Đề tài Mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Phần nội dung chính 3

1. Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn 3

1.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận là vai trò mang tính quyết định. 3

1.2. Khi lý luận quay trở lại thực tiễn nó sẽ chỉ đạo thực tiễn 5

1.3. Sự cần thiết phải đặt lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ thống nhất biện chứng 7

2. Mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta 9

2.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta đã đưa đến sự phát triển, đổi mới về tư duy 9

2.1.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta những năm đầu khi chưa có đổi mới tư duy 9

2.1.2. Những điều kiện kinh tế đã làm nền tảng cho việc phát triển tư duy 11

2.2. Đổi mới tư duy đã trở thành động lực của đổi mới kinh tế 14

2.2.1. Đường lối đổi mới của Đảng được hình thành thông qua hàng loạt chuyển biến của tư duy 14

2.2.2. Thành quả của việc áp dụng đổi mới tư duy trong đổi mới kinh tế 18

2.2.3. Những đổi mới có tính đột phá 19

2.3. Những điều cần quan tâm trong đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy ở nước ta 20

2.4. Kiến nghị và giải pháp 22

Phần kết 24

Tài liệu tham khảo 26

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1961 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốc gia, dân tộc nào cũng cần có cương lĩnh chính sách, 1 nền tảng tư duy lý luận thống nhất. Điều đó cũng góp phần ổn định nền chính trị và hoà bình của đất nước, bởi vì 1 khi tư tưởng có kiên cường, vững chãi thì mới mong bảo vệ được đất nước và thành quả của mình. Chính vì vai trò quan trong của lý luận là không thể thiếu đối với mỗi 1 cá nhân cho nên mỗi người cần phải tự trang bị cơ sở lý luận về cuộc sống, về phẩm chất, quan niêm đạo đức cho riêng mình. một danh nhân đã nói: "Sống mà không suy nghĩ thì là tồn tại chứ không phải sống". Như vậy khả năng chỉ đạo thực tiễn của lý luận đã rõ ràng. Chúng ta cần phải hiểu rõ lý luận của mình mà từ đó dùng nó như 1 "kim chỉ nam" cho hành động. Có thế mới đảm bảo hiệu quả và tính đúng đắn về mục đích của công việc. 1.3. Sự cần thiết phải đặt lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ thống nhất biện chứng Rõ ràng là vai trò của lý luận cũng quan trọng không kém vai trò của thực tiễn. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải nhìn nhận mối quan hệ này như thế nào. Chủ nghĩa Mác-Lê nin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện chứng-đó là nguyên tắc cơ bản trong chủ nghĩa Mác-Lê nin. Hoạt động của con người được chia làm hai loại: một là hoạt động thực tiễn tức là hoạt động vật chất và một là hoạt động nhận thức lý luận là hoạt động tinh thần. Hai hoạt động này không thể tách rời vì chúng song song diễn ra, bổ sung cho nhau. Thực tiễn tuy có vai trò quyết định đối với lý luận nhưng nếu không có lý luận dẫn dắt sẽ trở thành thực tiễn mù quáng. Bởi vậy, mặc dù chúng ta cần coi trọng những kinh nghiệm do thực tiễn của bản thân đưa lại song nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm của bản thân, tuyệt đối hóa nó, coi thường lý luận thì sẽ mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ". Hơn nữa, chúng ta đều biết rằng mặc dầu những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể, nhưng để giải quyết những vấn đề hết sức cụ thể ấy một cách có hiệu quả thì không một ai có thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, là cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề cụ thể đó. V.I.Lênin đã từng nhận xét: "Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đề chung thì kẻ đó, trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi vấp phải những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc". (V.I.Lênin toàn tập) Chính vì vậy mà chúng ta lại càng phải coi trọng vai trò chỉ đạo của lý luận đối với thực tiễn. Mặt khác, cũng phải thấy rằng do tính gián tiếp, trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận đã có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng giáo điều. Vì vậy phải coi trọng lý luận nhưng không được cường điệu vai trò của lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn bởi vì lý luận mà xa rời thực tiễn sẽ trở thành lý luận suông, dẫn đến những suy nghĩ lầm lạc. Điều đó cũng có ý nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Thực tiễn