Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, vận dụng vào Việt Nam ta

Mục Lục

 Trang

Lời Mở Đầu 2

I. Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức 4

 xã hội ảnh hưởng đến đạo đức

1.1.Định nghĩa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 4

1.2 : Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 4

II.Thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi đạo đức của con 6

 người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

2.1. Đạo đức trong kinh doanh 6

2.2.Đạo đức trong nền công vụ Việt Nam 9

2.3. Trong văn hoá xã hội 10

2.4.Đạo đức trong ngành giáo dục 12

III.Một số giải pháp khắc phục 14

Kết Kuận 16

 

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 29326 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, vận dụng vào Việt Nam ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức 4 xã hội ảnh hưởng đến đạo đức 1.1.Định nghĩa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 4 1.2 : Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 4 II.Thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi đạo đức của con 6 người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 2.1. Đạo đức trong kinh doanh 6 2.2.Đạo đức trong nền công vụ Việt Nam 9 2.3. Trong văn hoá xã hội 10 2.4.Đạo đức trong ngành giáo dục 12 III.Một số giải pháp khắc phục 14 Kết Kuận 16 Lời Mở Đầu Đạo đức là một trong những hình thái của ý thức – xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực hướng dẫn con người tự giác điều chỉnh hành vi ứng xử của mình trong quan hệ giữa người với người, giữa con người với xã hội nhằm đạt tới cái xấu, cái giả. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống trên nền tảng của hoạt động sản xuất kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: “Chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phảI ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức”. Như vậy, với tư cách là một nội dung của phạm trù ý thức xã hội, đạo đức cũng là sản phẩm của những điều kiện lịch sử - xã hội, vì vậy khi xã hội thay đổi thì đạo đức cũng có sự biến đổi thông qua cuộc đấu tranh lọc bỏ và kế thừa. Mặc dù là kết quả sự phản ánh của đời sống xã hội nhưng đạo đức cũng có tính độc lập tương đối, đến lượt nó có thể tác động lại làm cho xã hội không ngừng tiến bộ hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Trong bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay, kỹ thuật công nghệ đang dần trở thành nhân tố thống trị. Thực tế cho thấy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng mang tính hai mặt. Bên cạnh việc tạo ra động lực thúc đẩy sự biến đổi căn bản to lớn về các mặt vật chất kỹ thuật, phương pháp sản xuất, tạo điều kiện cho con người trở nên tích cực năng động hơn, thì công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng tác động lên những mặt nhân cách con người, tạo cho con người tâm lý sùng bái vật chất, khao khát sự hưởng thụ. Mặt khác, trong đại công nghiệp, xu hướng toàn cầu hoá là điều tất yếu, nhưng điều đáng lo ngại là nó sẽ kéo theo sự nghèo nàn của nhân cách, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc khó giữ được sự bền vững trong quá trình hội nhập, dễ trở thành bản sao của dân tộc khác. Từ đây vấn đề được đặt ra là làm thế nào để công nghiệp hoá - hiện đại hoá không trở thành mâu thuẫn với đời sống tinh thần, đạo đức xã hội, điều đó cho thấy nâng cao phẩm chất đạo đức là một trong những vấn đề cấp bách, nhất là trong tình hình hiện nay ở nước ta. Bài viết này đề cập đến những vấn đề: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, vận dụng vào Việt Nam ta. I. Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ảnh hưởng đến đạo đức. 1.1.