Đề tài Mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG VỚI DOANH NGHIỆP 3

NGOÀI QUỐC DOANH 3

1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM 3

1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại 3

1.1.2 Hoạt động tín dụng của NHTM 6

1.2 Khái quát về kinh tế tư nhân, doanh nghiệp NQD. 9

1.2.1 Khái niệm 9

1.2.2 Vai trò của KTTN và DNNQD đối với nền kinh tế đất nước 9

1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNQD 11

1.3.1 Tình hình vốn, trang thiết bị của các DNNQD 11

1.3.2 Nhu cầu và khả năng tìm kiếm nguồn vốn của các DNNQD 13

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNQD 16

TẠI VCB THÀNH CÔNG. 16

2.1 Tổng quan chung về VCB Thành Công 16

a. Nhiệm vụ của VCB Thành Công bao gồm: 16

b. Sơ lược kết quả hoạt động của VCB Thành Công 18

2.2 Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công 21

2.2.1.Xét về quy mô 21

2.2.2 Xét về chất lượng 27

2.3 Đánh giá chung hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công. 29

2.3.1. Kết quả 29

2.3.2. Những hạn chế 31

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNQD TẠI VCB THÀNH CÔNG 42

3.1 Định hướng phát triển tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công 42

3.2. Giải pháp mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công 43

3.2.2 Tăng cường công tác tuyên truyền, khuyếch trương, tiếp thị khách hàng 43

3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngoài quốc doanh 43

3.2.4. Cung cấp những sản phẩm hấp dẫn hơn cho các DNNQD. 49

3.2.5.Cải tiến quy trình và điều kiện cung cấp tín dụng theo hướng khuyến khích hơn cho các DNNQD. 52

3.2.6 Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng 53

3.3. Một số kiến nghị 55

KẾT LUẬN 57

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 58

 