không có lý luận dẫn đường thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông." Như vậy thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải chống chủ nghĩa giáo điều. Không được tuyệt đối hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận không được chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng không xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đồng thời cũng phải không ngừng trau dồi tư duy lý luận để tránh khỏi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Bệnh kinh nghiệm và giáo điều đều là sai lầm không đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tóm lại, chỉ có sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận mới mang lại hiệu quả cao cho công việc. Bất kì một sự lệch lạc nào cũng sẽ dẫn đến những sai lầm to lớn khó mà sửa chữa. Cũng vì lý do này mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lưỡng mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế để mà phát triển cả hai lĩnh vực này. 2. Mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta 2.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta đã đưa đến sự phát triển, đổi mới về tư duy 2.1.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta những năm đầu khi chưa có đổi mới tư duy Sau khi ra khỏi chiến tranh, cùng với quá trình thống nhất đất nước về thể chế chính trị, việc nhất thể hoá nền kinh tế cũng đã được triển khai một cách tích cực. Mô hình kinh tế đã từng bước được hình thành từ những năm 50 ở miền Bắc theo kiểu mẫu nền kinh tế kế hoạch tập trung, mặc dù trải qua mấy chục năm chiến tranh đã bị biến dạng nhiều nhưng vẫn mang một số đặc trưng lớn của nó. Thứ nhất là, nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động kinh tế quan trọng trong cả nước thông qua hệ thống các kế hoạch sản xuất và phân phối hàng hoá, thông qua hệ thống giá cả, tỉ giá, lãi suất được quy định nghiêm ngặt. Với mong muốn sớm làm cho sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể chiếm vị trí chủ đạo trên phạm vi toàn nền kinh tế; nhà nước trực tiếp đầu tư qua tín dụng để trợ giúp cho các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để ngày càng chiếm tỉ trọng lớn. Kinh tế tư nhân quy mô lớn không được khuyến khích phát triển và là đối tượng của sự cải tạo để dần dần trở thành kinh tế nhà nước hay kinh tế tập thể. Trong khi đó, cơ chế thị trường chỉ hoạt động trong phạm vi kinh doanh nhỏ và kinh tế gia đình, tức là ở một phần nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và bán lẻ hàng tiêu dùng, dịch vụ. Phần lớn tư liệu sản xuất được coi không phải là hàng hoá, không được phép mua bán tự do trên thị trường mà được phân phối theo hệ thống kế hoạch hoá của nhà nước. Nhà nước còn độc quyền trong hoạt động ngoại thương. Do hoàn cảnh lịch sử, hầu hết các quan hệ mậu dịch quốc tế của Việt Nam là với Liên Xô và Đông Âu. Các công ty ngoại thương của Nhà nước thực hiện những hiệp định buôn bán đó. Lãi hay lỗ của hoạt động ngoại thương đều được đưa vào ngân sách Nhà nước. Còn tư nhân không hề được tham gia vào hoạt động này. Ngoài ra, ngân sách Nhà nước còn bù đắp các khoản lỗ của doanh nghiệp quốc doanh và thu phần lớn lợi nhuận chung. Như vậy là tài chính quốc gia và tài chính của các doanh nghiệp quốc doanh không tách biệt nhau. Nhà nước còn trợ cấp cho toàn bộ hoạt động sản xuất thông qua việc bán với giá thấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị được nhập khẩu bằng tiền vay nợ của Nhà nước hoặc viện trợ cho Chính phủ. Vì thế thiếu hụt ngân sách và nợ nước ngoài tăng lên cùng với sự tăng trưởng của sản xuất. Chính sách kinh tế như vậy có ưu điểm là giúp cho Nhà nước thực hiện một cách trực tiếp đường lối kinh tế nhằm vào việc tập trung tích luỹ cũa xã hội trong tay Nhà nước, phục vụ công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc trước những đe doạ to lớn từ bên ngoài và nhanh chóng công nghiệp hoá; nhưng chính sách kinh tế đó lại không tạo ra động lực cho các doanh nghiệp và cho cá nhân người lao động. Sự phụ thuộc hoàn toàn vào Nhà nước của các doanh nghiệp đã làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên thụ động và kém phát triển, gần như là kìm hãm sự đi lên của từng doanh nghiệp. Hơn nữa tính sáng tạo và năng động kinh doanh của họ đã không có chỗ đứng trong thể chế kinh tế như vậy. Cơ chế phân phối mang tính