Định nghĩa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. -Tồn tại xã hội:là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. -ý thức xã hội:là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảmcủa những cộng đồng xã hội,nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định. 1.2 : Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 1.2.1 :Tồn tại xã hội có vai trò quyết định đối với ý thức xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội,phụ thuộc vào tồn tại xã hội.Mỗi khi tồn tại xã hội nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm chính trị,pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật. sớm muộn sẽ biến đổi theo. 1.2.2 : ý thức xã hội có tính độc lập tương đối. Và tính độc lập tương đối của nó biểu hiện ở những điểm sau -ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Điều đó là do những nguyên nhân sau: +do sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể phản ánh không kịp và trở nên lạc hậu +do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội. +ý thức xã hội luôn gắn với lơi ích của những nhóm người, những giai cấp nhất định trong xã hội.Vì vậy những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ. Chính vì vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới cần phải thường xuyên công tác giáo dục tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp. 1.2.3: ý thức xã hội có thể vượt trước tư tưởng của thời đại. Trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.Những tư tưởng khoa học tiên tiến đó không thoát ly tồn tại xã hội, mà phản ánh chính xác sâu sắc tồn tại xã hội. 1.2.4: ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình. Quan điểm của triết học Mac-Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa.Quan điểm trên của triết học Mac-Lênin vể tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. 1.2.5: Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng. Sự tác động này làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất . 1.2.6: ý thức xã hội có tác động trở lại tồn tại xã hội. Ph.Ănghen đã viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế.Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và có ảnh hưởng đến kinh tế” Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đến sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh. Kết luận: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Sự thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi hình thái ý thức xã hội, mặt khác cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn tới những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại những tác động của đời sống tinh thần xã hội với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Vì ý thức đạo đức là một trong những hình thái biểu hiện của ý thức xã hội nên khi xã hội phát triển thì ý thức đạo đức cũng có những biến đổi nhất định.Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau.Đó là những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của mọi người.Nhưng bên cạnh những giá trị đạo đức tốt đẹp được kế thừa đó thì hiện nay ngày càng có nhiều sự thoa hoá biến đổi làm xấu đi bộ mặt của xã hội. II. Thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi đạo đức của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ở nước ta, sau hơn 20 năm đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội ®· đạt được những thành tựu đáng kể, đời sống xã hội có sự thay đổi rõ nét. Bên cạnh đó thanh giá trị đạo đức cũng có sự chuyển đổi, nhưng sự chuyển đổi đó biểu hiện của sự văn minh tiến bộ, nhưng đồng thởi kèm theo đó là sự thoái hoá, đổ vỡ. Đạo đức trong xã hội ta giờ đây đã mất định hướng, nhiều giá trị đạo đức mới được chấp nhận một cách dễ dàng, vai trò cá nhân với tư cách là con người thành đạt được đề cao, đồng thời trở thành thước đo của phẩm chất nhân cách. Đồng thời những giá trị đạo đức cũ dù nay không còn phù hợp với cuộc sống mới vẫn tiếp tục được bảo lưu, ca ngợi. Tất cả tạo thành một nghịch lý, đánh mất niềm tin của con người trong xã hội chúng ta. Sự biến động những chuẩn mực của giá trị đạo đức hiện nay có tính tích cực. Từ chỗ chỉ biết đề cao những giá trị tinh thần thì nay đã coi trọng cả những lợi ích vật chất của con người. Vai trò cá nhân được coi trọng, tính tập thể được xác định đúng mức. Nhìn chung thang giá trị đạo đức Việt Nam hôm nay dù chưa được xác định một cách rõ ràng, song vẫn có thể thấy được sự biến động chung đó: - Từ chỗ coi trọng những giá trị chính trị - xã hội chuyển