doc60 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 674 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể, là những đối tượng hoạt động với quy mô tương đối nhỏ. Do đó nhu cầu tín dụng của họ cũng không lớn. - Các DN tư nhân khác thì cần vốn nhưng không đáp ứng được điều kiện về TSĐB. - Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân trong những năm gần đây hoạt động có khởi sắc song phần lớn cán bộ của VCB Thành Công chưa tin tưởng và quan tâm đến đối tượng này. Cho vay khu vực kinh tế tư nhân thường gặp rủi ro cao. Thực tế khu vực này luôn là nguyên nhân chính làm tăng nợ quá hạn tại các Ngân hàng nói chung và VCB Thành Công nói riêng trong những năm trước đây. Vì vậy Ngân hàng còn rất thận trọng khi cấp tín dụng cho khu vực này. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận là trong 3 năm qua từ năm 2002 đến năm 2004 doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công đã tăng trưởng một cách đáng kể cả về số tương đối và tuyệt đối: năm 2002 là 141 tỷ đồng, năm 2003 tăng lên 259 tỷ đồng (tăng 83,7% so với năm 2002), năm 2004 tăng 168 tỷ đồng, tương đương 65% so với năm 2003. Tốc độ tăng trưởng trên cho thấy dấu hiệu khả quan trong việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công. b. Dư nợ đối với khu vực ngoài quốc doanh Dư nợ tín dụng tại một thời điểm nào đó phản ánh cả tình hình cho vay và thu nợ cho đến tận thời điểm tính. Dư nợ tín dụng thường tính vào cuối kỳ (31/12 từng năm). Vì vậy, dư nợ tín dụng là chỉ tiêu không thể thiếu khi xem xét tình hình cho vay. Bảng 5. Tình hình thu nợ qua các năm (Đơn vị : tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % 1.Tổng doanh số thu nợ 1.355 100 1.627 100 1.824 100 - QD 1.248 92.14 1.424 87.54 1.539 84.4 - NQD 107 7.86 203 12.45 284 15.6 2. Tổng t.nợ/tổng c.vay 95.9 96 96.12 3.T.nợNQD/c.vay NQD 75,41 78,35 66.5 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2004- VCB Thành Công) Nhìn bảng ta có thể thấy tình hình thu nợ nói chung và của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng liên tục tăng qua các năm. Điều này chứng tỏ hiệu quả tín dụng NQD của Chi nhánh ngày càng tăng, làm giảm nợ quá hạn, phản ánh công tác thu nợ được chú trọng quan tâm. Hơn nữa, doanh số thu nợ tăng cũng một phần là do trong những năm gần đây, các DNNQD làm ăn ngày càng có hiệu quả, tăng khả năng hoàn trả vốn vay Ngân hàng đầy đủ, đúng hạn. Đây là kết quả của nỗ lực bản thân các chủ thể thuộc khu vực kinh tế này cộng với môi trường kinh tế chính sách ngày càng được cải thiện tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Xét về tình hình dư nợ: Bảng 2.6: Dư nợ phân theo thành phần kinh tế. Đơn vị tính : tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 số tiền tỷ trọng % số tiền tỷ trọng % số tiền tỷ trọng % Tổng dư nợ 574 100 775 100 916 100 - DNNN 489,6 85.3 635,8 82.04 714,6 78,02 - NQD 84,3 14.7 139,2 17.96 201,3 21,98 Dư nợ NQD so với năm trước : - Tăng 54,9 65,1 62,1 44,6 - Giảm (Nguồn:Báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo tín dụng của VCB Thành Công các năm 2002, 2003 và 2004 ) Theo bảng 2.6, các chỉ tiêu tổng dư nợ, dư nợ đối với khu vực kinh tế quốc doanh và dư nợ đối với DNNQD đều tăng. Tỷ trọng dư nợ đối với khu vực kinh tế Quốc doanh có xu hướng giảm trong tổng dư nợ, năm 2002 chiếm 85.3%, năm 2003 giảm xuống 82.04% và năm 2004 giảm xuống còn 78,02% trong tổng dư nợ. Ngược lại, tỷ trọng dư nợ đối với DNNQD ngày càng tăng, năm 2002 chiếm 14.7%, năm 2003 tăng lên 17.96% và năm 2004 tăng lên đến 21,98% trong tổng dư nợ, có được điều này là bởi vì trong ba năm qua doanh số cho vay đối với DNNQD ngày càng tăng cao, mặc dù doanh số thu nợ đối với DNNQD ngày