chất bình quân, không đủ sức kích thích người có tài năng và lao động tốt. Mà một khi đã không kích thích, thúc đẩy được các cá nhân phát huy tài năng của mình, đưa doanh nghiệp mình đi lên thì nền kinh tế cũng không thể nào phát triển thực sự được. Tất cả những vấn đề trên đều là do chúng ta chưa biết gắn kết thực tiễn với lý luận. Ví dụ như kế hoạch 5 năm 1976-1980 là kế hoạch phát triển trung hạn đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Và với sự lạc quan quá cao trong đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế khi chuyển từ thời kì chiến tranh sang thời kì hoà bình, chúng ta đã đề ra các mục tiêu, kế hoạch mà trên thực tế không thể thực hiện được. Đến năm 1980, so với kế hoạch đề ra thì các chỉ tiêu thực tế đạt được là: sản lượng lương thực 69%, than 52%, điện 72%, đánh cá biển 40%, vải 39%, giấy 37% v.v... Những mất cân đối của nền kinh tế sau chiến tranh chưa kịp khắc phục thì lại cộng thêm những mất cân đối do sự đầu tư vốn đồng thời cho một lượng tương đối lớn những công trình có quy mô lớn, lâu hoàn vốn. Cuộc tranh luận về phương hướng đổi mới kinh tế gắn liền với xem xét lại các luận thuyết cơ bản trong kinh tế mới chỉ được bắt đầu và chưa đi đến câu trả lời rõ ràng. Tuy nhiên, mâu thuẫn ngày càng tăng giữa một bên là đòi hỏi nâng cao mức sống của người dân và đòi hỏi mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và các cá nhân, với bên kia là các chính sách và thể chế kinh tế vĩ mô chưa phù hợp đã dẫn tới những biện pháp cải cách đồng bộ hơn. 2.1.2. Những điều kiện kinh tế đã làm nền tảng cho việc phát triển tư duy Đầu tiên là việc cắt giảm nguồn viện trợ bên ngoài - vốn là nguồn thu đáng kể của ngân sách Nhà nước - vào những năm 1979-1980 đã làm bộc lộ rõ những điểm yếu và tính lỗi thời của các thể chế kinh tế kiểu thời chiến, điều hành tập trung vào bao cấp đó, thúc đẩy tìm kiếm các giải pháp mới. Trong bối cảnh nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, những ý tưởng cải cách trên một số lĩnh vực kinh tế quan trọng đã xuất hiện. Đầu tiên, đó là những cố gắng của "phía dưới", tức là của các đơn vị cơ sở và các gia đình, tìm cách "phá rào", luồn lách qua những khe hở của thể chế hiện hành để hoạt động có hiệu quả hơn. Đây quả là một điểm khá đặc biệt nhưng cũng dễ hiểu vì khi bị những chính sách lớn gò bó và hạn chế thì sớm hay muộn sức sáng tạo cũng sẽ tự nó thoát ra ngoài. Sau đó, "phía trên" - tức là bộ máy quản lý các cấp của Nhà nước, thấy được sự cần thiết và tính hợp lý của việc điều chỉnh các chính sách và thể chế. Kết quả của quá trình đó là một số hình thức mới vận hành nền kinh tế đã được thử nghiệm, đi vào thực tế cuộc sống và được chấp nhận ở quy mô rộng. Những biện pháp tự do hoá hoạt động kinh tế được áp dụng từng bước và sự can thiệp trực tiếp của bộ máy hành chính vào lĩnh vực kinh tế cũng giảm đi một cách tương ứng. Những kết luận của hội nghị lần VI ( khoá 4 ) Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 9-1979 cho rằng phải coi trọng hiệu quả kinh doanh, nới lỏng sự quản lý hành chính đối với các hoạt động kinh tế nằm ngoài kế hoạch và ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, chuyển trọng điểm đầu tư từ lĩnh vực công nghiệp nặng, quy mô lớn sang sản xuất hàng tiêu dùng quy mô vừa và nhỏ, chú ý đúng mức tới lợi ích của các tập thể và cá nhân người lao động. Theo hướng đó đã có một loạt thay đổi diễn ra trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể. Những điều này đã cho thấy rõ vai trò của thực tiễn đối với lý luận tư duy. Nước ta xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhưng lại xuất phát từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản nên đòi hỏi Đảng ta luôn luôn phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự cường và sáng tạo. Chủ nghĩa xã hội như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo, nó là một phong trào hiện thực; chứ không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống, nó là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Do vậy, thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế ở các nước càng được mở rộng thì lý luận về nó càng trở nên phong phú hơn, giúp ta càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn. Hơn nữa, sự hình thành và phát triển của xã hội đều là một quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo những quy luật khách quan. Không phải ngẫu nhiên mà các Đảng Cộng Sản sau một thời gian lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước đều rút ra bài học giống nhau là không thể đốt cháy giai đoạn bằng nguyện vọng chủ quan, không thể giải quyết các nhiệm vụ bằng phương pháp duy ý chí, mà phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, phải xuất phát từ thực tế khách quan. Đại hội VI của Đảng ta đã rút ra những bài học quan trọng là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Như vậy là tư duy mới đã ra đời có nguồn gốc sâu xa từ thực tiễn. Chính thực tiễn với những khó khăn gay gắt của đất nước buộc Đảng phải suy nghĩ, phân tích tình hình nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp. Chính thực tiễn đổi mới bộ phận ở các cơ sở, địa phương đã cung cấp những tư liệu cho hoạt động tư duy của Đảng trong việc đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần. Ví dụ, ngay từ cuối những năm 60, ở nông thôn đã xuất hiện hình thức khoán đến hộ gia đình bắt đầu từ Đồ Sơn (Hải Phòng) và Vĩnh Lạc (Vĩnh Phú). Hình thức khoán hộ đã làm cho nông dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất. Việc "khoán chui" đó đã được Đảng xem xét để ra chỉ thị 100-CT/TƯ (1981) của Ban Bí thư Trung ương, tạo ra một động lực sản xuất mới trong sản xuất Nhà nước. Những hiện tượng "phá rào" để gỡ khó khăn cục bộ trong xí nghiệp cũng đã đi tới Quyết định 25-CP. Như vậy, chính sự thúc bách của cuộc sống đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới tư duy của Đảng mà bước ngoặt của nó là Đại hội VI. Sự năng động của quần chúng và sự nhạy cảm của lãnh đạo là nguyên nhân quan trọng dẫn đến quá trình đổi mới. Như đã nói ở trên, so với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù riêng: đổi mới ở Việt Nam diễn ra từ cả hai chiều: từ dưới lên - tức là từ các doanh nghiệp và trong nội bộ dân cư, và từ trên xuống - tức là từ các quyết định của hệ thống lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Mối quan hệ hai chiều tương đối nhanh nhạy giữa Đảng và nhân dân trong việc nảy sinh, nhận biết và đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của các chính sách kinh tế, xã hội đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra không có sự xung đột giữa "phía trên" và "phía dưới", cũng như không có các "cú sốc" quá mạnh được tạo ra bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô quá cứng rắn và duy ý chí của bộ máy lãnh đạo "phía trên". Và ở nước ta nhu cầu đổi mới các chính sách kinh tế đã xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, từ thực tiễn, chứ không phải là hệ quả của những biến động chính trị. Sự chuyển từ thời kì chiến tranh sang hoà bình đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ các cản trở về quản lý kinh tế và sau đó dẫn đến những thay đổi trong quan niệm về sự vận hành của nền kinh tế. Nói một cách khác là thực tiễn đã làm "tan băng" các quan niệm xơ cứng và thúc ép hình thành hệ thống lý luận và quan niệm mới phù hợp hơn. Tóm lại, một đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam là vừa có sự sáng tạo của quần chúng từ bên dưới lên, vừa có sự chỉ đạo từ bên trên xuống. Do đó, đổi mới đã dẫn đến những thành công. Có thể khái quát những nội dung của đổi mới kinh tế là: Chuyển từ nền kinh tế tập trung sang chế độ sở hữu toàn dân; Thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và Mở cửa, tăng cường hợp tác với bên ngoài. Qua thực tế hơn 15 năm đổi mới, Đảng đã rút ra những kết luận quan trọng điều chỉnh bổ sung cho nhiều chủ trương chính sách, từng bước phát triển đường lối đổi mới. Đây chính là khả năng của thực tiễn giúp cho lý luận thêm phong phú hay nói cách khác đổi mới kinh tế đã đưa đến đổi mới tư duy. Vậy thì liệu đổi mới tư duy sẽ tác động lại tới đổi mới kinh tế như thế nào? 2.2. Đổi mới tư duy đã trở thành động lực của đổi mới kinh tế 2.2.1. Đường lối đổi mới của Đảng được hình thành thông qua hàng loạt chuyển biến của tư duy Đổi mới tư duy là yêu cầu đầu tiên mà Đảng ta đã đặt ra khi bước vào thời kì đổi mới. Đây là điều quyết định để Đảng xác định và từng bước phát triển đường lối đổi mới; và đặc biệt quan trọng là để đưa đường lối ấy đi vào cuộc sống, nhằm giành những thành tựu ngày càng lớn hơn cho sự xây dựng và phát triển đất nước. Trước đây, trong một thời gian dài ở nước