sang sự chú ý các giá trị lợi ích vật chất. Từ chỗ lấy con người tập thể làm mẫu mực chuyển sang đề cao con người cá nhân. - Từ chỗ lấy đạo đức làm thước đo nhân cách trong quan hệ xã hội, chuyển sang coi nhẹ đức dục, lấy đồng tiền làm vật chuẩn trong đối nhân xử thế. Trong tương lai nếu không có sự định hướng thì sự bùng nổ những xung đột nhân sinh quan xoay quanh những giá trị đạo đức như việc làm, gia đình, giới tính, giáo dục sẽ khó kiểm soát. - Từ chỗ sống vì lý tưởng chuyển sang lối sống thực dụng, chạy theo sự cám dỗ vật chất, buông thả trụy lạc. Nhiều giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục bị coi thường, xâm phạm. Một số sự biến đổi đạo đức trong các lĩnh vực hiện nay như: 2.1. Đạo đức trong kinh doanh Doanh nhân là người làm kinh doanh, là chủ thể lãnh đạo, quản lý, chịu trách nhiệm và đại diện cho doanh nghiệp trước xã hội và pháp luật. Bác Hồ đã từng nói:doanh nhân là người đại diện cho 6 giá trị của xã hội tổng thể là giá trị chính trị, giá trị kinh tế, khoa học , giá trị đạo đức, giá trị nghệ thuật, giá trị tôn giáo.Và sự cao quý của Doanh nhân cần nhìn nhận từ phương diện đạo đức thì mới thấy hết được. Ngay trong những ngày đầu dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và giữ độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy ý nghĩa đạo đức của Doanh nhân Việt Nam. Người mong giới công thương “nỗ lực” đem tài năng và của cải “vào những việc ích quốc lợi dân” - đó cũng là một nhiệm vụ cứu nước (Người kêu gọi các Doanh nhân tham gia “Công – Thương cứu quốc đoàn”). Những tấm gương Doanh nhân tiêu biểu vì nước, vì dân trở thành ân nhân của cách mạng như ông bà Trịnh Văn Bô ở Hà Nội và nhiều người khác đã chứng tỏ giá trị đạo đức Doanh nhân. Hiện nay tiêu chuẩn của một doanh nhân đích thực là cần có đủ Tâm-Tài-Trí-Đức.Doanh nghiệp cần phát triển đạo đức trong kinh doanh vì đạo đức là trách nhiệm, đạo đức là lợi nhuận. Đạo đức kinh doanh không chỉ tạo uy tín cho doanh nghiệp, tạo lòng tin với khách hàng, đối tác mà từ đó mang đến lợi nhuận một cách cụ thể. Nhưng chưa bao giờ vấn đề đạo đức trong kinh doanh lại trở lên nóng bỏng như hiện nay, liên tục hết các vụ “nước tương đen” lại đến “bồn inox”. Không ít các doanh nghiệp hiện nay chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, sản xuất ở dạng "chộp giật", làm giả nhãn mác, giảm chất lượng lừa dối người tiêu dùng. Tình trạng thực phẩm mất an toàn lưu thông phổ biến trên thị trường đã gây hoang mang lo lắng cho người tiêu dïng. Để lý giải cho tình trạng trên ta có thể đưa ra một số nguyên nhân như: - Những yếu kém trong tư chất con người Việt Nam khi bước vào thương trường từ đầu thế kỷ trước. "Người mình không có thương phẩm - Không kiên tâm - Không nghị lực - Không biết trọng nghề - Không có thương học - Kém đường giao thiệp - Không biết tiết kiệm - Khinh hàng nội hóa". Đó là những điều mà đến nay vẫn còn tồn tại như di chứng của một căn bệnh mãn tính. -Cùng với nhìn nhận thiên lệch của cộng đồng là sự phát triển manh mún, chộp giật của một bộ phận doanh nghiệp càng làm cho nhận định sai lệch đó có chỗ đứng - Sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, động cơ vụ lợi của hoạt động kinh doanh. - Con người vì mục đích lợi ích của bản thân,cá nhân mà tận dụng nhiều thủ đoạn vào trong hoạt động kinh doanh làm mất đi những giá trị đạo đức tốt đẹp của bản thân. Trong nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam muốn có chỗ đứng thực sự lâu bền, muốn nhận được sự tôn trọng và yêu mến của đối tác, khách hàng chắc chắn không thể chỉ bằng mẫu mã sản phẩm đẹp mắt, ưa nhìn hay các chương trình marketing rầm rộ mà bên trong mỗi sản phẩm phải là một tinh thần trách nhiệm vì quyền lợi của khách hàng, một tinh thần tự tôn gắn với danh dự, lòng tự trọng.Chỉ khi đó các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể tự hào với bạn bè quốc tế với thương hiệu Doanh nghiệp Việt Nam. 2.2.