càng tăng trong ba năm qua nhưng tốc độ tăng của cho vay nhanh hơn nhiều nên mức dư nợ vẫn tăng lên một cách đáng kể. Tình hình này là rất lạc quan và có triển vọng đối với DNNQD, chắc chắn rằng trong tương lai tín dụng đối với DNNQD sẽ còn tăng mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng đặc biệt là đối với khu vực nông thôn. c. Cơ cấu tín dụng ngoài quốc doanh Bảng 2.7: Cơ cấu cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phân theo kỳ hạn ( Đơn vị : tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Số tiền Số tiền 1.Doanh số cho vay 141 259 427 - Ngắn hạn 101,01 221,8 345 - Trung, dài hạn 39,98 37,1 82 2. Dư nợ 47 95 210 - Ngắn hạn 35,4 67,8 167,6 - Trung dài hạn 11,7 27,2 42,4 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo tín dụng của VCB Thành Công các năm 2002, 2003 và 2004) Như vậy trong cơ cấu kỳ hạn của doanh số cho vay, tín dụng ngắn hạn đều lớn hơn so với tín dụng trung và dài hạn (tỷ trọng tín dụng ngắn hạn năm 2002 là 71,64%, năm 2003 là 85,67%, năm 2004 là 80,7%). Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn năm 2003 có giảm xuống so với năm 2002 (14,33% năm 2003 so với 28,36% năm 2002), nhưng năm 2004 lại tăng lên 19,3%. Bên cạnh đó, cơ cấu dư nợ cũng nghiêng về tín dụng ngắn hạn. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn trong tổng dư nợ NQD qua các năm 2002, 2003, 2004 lần lượt là: 75%, 71%,và xấp xỉ 80%. Như vậy không những dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn, mà cao hơn rất nhiều và không ngừng tăng lên. Khi tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng này tại VCB Thành Công, thì có một số lý do chính như sau: - Vốn dĩ các DNNQD vốn mỏng, vốn lưu động ít và đòi hỏi phải quay vòng nhanh mới đủ vốn kinh doanh, nên phần lớn có nhu cầu vay vốn để bổ sung VLĐ, tức là xin cấp tín dụng ngắn hạn là chính. - Mặt khác hầu hết các DNNQD hoạt động kinh doanh thương mại vừa và nhỏ, mua đi bán lại nên ít có nhu cầu đầu tư TSCĐ, nhà xưởng máy móc- là những loại hình đầu tư cần vốn trung dài hạn. Số DNNQD sản xuất công nghiệp hầu như không có. Còn các hộ gia đình và tư nhân cá thể thì lại càng ít có nhu cầu tínd ụng trung dài hạn. - Nếu có DNNQD nào muốn vay vốn trung dài hạn thì lại không thể đáp ứng được điều kiện vay vốn, nhất là các điều kiện về TSĐB, thêm vào đó là hệ thống sổ sách kế toán không đúng theo pháp lệnh kế toán hiện hành, hoặc không đủ vốn đối ứng (tức là ngân hàng chỉ cho vay một tỷ lệ phần trăm nhất định, khoảng 70-80% tổng giá trị dự án, phần còn lại DN phải tự đáp ứng bằng vốn CSH, nhưng ngay cả số vốn đó DN cũng không có đủ) - Một lý do nữa là nguyên nhân chủ quan từ phía cán bộ ngân hàng, hầu hết chưa tin tưởng và còn rất e dè khi cho DNNQD vay ngay cả tín dụng ngắn hạn ít rủi ro hơn còn ngại, huống chi là tín dụng trung dài hạn. Về điểm này lại có nguyên nhân sâu xa của nợ, là ở chất lượng các khoản vay trung dài hạn, mà chúng ta sẽ xét đến ngay sau đây. 2.2.2 Xét về chất lượng Khái niệm chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều nội dung trong đó có nội đung quan trọng thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Theo thông lệ quốc tế, nếu tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ hàng năm, trong đó tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng dư nợ quá hạn thấp thì được coi là tín dụng có chất lượng tốt, trên mức này là có vấn đề. Quy mô và chất lượng là 2 mặt quan hệ rất khăng khít của vấn đề tín dụng. Nếu chỉ mở rộng quy mô mà bỏ qua vấn đề chất lượng, sẽ dẫn đến rủi ro cao và kết quả khó lường. Nếu chỉ nâng cao chất lượng mà với quy mô hẹp thì cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Do đó, đã bàn tới quy