ta đã xảy ra tình trạng quan hệ sản xuất đi quá xa so với lực lượng sản xuất do đó nó đã là xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã để ra đường lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị, văn hoá xã hội; từ đổi mới tư duy, nhận thức tư tưởng đến đổi mới hoạt động thực tiễn. Phải đặt đổi mới tư duy lên hàng đầu vì có đổi mới tư duy mới đổi mới được các lĩnh vực khác. Đổi mới tư duy không phải chỉ đơn giản là đưa ra những nhận thức, những tư tưởng và phương pháp tư duy khác với trước. Cái mới phải vừa bao hàm những gì đúng đắn đã có trước kia, lại vừa loại bỏ những gì sai trái, lệch lạc, lỗi thời của cái cũ, đồng thời bổ sung những gì mới mẻ, phản ánh đúng thực tiễn, hướng đất nước đi lên, phù hợp với những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, của sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam. Điều này thể hiện sự phủ định biện chứng mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu ra. Từ cái cũ đi đến cái mới, chính là sự tiếp biến, là sự vượt gộp, từ đó tạo ra sự phát triển theo hướng xoáy trôn ốc của tư duy. Quá trình đổi mới ở Việt Nam không phân chia thành các giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị lý luận về đổi mới và giai đoạn áp dụng lý luận vào thực tế, mà là quá trình vừa khái quát lý luận từ thực tiễn đổi mới, vừa áp dụng ngay những lý luận đã có vào cuộc sống. Thông qua đó mà một loạt những chuyển biến được hình thành đã tạo động lực cho đổi mới kinh tế. Chuyển biến thứ nhất là từ tư duy dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu nhà nước và tập thể, với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất sang tư duy mới xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu, nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây là chuyển biến căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất tương ứng, nhờ đó, mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản xuất, trong đó có nhân tố quan trọng bậc nhất là con người với tất cả sự năng động, sáng tạo của họ. Bước chuyển này có ý nghĩa cách mạng. Nó đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của cái tất yếu kinh tế trong sự phát triển của nước ta. Chuyển biến thứ hai là từ tư duy quản lý kinh tế dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết của kế hoạch ở tầm vĩ mô, thông qua quản lý, kiểm soát bằng pháp luật của Nhà nước. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dẫn tới sự tác động, thâm nhập lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế, tạo thành sự đan xen các hình thức sở hữu, các phương thức tổ chức quản lý, các phương thức phân phối lợi ích phù hợp với yêu cầu của quan hệ sản xuất mới, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Con người với tư cách vừa là chủ thể sản xuất - kinh doanh, vừa là chủ thể tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá đã được đặt vào những cơ hội như nhau để phát triển, để bộc lộ tài năng, năng lực, tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh tế. Cơ chế thị trường đòi hỏi sự thừa nhận cạnh tranh, ganh đua, dẫn tới sự chênh lệch thu nhập, sự phân hoá giàu - nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị trường không đẩy tới sự phân hoá giàu - nghèo vượt quá giới hạn cho phép, vi phạm mục tiêu công bằng xã hội là mục tiêu mà chúng ta đang phấn đấu trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một nét mới tiêu biểu cho tư duy kinh tế trong sự nghiệp đổi mới. Chuyển biến thứ ba là đổi mới hệ thống chính trị theo hướng xoá bỏ phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh, dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, pháp chế, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Chuyển biến này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ từng bước những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá - xã hội, sản sinh ra những nhân tố mới, động lực mới của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Thực tiễn đã xác nhận tầm quan trọng của những nguyên tắc, biện pháp và bước đi mà Đảng đã hoạch định trong đường lối đổi mới nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Chuyển biến thứ tư là Đảng đã quan niệm sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một nước phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và điều quan trọng nữa laftwf chính những đặc điểm, điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước đó. Đây là cơ sở khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng thời làm sáng tỏ một lần nữa quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối, chính sách. Phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo để tìm cách giải quyết phù hợp và có hiêu quả nhất những vấn đề do thực tiễn của nước mình đang đặt ra. Sẽ không có một mô hình duy nhất để giải quyết các vấn đề ở mọi nước; cũng không có một hình mẫu duy nhất được áp dụng cho tất cả mọi quốc gia mặc dù những nguyên tắc, nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội - chỗ dựa của các Đảng Cộng sản - đều như nhau. Tất nhiên không phải vì thế mà chúng ta tách khỏi sự giao lưu, hợp tác quốc tế. Vấn đề đặt ra là phải kết hợp dân tộc với quốc tế, truyền thống với hiện đại. Đó cũng là cơ sở của đường lối đối ngoại. Nó mở ra khả năng để Việt Nam tham gia vào thị trường kinh tế thế giới, vào đời sống chính trị quốc tế, vào sự giao lưu, hợp tác văn hoá. Tuy nhiên, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải khắc phục những ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, máy móc, tiếp nhận và sao chép mô hình nước ngoài, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược, phù hợp với hoàn cảnh, thời cuộc hiện nay. Thực tiễn gần 15 năm đổi mới ở Việt Nam cho thấy, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, văn hoá và tổ chức quản lý xã hội thông qua hàng loạt những biện pháp thực tiễn sáng tạo vừa phù hợp với đặc điểm của nước mình, vừa thích ứng với xu thế của thời đại là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh, tích cực của sự nghiệp đổi mới. Chuyển biến thứ năm trong sự hình thành quan niệm mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội là những nhận thức mới về nhân tố con người - nhân tố quyết định thành công của chủ nghĩa xã hội. Khắc phục những hạn chế và khiếm khuyết của nhận thức về chủ nghĩa xã hội có liên quan đến vấn đề con người, chúng ta đã làm sáng tỏ hơn tư tưởng nhân đạo, khoa học và cách mạng của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin và Hồ Chí Minh. Trong khi phê phán và cương quyết loại bỏ chủ nghĩa cá nhân, chúng ta thừa nhân và bảo vệ những lơi ích chính đáng của cá nhân, coi lợi ích cá nhân của những người lao động là một trong những động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tất cả những điều trên đã góp phần đưa đất nước ra khỏ khủng hoảng kinh tế - xã hội, mang lại diện mạo mới cho nền kinh tế nước nhà. Thành quả của nó đối với nền kinh tế quả là rất to lớn. 2.2.2. Thành quả của việc áp dụng đổi mới tư duy trong đổi mới kinh tế Đầu tiên là việc mở cửa nền kinh tế và đổi mới chính sách cơ cấu, đem lại những thành công rực rỡ cho công cuộc đổi mới. Cho đến nay, nền kinh tế nhiều thành phần đã cơ bản hình thành, tạo nên sự sống động mới trong sản xuất, kinh doanh. Nhìn khái quát quan hệ sản xuất nhiều mặt đã phù hợp hơn với lực lượng sản xuất, tác dụng téch cực giải phóng đáng kể lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, từng bước khắc phục đói nghèo, cải thiện đời sống của nhân dân. Thứ hai là cơ chế chính sách không ngừng đổi mới. Doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức, sắp xếp lại một bước quan trọng, bước đầu chuyển sang đa sở hữu, giảm nhiều tính bao cấp, tăng cường đáng kể quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; quản lý nội bộ có những chuyển biến tích cực, đã khắc phục một phần hiện tượng trì trệ, phát huy được tác dụng chủ đạo nhất định trong nền kinh tế. Chúng ta đã thực hiện việc chuyển hướng chiến lược phát triển từ chỗ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang tập trung các nguồn lực để thúc đẩy nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã làm cho nhịp độ tăng trưởng và cơ cấu của nền kinh tế có những thay đổi đáng kể. Sản lượng lương thực từ 18,4 triệu tấn năm 1986 đã lên tới 21,5 triệu tấn năm 1993, làm cho Việt Nam chuyển từ một nước nhập khẩu lương thực sang thành nước xuất khẩu hàng năm 1,5 đến 2 triệu tấn gạo. Còn sản xuất công nghiệp tuy bị đình trệ những năm 1989-1990 nhưng đã bắt đầu có bước tiến bộ trong cải thiện mặt hàng và chất lượng, đặc biệt đối với hàng tiêu dùng. Năm 1991,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35405.doc
Tài liệu liên quan