiện giai cấp. Vậy ở nước ta đã xuất hiện giai cấp chưa? Thực ra ở nước ta đã có dấu hiệu về sự hình thành và xuất hiện một giai cấp tư sản dân tộc vừa và nhỏ trong quá trình phát triển của nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước. Đây là một cộng đồng xã hội tuy số lượng không nhiều, nhưng có vai trò và vị trí nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong chặng đầu của thời kỳ quá độ. Mức thu nhập và đời sống của họ cao hơn các tầng lớp dân cư khác,tuy rằng Nhà nước có điều tiết để hạn chế sự bóc lột quá đáng giá trị thặng dư. Như vậy, từ mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa sự phân tầng xã hội và mục tiêu phát triển theo định hướng XHCN đã dẫn đến một số mâu thuẫn không cơ bản có liên quan là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; giữa bóc lột và bị bóc lột; giữa bình đẳng và bất bình đẳng; giữa giai cấp tư sản dân tộc và các tầng lớp nhân dân khác. Trong đó mâu thuẫn sau cùng là mâu thuẫn chủ yếu, nó có ảnh hưởng lớn đến các mâu thuẫn kia và là nguyên nhân phát sinh chủ yếu của các mâu thuẫn đó. Vậy giải quyết vấn đề trên như thế nào? Sẽ là không thực tế nếu về cơ cấu kinh tế có thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước mà về cơ cấu xã hội lại không có thành phầng giai cấp tư sản dân tộc.Do đó sự tồn tại của giai cấp tư sản dân tộc là một vấn đề hợp với tính quy luật của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Sự tồn tại của nó không có nghĩa là nền kinh tế nước ta đã chuyển sang quỹ đạo kinh tế TBCN. Vấn đề là ở chỗ thành phần nào giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và nó phát triển theo định hướng nào? Đó chính là thành phần kinh tế Nhà nước phát triển theo định hướng XHCN với các chính sách vĩ mô hợp lý của Nhà nước ta. II.3. Lợi ích là một trong những động lực của nền kinh tế: Lợi ích cá nhân hay lợi ích xã hội? Để có được sự tăng trưởng kinh tế, bất kỳ một chính sách kinh tế nào cũng đều phải quan tâm đến lợi ích cá nhân. Bất cứ ai bỏ vốn ra kinh doanh hay học tập rèn luyện để có trình độ chuyên môn và nghề nghiệp cao mà chẳng nhằm mục đích thu lợi cho cá nhân và thỏa mãn những nhu cầu cá nhân của mình. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ chế thị trường, sự phát triển của nhu cầu và lợi ích cá nhân không thể tránh khỏi mặt trái của nó khi ở một số cá nhân nhất định, sự phát triển không theo hướng tích cực mà theo hướng tiêu cực- hướng chủ nghĩa cá nhân. Từ đó xuất hiện mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Mâu thuẫn này nếu không giải quyết tốt sẽ xảy ra bất công xã hội. Nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực của sự phát triển, ngược lại, nếu chỉ có cá nhân được lợi còn lợi ích xã hội bị vi phạm thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội. Cả hai lợi ích này lại thống nhất trong lơi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, nếu vì lý do nào đó mà chúng bị tổn hại thì quốc gia dân tộc cũng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp mà sự thể hiện rõ nhất của nó là sự khủng hoảng về lợi ích, về nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng, sẽ ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập: lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong tính thống nhất của nó là lợi ích quốc gia tất yếu sẽ dẫn đến sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Phương thức của sự chuyển hoá mà chúng ta sẽ tác động vào chính là phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, về cơ bản phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội , đồng thời phải chống lại những biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân. Trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chúng ta cần phân biệt rõ lợi ích cá nhân chinh đáng với chủ nghĩa cá nhân. Lợi ích cá nhân chính đáng là cái tích cực, là một động lực phát triển của xã hội , vì nó không những không đi ngược lại lợi ích chung mà còn là tiền đề để thực hiện lợi ích chung. Còn chủ nghĩa cá nhân là cái tiêu cực vì nó là khuynh hướng, lối sống của những người đặt lợi ích cá nhân, gia đình lên trên cả lợi ích tập thể, lợi ích xã hội . Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:” Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”[ Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 9, Nxb Sự thật, HN, 1989, tr 291]. II.4. QHSX ở Việt Nam liệu đã phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX ? “ QHSX là toàn bộ những quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội “[ Triết học Mác- Lê nin dùng cho các trường đại học và cao đẳng khối kinh tế , tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1997, tr 178]. Nó được thể hiện ở ba mặt cơ bản sau: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất . Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất . Quan hệ phân phối sản phẩm lao động . Ba mặt nói trên là một thể thống nhất hữu cơ tạo thành QHSX, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác. “ LLSX là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất “ [ Triết học Mác- Lê nin, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1997, tr 172]. Phép biên chứng giữa LLSX và QHSX vạch ra quy luật khách quan của sự phát triển xã hội . Vậy thì thế nào là phù hợp? Phù hợp tức là cả ba mặt của quá trình sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, vậy ở Việt Nam sự phù hợp đó đã đến đâu? Trong nền KTTT ở nước ta hiện nay, nhờ sự áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, chúng ta đã và đang cải tiến, sáng tạo ra nhiều công cụ sản xuất mới hiện đại. Công cụ sản xuất chính là đại biểu, cơ sở cho việc xác định trình độ của sản xuất , cùng với phương tiên lao động ngày càng được nâng cấp ở nước ta, nó kết hợp với lao động sáng tạo của công nhân Việt Nam làm cho năng suất lao động ngày càng tăng. Mà theo như Lê nin nói: xét đến cùng năng suất lao động là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của LLSX trong một xã hội , thì LLSX ở nước ta đã phát triển đến một trình độ tương đối cao, cùng với sự phâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29919.doc
Tài liệu liên quan