mô tín dụng thì nhất thiết phải xem xét đến chất lượng của nó. Bảng 2.8: Tình hình nợ quá hạn. ( Đơn vị : tỷ đồng) Chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 Số tiền %(NQH/dư nợ ) số tiền %(NQH/dư nợ ) số tiền %(NQH/dư nợ ) Tổng dư nợ quá hạn 24 4,18 45,5 5,8 35 3,82 NQD 2,82 6,1 11,3 8,124 11,93 5,93 - Ngắn hạn 2,08 5,88 5,42 4,8 4,38 3,673 - Trung và Dài hạn 0,75 6,32 5,88 21,6 7,55 17,8 (Nguồn: Báo cáo VCB Thành Công) Nhìn vào số liệu bảng trên, điểm đầu tiên cần phải nói là tỷ lệ nợ quấ hạn của khu vực NQD cao, luôn cao hơn mức 5% và rất không ổn định, năm 2002 là 6,1%, năm 2003 tăng vọt lên tới 8,124 % và đến 2004 lại giảm còn 5,93%. Tỷ lệ cao và bấp bênh không ổn định này chứng tỏ ngân hàng không kiểm soát được chất lượng tín dụng, điều này có thể gây rủi ro cao cho tín dụng NQD nói riêng, đồng thời ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ quá hạn nói chung của toàn chi nhánh. Chất lượng tín dụng NQD của VCB Thành Công nhìn trước là không ổn. Khi phân tích sâu về nguyên nhân thì phải xem cơ cấu nợ quá hạn ra sao. Cơ cấu nợ quá hạn trong tín dụng NQD có sự thay đổi chiều hướng qua 3 năm. Năm 2002 đa sơ nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm trong tín dụng ngắn hạn: chiếm tới 74% tổng nợ quá hạn NQD. Tỷ lệ nợ quá hạn của tíndụng ngắn hạn ngoài quốc doanh cao, tới 5,88%. Tuy nợ quá hạn NQD trung dài hạn chiểm tỷ trọng ít trong tổng dư nợ, nhưng đó là do dư nợ trung dài hạn cũng ít. Vì thế mà tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ NQD trung dài hạn cũng lên tới 6,32%, cao hơn cả ngắn hạn. Trong 2 năm tiếp theo, chấtlượng tín dụng ngắn hạn đã đwocj cải thiện rõ rệt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn giảm đều qua 2 năm (4,8% năm 2003 và 3,6% năm 2004), xuống dưới mức 5%. Tuy vậy, chất lượng tín dụng trung dài hạn ngày càng bộc lộ không tốt, ngày càng đáng lo ngại. Đa số nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nằm trong loại cho vay trung và dài hạn: năm 2003, dư nợ quá hạn trung và dài hạn là 5,88 tỷ đồng, chiếm 21,6% dư nợ trung và dài hạn, chiếm 52% dư nợ quá hạn của ngoài quốc doanh; năm 2004, các con số này lần lượt là 7,55 tỷ đồng, 17,8% và 63,2%. Tình trạng này có thể do hai lý do: Thứ nhất, công tác thẩm định chưa đảm bảo nên còn có những món vay trung dài hạn chất lượng kém, khách hàng không sử dụng vốn đúng mục dích hoặc không đủ khả năng sản xuất kinh doanh tốt để hoạt động có lãi, hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Thứ hai, do thời hạn dài, trong đó có nhiều rủi ro xảy ra như những bất lợi về điều kiện kinh tế, về thị trưòng giá cả mà cả Ngân hàng và khách hàng đều không lường trước được và cũng không thể kiểm soát được. Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn cao và tăng giảm thất thường là vấn đề nghiêm trọng trong chất lượng tín dụng NQD của VCB Thành Công, đòi hỏi ngân hàng phải sớm có biện pháp khắc phục nếu không nó có ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại vầ phát triển của ngân hàng. 2.3 Đánh giá chung hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công. 2.3.1. Kết quả Hoạt động tín dụng NQD tại VCB Thành Công những năm qua đã có nhiều chyển biếm tích cực: quy mô tín dụng ngày càng tăng thể hiện ở việc cả doanh số cho vay và dư nợ đều tăng. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng, qua 3 năm tỷ trọng đã tăng lên đáng kể, và tăng một cách ổn định.Ngày càng có nhiều khách hàng đến với VCB Thành Công để vay vốn và đã được Ngân hàng đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Với một cơ cấu kỳ hạn của doanh số mà hầu hết là tín dụng ngắn hạn (trên 90%), trong 3 năm gần đây cho thấy Chi nhánh hiện nay chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động cho các chủ thể ngoài quốc doanh. Cơ cấu tín dụng ngoài quốc doanh bước đầu cũng có những thay đổi theo chiều hướng tốt song mới chỉ là bước đầu. Trong đó tín dụng ngắn hạn có phần thay đổi tốt hơn và ngày càng ổn định, đóng góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tín dụng ngoài quốc doanh của VCB Thành Công. Nguyên nhân khách quan: Có được những kết quả trên trước hết là do điều kiện kinh tế khách quan có nhiều thuận lợi cho việc phát triển tín dụng nói chung và tín dụng ngoài quốc doanh nói riêng. Trong hai năm 2003 và 2004 nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc, chặn được đà giảm sút, đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá: tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức trên 7%. Chính phủ đã từng bước có những điều chỉnh về chính sách nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả, trong đó có các Ngân hàng thương mại và các DNNQD. Mặc dù tình hình kinh tế - xã hội vẫn không tránh khỏi bộc lộ những yếu kém làm ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế, đồng thời cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng buộc các NHTM phải tìm và mở rộng cho mình những đối tượng khách hàng mới. Các ngân hàng thương mại hiện nay đều nhận thức rằng khu vực ngoài quốc doanh là hướng ngỏ đầy tiềm năng cho việc chiếm lĩnh thị phần tín dụng. Vì vậy, VCB Thành Công cũng như một số ngân hàng khác đều tăng doanh số cho vay với DNNQD trong vài năm gần đây. Nguyên nhân chủ quan: điều kiện thuận lợi là thuận lợi nói chung, điều quan trọng là mỗi cá thể trong môi trường đó có thể tận dụng cơ hội thuận lợi đó như thế nào để phát triển bản thân và đạt được những bước tiến cho riêng mình. Trong bói cảnh nền kinh tế có nhiều thuận lợi như trên, VCB Thành Công đã kịp thời nắm lấy cơ hội, nhờ đó tín dụng với DNNQD của VCB Thành Công có nhiều khởi sắc. - Định hướng, mục tiêu rõ ràng: Trứơc tiên phải kể đến là VCB Thành Công đã xác định cho mình một hướng đi rõ ràng, xác định tư tưởng cho toàn bộ nhân viên ngân hàng trong việc chú trọng nâng cao tín dụng với DNNQD. Nhờ đó, trong quan hệ tín dụng với DNNQD, Chi nhánh luôn đáp ứng nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả, nhưng vẫn tuân theo các bước trong quy trình tín dụng. - Chính sách khách hàng đúng đắn, VCB Thành Công thực hiện nhiều chính sách ưu đãi với các DNNQD, khuyến khích họ vay vốn ngân hàng mở rộng sản xuất kinh doanh. Trước tiên, Chi nhánh có những chính sách ưu đãi với những khách hàng có uy tín và quan hệ lâu dài để giữ vững mối quan hệ, đồng thời thúc đẩy các đối tượng này sử dụng toàn bộ dịch vụ của họ tại VCB Thành Công. Mặt khác, với chủ trương chủ động tìm kiếm khách hàng, Chi nhánh tăng cường công tác Marketing đến mọi đối tượng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, Chi nhánh ngày càng có thêm nhiều khách hàng. Hơn nữa, nhờ chủ động tìm kiếm khách hàng mà Chi nhánh có cơ hội lựa chọn khách hàng kinh doanh có lãi và tiềm năng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng - Chất lượng hoạt động ngày càng cao của VCB Thành Công đã thu hút được ngày càng nhiều khách hàng trên địa bàn tìm đến sử dụng dịch vụ ngân hàng và vay vốn. - Do công tác huy động vốn của Chi nhánh luôn đạt được kết quả cao, Ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng cả về quy mô, kỳ hạn và loại tiền. Mặt khác, Chi nhánh còn áp dụng chính sách ưu đãi về lãi suất cho các khách hàng vay vốn mà có số tiết kiệm thì áp dụng mức lãi suất cho vay ngắn hạn là, 65%/ tháng, trung và dài hạn là 0,6%/tháng. Còn nếu không có sổ tiết kiệm thì lãi suất tương ứng sẽ là 0,7%/tháng và 