Đạo đức trong nền công vụ Việt Nam Hiện nay khi đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển hội nhập kinh tế thế giới, các cấp các ngành đang ra sức thực hiện tiến hành công việc quản lý, giám sát một cách tích cực, hiệu quả để đưa đất nước ta ngày càng phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hành vi lợi dụng chức, quyền dể tham ô,nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật gây thiệt hại cho nhà nước,tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tổ chức. Tham nhũng làm xói mòn đạo đức,gây những hậu quả nghiêm trọng không lường được về kinh tế xã hội và nhất là lam mất niềm tin của dân với Chính phủ,nghiêm trọng hơn nó có thể là một nguyên nhân gây mất ổn định chính trị.Vì vậy chúng ta cần phải coi trọng giải quyết vấn đề phòng chống tham nhũng. Vậy do đâu mà có hiện tượng này? -Nguyên nhân bên trong có:Sự suy thoái về đạo đức của công chức, sự sơ hở của pháp luật;việc đặt ra quá nhiều thủ tục, việc tổ chức quá nhiều tầng nấc trung gian;trong hoạt động của nền công vụ thiếu tính công khai, minh bạch;kỷ cương lỏng lẻo;việc kiểm tra giám sát bị buông lỏng. -Nguyên nhân bên ngoài có:sự phát triển theo cơ chế thị trường,động cơ vụ lợi của cá nhân,công chức cũng cố tạo ra một đặc quyền nào đó để nhận hối lộ khi cấp 1 giấy phép, tiết lộ thông tinBan hành quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm chồng chéo, rắc rối, không rõ ràng, cách giải thích pháp luật khác nhau cũng tạo kẽ hở cho tham nhũng. -Về mặt xã hội:quan hệ gia đình, thân nhân trong dòng tộc cũng là điều kiện để phát triển tham nhũng. Tham nhũng làm băng hoại đạo đức, phá hoại sự phát triển kinh tế đắt nước. Vì vậy việc chống tham nhũng trong nền công vụ ngày càng trở nên cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết. 2.3. Trong văn hoá xã hội: Ngày nay, toàn cầu hóa không còn là hiện tượng mới mẻ, nó là một xu thế khách quan mà mọi dân tộc, dù muốn hay không, cũng đều chịu sự tác động của nó. Việt Nam là nước đang phát triển, quá trình toàn cầu hóa tạo cho chúng ta những thời cơ thuận lợi, có thể "đi tắt đón đầu” để phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đó là thách thức trong việc giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc... Những thách thức đó bao gồm cả nguy cơ suy tho¸i, đặc biệt là nguy cơ suy tho¸i về đạo đức, lối sống của con người. Toàn cầu hóa đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỉ lại vốn có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu lối sống đó một cách thiếu định hướng (tiếp thu cả mặt tiêu cực của nó) mà dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Lối sống đó đang phần nào tác động đến một bộ phận nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên sống ở các khu đô thị lớn. Do bị kích động bởi việc tiếp xúc với những thước phim hành động có tính bạo lực qua mạng Internet mà nhiều thanh, thiếu niên đã có những hành động mang tính bạo lực, hung hãn, gây nên những hậu quả đau lòng. Một số nam nữ thanh niên ở các thành phố lớn muốn có tự do cá nhân cao, không muốn lập gia đình sớm hoặc chủ trương sống độc thân suốt đời, nhưng lại có quan niệm khá thoải mái trong quan hệ nam nữ. Từ đó dẫn đến những kiểu sinh ho¹t tình dục bừa bãi giữa nam và nữ, kể cả sinh họat tình đục tập thể, làm băng họai những nguyên tắc luân lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền thống phương Đông và dân tộc. Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của một bộ phận thanh niên Việt Nam, là biểu hiện của quan niệm "lệch chuẩn", đối lập với quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Hiện nay nền tảng đạo đức gia đình đang xuống cấp cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm. Ở nước ta, từ xa xưa, "tam tòng tứ đức”, “chung thuỷ”, "trinh tiết" đã từng là quy định của đạo đức gia đình đối với người phụ nữ, hiếu đễ đã từng là quy định của đạo đức gia đình về quan hệ cha mẹ - con cái, anh chị em. Cùng với sự phát triển của đất nước, tự do kết hôn, hôn nhân một vợ một chồng, tình yêu chung thuỷ đối với cả hai vợ chồng hay mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình cũng đã được coi là những quy định của đạo đức gia đình mới. Tuy nhiên, dưới tác động của kinh tế thị trường nếp sống gia đình Việt Nam