0,65%/tháng. Nhờ vậy, khách hàng đã đến lại càng muốn quay lại, khách hàng chưa đến lại càng muốn đến thử khi nghe tiếng tốt. 2.3.2. Những hạn chế Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, song hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công vẫn còn có những hạn chế về quy mô và chất lượng tín dụng a. Về quy mô tín dụng Quy mô tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh trong nhưng năm qua có tăng với tốc độ tăng khá nhanh song quy mô còn thấp so với khu vực kinh tế quốc doanh. Mặt khác, cần phải thấy ở vị trí của Chi nhánh Thành Công, xung quanh đường Láng Hạ, Nguyễn Chí Thanh và khu vực Quận Đống Đa vốn rất tấp nập, hoạt động kinh doanh diễn ra sôi nổi và là nơi đặt trụ sở của rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi ở vị trí mà có khả năng tiếp cận với rất nhiều thành phần chủ thể thuộc khu vực này, doanh số cho vay của VCB Thành Công như vậy là vẫn ở mức thấp, chưa khai thác được các đối tượng khách hàng tiềm năng trên địa bàn của mình. Bên cạnh đó, tín dụng cho các DNNQD kinh doanh trên lĩnh vực xuất nhập khẩu còn rất ít, trong khi cho vay ngoại tệ vốn là thế mạnh của VCB Thành Công- như là một đặc trưng của các Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương. Các khoản tín dụng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu dành cho các DNXNK quốc doanh. Thực tế thì DNNQD kinh doanh XNK cũng rất nhiều, và họ còn có nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn phục vụ XNK cũng như thanh toán quốc tế. Họ thực sự cần đến sự hỗ trợ về vốn tín dụng cũng như tư vấn, thanh toán quốc tế, cần đến những kinh nghiệm của ngân hàng trong lĩnh vực này. Trong số các DNNQD, các DN có vốn đầu tư nước ngoài vốn là những đơn vị mạnh, làm ăn có hiệu quả hơn cả thì VCB Thành Công lại chưa tiếp cận được với đối tượng này. Đây là khách hàng tiềm năng có nhiều kỳ vọng mà VCB Thành Công nên sớm quan tâm đến. b.Về chất lượng tín dụng Nợ quá hạn có chiều hướng giảm chậm song vẫn còn rất cao. So với tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực kinh tế Nhà nước thì tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh luôn cao gấp nhiều lần. Trong ba năm tỷ trọng tín dụng NQD dù có tăng nhưng vẫn chỉ ở mức dưới 25% tổng dư nợ tín dụng. Trong khi đó tỷ trọng nợ quá hạn từ khu vực kinh tế NQD trong tổng nợ quá hạn thì tăng với tốc độ cao hơn nhiều, năm 2002 chiếm gần 12%, năm 2003 đã tăng lên 24,8% và 2004 là 34,1 %. Sự mâu thuẫn này chứng tỏ tăng trưởng tín dụng NQD còn có phần ồ ạt, chạy theo doanh số, chưa phải là một sự tăng trưởng bền vững. Hơn nữa trong cơ cấu nợ quá hạn của khu vực ngoài quốc doanh thì tỷ lệ nợ khó đòi rất cao và ngày càng gia tăng. Có nghĩa là chất lượng của nợ quá hạn nói riêng cũng rất thấp. Đó là chưa tính đến việc gia hạn nợ. Nếu công tác này không được thực hiện một cách nghiêm túc, gia hạn nợ không dựa trên triển vọng thực tế của dự án thì con số nợ quá hạn còn cao hơn. Và kết luận tất nhiên là chất lượng tín dụng thực tế còn thấp hơn nữa. c. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan của tình trạng trên: - Kinh tế Mặc dù phát triển kinh tế những năm gần đây khá ổn định, tốc độ tăng trưởng cao nhưng đi đôi với nó là mức độ gay gắt của cạnh tranh tăng lên. Nền kinh tế càng phát triển, toàn cầu hoá diễn ra càng sâu sắc thì cạnh tranh trong nền kinh tế càng trở nên quyết liệt. Quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế ở Việt nam kéo theo sự có mặt ngày càng gia tăng của hàng hoá và các công ty nước ngoài, đặt ra thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với xuất phát điểm không cao và không được sự trợ giúp của Nhà nước như các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân không thể đứng vững trong cạnh tranh dẫn đến thua lỗ, trong đó có những khách hàng của VCB Thành Công, làm nợ quá hạn của khu vực ngoài quốc doanh tăng cao. Mặt khác, tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh từ trước đến nay vẫn được coi là thị trường quen thuộc của các ngân hàng cổ phần. Đặc biệt, các ngân hàng nước ngoài là nhà cung cấp tín dụng ngoại tệ chính cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của VCB Thành Công trong những năm qua lại càng trở nên khó khăn. - Cơ chế tín dụng: Trước tháng 8/2000 quy định của Ngân hàng Nhà nước về các thủ tục, chế độ cho vay đối với các chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh quá cứng nhắc. Chỉ đến giữa tháng 10/2000 thì thể lệ tín dụng mới đi vào hoạt động, có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, phần nào “Cởi trói” cho cả ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quan hệ tín dụng. Song ảnh hưởng của cơ chế cũ vẫn tồn tại làm cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận tín dụng ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, trước khi có cơ chế lãi suất cơ bản và mới đây (6/2002) là cơ chế lãi suất thoả thuận thì lãi suất cho vay vốn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp tư nhân còn cao hơn doanh nghiệp nhà nước, trong một số thời điểm gấp 1,4 đến 1,5 lần lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước. Lãi suất cao cũng là một nguyên nhân gây ra sự quá hạn. Bởi chi phí vốn quá cao thì hoạt động của các doanh nghiệp khó có thể bù đắp, dẫn đến không hoàn lại được cho ngân hàng đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Mặt khác, những quy định về giới hạn tín dụng đối với các doanh nghiệp cũng làm hạn chế quy mô cho vay của khu vực ngoài quốc doanh. Theo quy định, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần khi lập dự án vay vốn ngân hàng thì phải có ít nhất 40% vốn tự có cho dự án đầu tư mới, 15% vốn tự có trong tổng chi phí của dự án mở rộng sản xuất kinh doanh. Rõ ràng không phải nhiều doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu này. - Tài sản bảo đảm: Sự phối hợp trong việc hoàn thành thủ tục để các TCTD có thể cho vay DNNQD chưa đồng bộ, đặc biệt là các thủ tục trong giao dịch cần có đảm bảo bằng tài sản. Tiến độ cấp Chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà còn chậm khiến khách hàng khó có thể sử dụng tài sản là nhà, đất làm tài sản đảm bảo hợp lệ trong quan hệ tín dụng; hoặc thủ tục, thời gian đăng ký giao dịch bảo đảm, tủ tục xác nhận tại một số cơ quan chính quyền phường, xã gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, mạng lưới đăng ký giao dịch bảo đảm còn mỏng, phân bố chưa hợp lý, quá nhiều cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm mà chưa có đầu mối thống nhất Nguyên nhân chủ quan - Nguyên nhân từ phía khách hàng Là một trong hai chủ thể trong quan hệ tín dụng, các khách hàng - chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh - là nguyên nhân tác động trực tiếp lên quy mô và chất lượng tín dụng cho khu vực tư nhân của VCB Thành Công. Những lý do chính bao gồm: + Vốn tự có quá ít, không đáp ứng đủ tỷ lệ vốn tự có trong tổng vốn đầu tư + Uy tín của khu vực tư nhân rất thấp, bằng chứng là Nhà nước bị thất thu thuế với tỷ lệ cao nhất ở khu vực này, các vụ án bị đưa ra xét xử nhiều nhất, nhiều vụ đổ vỡ, phá sản xảy ra... Không ít trường hợp xảy ra hiện tượng chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh. Đến khi mất khả năng thanh toán thì lừa đảo ngân hàng, giả mạo giấy tờ xin vay vốn và lừa đảo đối tác kinh doanh rồi bỏ trốn. Mặc dù ở VCB Thành Công chưa gặp phải nhiều trường hợp này nhưng tiếng dữ đồn xa, bài học từ các NH khác cũng làm VCB Thành Công có phần chùn bước trong việc mở rộng tín dụng với khu vực ngoài quốc doanh. + Các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa đủ độ tin cậy. Hầu hết khu vực kinh tế tư nhân chưa hạch toán kế toán theo quy định, chua thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính và cũng không coi đây là một cách để nâng cao uy tín của mình, nên việc thu thập thông tin, xem xét cho vayđối với các DN này của các TCTD còn nhiều khó khăn. Do đó, hạn chế việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. + Điểm quan trọng nhất là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp NQD còn chưa ổn định, bấp bênh nên chưa thể gây được niềm tin với ngân hàng. Hiện nay rất nhiều Dn tư nhân được thành lập như một trào lưu, thành lập một cách ồ ạt mà chất lượng hoạt động lại không đảm bảo. Không ít Công ty TNHH được thành lập bởi những thanh niên mới ra trường, thậmc hí những sinh viên còn chưa tốt nghiệp, không kinh nghiệm và năng lực còn nhiều bất cập, chỉ hoạt động một vài năm rồi phá sản. Không những trình độ năng lực hạn chế, nhiêu fDN còn không đủ kảh năng lập các dự án kinh doanh khả thi để làm thủ tục vay các TCTD. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng không ít nhân tài, có trình độ quản lý tốt và kiến thức chuyên môn vững vàng, thực sự chí thú nghiêm túc làm ăn. Nhưng họ không được sự hỗ trợ từ Nhà nước và các cơ quan chức năng về thông tin thị truờng, về nguồn vốn và nhiều chính sách hỗ trợ khác. Vốn dĩ họ là những doanh nghiệp qui mô nhỏ, nguồn vốn sản xuất kinh doanh còn chưa đủ thì không thể tự mình nghiên cứu thị trường, hay thực hiện công tác Marketing, đầu tư lắp đặt sử dụng công nghệ mớiThiếu thông tin thì không thể phânt ích nắm bắt xu hướng thị trường, sản phẩm làm ra không được thị trường chấp nhận, doanh thu không đủ bù chi phí thì việc thất bại là không tránh khỏi. Không những thế, trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay, vthiếu thông tin cộng với trình độ công nghệ kém, không thể thực hiện chính sách Marketing thì sản phẩm không thể đủ sức cạnh tranh trên thị truờng. Đặc biệt khi Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế, hàng ngoại tràn vào ngày càng nhiều do được miễn giảm thuế quan sẽ ngày càng rẻ và cạnh tranh mạnh với hàng nội địa. Tình thế đó là thách thức lớn cho các DNNQD. Bản thân các DNNQD còn chưa chủ động tìm hiểu các dịch vụ mà các TCTD cung ứng, cũng như các yêu cầu về thủ tục trong quan hệ tín dụng với các TCTD nên khi đến giao dịch, được cán bộ của các TCTD hướng dẫn thì không khỏi lúng túng, đôi khi còn cho rằng cán bộ gây khó khăn cho mình. - Nguyên nhân từ phía Ngân hàng Thứ nhất là do cơ chế cho vay còn quá chặt chẽ đối với các DNNQD. Các quy trình, thủ tục chất lượng phục vụ của cán bộ tín dụng vẫn chưa được nâng cao tương xứng với yêu cầu. Rất nhiều trường hợp các khách hàng có dự án kế hoạch sản xuất, kinh doanh khả thi nhưng không thể vay được vốn từ VCB Thành Công do thủ tục quá rườm rà, nếu có hoàn thành thủ tục thì cơ hội kinh doanh sẽ qua mất nên đành phải vay, huyđộng từ nguồn khác với chi phí cao hơn. Hoặc có những trường hợp, trình độ hoặc đạo đức của cán bộtín dụng không đáp ứng đựoc yêu cầu, gây rủi ro cho khoản tín dụng đã cấp (thẩm định, đánh giá sai về tínhkhả thi của dự án, hoặc cốtình cấu kết với khách hàng để lừa đảo) Trước khi cho vay, thường Ngân hàng thẩm tra và xuy xét rất lâu, mất thời gian và nhiều khi làm DN bỏ lỡ mất cơ hội làm ăn tốt. Sở dĩ lâu như vậy là vì ngân hàng không chịu chủ động thu thập và thống kê lưu giữ thông tin về các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH419.doc
Tài liệu liên quan