truyền thống đang phải đối mặt với nguy cơ bị mai một dần. Bên cạnh những người vẫn giữ được lòng hiếu thảo với cha mẹ, vượt lên khó khăn, sống có hoài bão, đã xuất hiện lối sống thực dụng, phóng đãng, xem nhẹ hoặc không còn biết đến lòng hiếu thảo là gì. Kinh tế thị trường còn tạo ra một lối sống mới mà không ít người coi đó là “mốt" - lối sống hưởng thụ mà đi kèm với nó là tâm lý tiêu dùng. Với lối sống và tâm lý ấy, các giá trị vật chất đang ngày càng lấn át các chuẩn mực đạo đức và phẩm cách con người, nhiều phong tục, nếp sống gia đình truyền thống và đạo lý cổ truyền bị mai một, xâm hại Mét sè nguyên nhân dÉn ®Õn những hiện tượng lệch chuẩn đạo đức gia đình lµ do: -Trước hết là những vấn đề liên quan đến luật pháp Nhà nước ta đã ban hành Luật hôn nhân - gia đình mới (năm 2000) quy định mối quan hệ đạo đức gia đình. Song, trên thực tế,công việc tuyên truyền, giáo dục hôn nhân và gia đình chưa được thực hiện thường xuyên và rộng rãi, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, vùng xa...". Vì vậy có thể nói, hiện tượng "mù pháp luật" đã xảy ra. - Nguyên nhân liên quan đến vai trò của giáo dục. Việc xem thường giáo dục đạo đức gia đình, phương pháp dạy con không cụ thể, nội dung giáo dục đạo đức chung chung...đã không làm cho học sinh hiểu sâu sắc trong nhà trường, không giác ngộ được con cái (trong gia đình). Và còn có nhiều nguyên nhân khác nữa đã dẫn đến những tình trạng đó. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là cần phải xây dựng đạo đức gia đình lành mạnh, tiến bộ. Về mặt nhận thức, cần coi việc xây dựng đạo đức gia đình là công việc quan trọng, có ý thức của nhà nước, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân. Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức gia đình. Cần phải cải tiến cách giảng dạy, truyền thụ nội dung giáo dục đạo đức gia đình cho học sinh ở các cấp học trong nhà trường. Đồng thời, trong gia đình, các bậc cha mẹ cũng cần phải hiểu biết sâu sắc nội dung đạo đức gia đình để bản thân họ thực hiện và dạy con cái. Gia đình là tế bào của xã hội. Do vậy, việc xây dựng đạo đức gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng đạo đức xã hội. 2.4.Đạo đức trong ngành giáo dục. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 33 của Thủ tướng Chính phủ về “Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục”, bắt đầu từ năm học 2007-2008, ngành Giáo dục sẽ có thêm một “không” nữa, đó là: Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và chấm dứt tình trạng học sinh ngồi nhầm l lớp. Và gần đây nhất Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 về: “Quy định vể đạo đức nhà giáo” Quy định về đạo đức nhà giáo là cơ sở để các nhà giáo nỗ lực tự rèn luyện phù hợp với nghề dạy học được xã hội tôn vinh, đồng thời là một trong những cơ sở để đánh giá, xếp loại và giám sát nhà giáo nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và lương tâm nghề nghiệp trong sáng, có tính tích cực học tập, không ngừng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp sư phạm, có lối sống và cách ứng xử chuẩn mực, thực sự là tấm gương cho người học noi theo. Trong tất cả những cái “không” nêu ra để khắc phục, việc “nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo” đáng được coi trọng hơn cả. Ở nhà, trẻ chịu sự quản lý, răn dạy của các bậc phụ huynh, nếu phụ huynh nghiêm khắc, biết yêu thương và dạy dỗ con cái, trẻ sẽ ngoan. Ở lớp, giáo viên là người dạy trẻ kiến thức và cả những bài học vào đời, sự nghiêm minh của người đứng trên bục giảng sẽ có ảnh hưởng quyết định tới học sinh. Rõ ràng, nếu các giáo viên không chạy theo bệnh thành tích, dám chấp nhận sự thực về chất lượng học sinh của mình mà dạy dỗ nghiêm minh, đặt trách nhiệm trồng người lên trên, lên trước lợi ích vật chất, thì khó có chuyện học sinh ngồi “nhầm” lớp, hay kết quả học tập không phản ánh đúng thực chất. Trong ngành giáo dục có rất nhiều tấm gương sáng về đạo đức nhà giáo, những người dành trọn tâm huyết, công sức, trí tuệ cho sự nghiệp trồng người. Họ đã giành được sự kính trọng của toàn xã hội và tác động không nhỏ đến sự hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm công dân của lớp lớp các thế hệ học trò. Những tấm gương các nhà giáo “hết lòng vì học sinh thân yêu”, giữ trọn và phát huy phẩm chất người thầy phải được tuyên truyền rộng rãi để tôn vinh và tạo hình ảnh đẹp về nhà giáo Việt Nam trong thời kỳ mới. III.Một số giải pháp khắc phục. Với tình hình hiện nay, để nâng cao tinh thần đạo đức mới, thiết nghĩ cần có những giải pháp sau đây: - Tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đây là yếu tố khách quan để bảo đảm cho đạo đức mới - đạo đức xã hội chủ nghĩa – hình thành và phát triển. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội. Có giải quyết tốt những vấn đề xã hội trong lĩnh vực kinh tế - xã hội thì mới có khả năng để khẳng định sự bền vững và phát triển cho những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và đạo đức mới xã hội chủ nghĩa. - Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, thể hiện tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan chấp pháp. Giáo dục mọi công dân có ý thức luật pháp, thực hiện nguyên tắc dân chủ để các đoàn thể quần chúng, các cấp, các ngành và nhân dân biết tham gia việc kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật của Nhà nước. Làm tốt công tác này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc khơi dậy phong trào quần chúng rộng rãi tích cực tham gia đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu trong đời sống xã hội, tạo hàng lang an toàn cho cái thiện, cái tốt phát triển. - Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho mọi tầng lớp, đặc biệt là giới trẻ. Bởi vì “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong lòng mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Để làm tốt công tác này, việc giáo dục đạo đức phải được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú, phù hợp với tâm sinh lý của từng lứa tuổi, cần chú trọng đến tính định hướng, xác định đúng các giá trị đạo đức, nhất là đạo đức xã hội chủ nghĩa, làm cho nó trở thành những nguyên tắc đạo đức của mọi người trong xã hội. Nội dung giáo dục phải cụ thể, thiết thực, tránh khuôn sáo, máy móc, làm cho mọi người có tinh thần tự giác đạo đức trong quan hệ ứng xử. - Đổi mới phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải gắn liền với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong lối sông, trong quan hệ cư xử. Chú ý đến hiệu quả kinh tế không có nghĩa là đánh mất truyền thống tốt đẹp của dân tộc; để phát triển đạo đức mới, cần phải rà soát, đánh giá lại các giá trị đạo đức cũ trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc kết hợp với những giá trị đạo đức mang tính phổ quát toàn nhân loại. - Coi trọng sự đóng góp tài năng của cá nhân, có chế độ đãi ngộ tương xứng không chỉ bằng giá trị tinh thần, mà cả lợi ích vật chất, tạo nguồn lực kích thích làm cho cá nhân phát triển toàn diện và hài hoà. Kết Luận Tóm lại, có thể nói đạo đức truyền thống là một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo ra môi trường bền vững cho sự phát triển kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hiệu quả của sự phát triển đời sống của xã hội như thế nào là phụ thuộc rất nhiều vào môi trường đạo đức xã hội ấy. Công nghệ dù có hiện đại đến đâu thì cũng chỉ mới là “điều kiện cần”, văn hoá đạo đức mới là “điều kiện đủ” để thúc đẩy xã hội phát triển. Chính vì vậy, mọi đường lối chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước xoay quanh vấn đề công nghiệp hoá - hiện đại hoá không thể không tính đến những tác động mạnh mẽ của yếu tốc văn hoá đạo đức xã hội ở nước ta, nhằm đạt đến kết quả tối ưu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Giáo trình triết học Mac-Lênin, 2007. Bộ giáo dục và đào tạo 2.Hồ Chí Minh: toàn tập, T. 6 NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 171. 3.Hồ Chí Minh: toàn tập, T. 12 NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tr. 558. -Địa chỉ website: 1.vietbao.vn 2.ussh.edu.vn 3.laodong.com.vn 4.moet.gov.vn 5.chungta.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8971.doc
Tài liệu liên quan