Đề tài Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững

B. LỜI MỞ ĐẦU . 1

B. NỘI DUNG 2

Chương I :Những lí luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững 2

I. Các khái niệm .2

1.Tăng trưởng kinh tế 2

2.Phát triển bền vững 3

II. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững .5

1. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần .5

2. Hậu quả của tăng trưởng đối với phát triển bền vững 6

Chương II:Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở Việt Nam .9

I. Quan điểm chỉ đạo .9

II. Thành tựu và hạn chế tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam .11

1.Kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới phát triển bền vững .11

1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định 11

1.2. Tăng trưởng kinh tế đã dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH 12

1.3 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư .14

1.4 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội 16

2. Hạn chế . 17

2.1 Tăng trưởng kinh tế vẫn chưa vững chắc 17

2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều và chưa phát huy thế mạnh trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm .18

2.3. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm ô nhiễm môi trường 18

Chương III: Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hướng đến phát triển bền vững .19

1.Ngành công nghiệp 19

2.Ngành nông nghiệp 21

3. Ngành thương mại và dịch vụ .23

4. Tăng cường bảo vệ tài nguyên môi trường, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường .24

C. KẾT LUẬN .26

 

doc28 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8644 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì càng tác động tiêu cực đến người nghèo và quá trình đó sẽ làm phân hóa giàu nghèo càng mạnh hơn. Tăng trưởng kinh tế làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái bị huỷ hoại. Cách thức phát triển của loài người trong mấy chục năm qua đã tạp ra áp lực làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi trường- cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. Trong khi loài người chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không lường trước được : thiên tai, lũ lụt, hạn hán… Theo công bố của bản Báo cáo phát triển bền vững do Chương trình bảo vệ môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) đưa ra cuối năm 2004 : 1/5 dân số thế giới có mức thu nhập chưa đến 1 đô la/ngày; 80 triệu người ở các nước đang phát triển bị suy dinh dưỡng; hàng năm có tới 10 triệu người chết vì các bệnh có thể phòng tránh được và hơn 150 triệu trẻ em không được đến trường do nghèo đói; 1/5 dân số thế giới không được sư dụng nước sạch v.v... Gia tăng dân số đã tạo ra áp lực to lớn đối với thiên nhiên. Sự thay đổi khí hậu toàn cầu; tình trạng ô nhiễm các nguồn nước; hiện tương sa mạc hoá; sự xói mòn đất đai; sự suy thoái về rừng; sự tuyệt chủng của các loài sinh vật... đã va đang trở thành mối đe doạ trực tiếp đến sự sống trên trái đất. Gần 1/2 đất đai trên thế giới đã bị biến đổi bởi con người. Người ta gọi sự xói mòn đất đai nhanh chóng là "cuộc khủng hoảng thầm lặng của hành tinh", là mối đe doạ to lớn đối với sự sống trên trái đất. Tại Việt Nam, môi trường tiếp tục bị ô nhiễm và xuống cấp, có nơi rất nghiêm trọng. Đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh; không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch; đa dạng sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không được bảo đảm.... Nhiều vấn đề ô nhiễm mới nảy sinh do quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Sự tập trung và gia tăng số lượng dân cư lớn ở đô thị, tiến trình phát triển kinh tế dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên... khiến cho ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trở thành vấn đề khá nghiêm trọng. Theo dự đoán của Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thành phố Hà Nội năm 2005, sẽ có hơn 850 nghìn tấn rác thải và đến năm 2020 con số này sẽ lên tới 1 triệu 600 nghìn tấn. Ở thành phố Hồ Chí Minh, bình quân mỗi người dân thải ra 1,5 kg chất thải rắn hàng ngày. Trong khi đó, việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường chưa thực sự nghiêm minh, có nơi, có lúc còn buông lỏng. Một số cơ quan, ban, ngành, vấn đề môi trường chưa được coi là ưu tiên. Ý thức tự giác của người dân về bảo vệ và giữ gìn môi trường chưa thực sự trở thành thói quen. Nhiều người còn có suy nghĩ giản đơn rằng vấn đề môi trường chưa cấp bách, trước mắt như vân đề cơm áo gạo tiền hàng ngày; bảo vệ môi trường là vấn đề chung của cả nước, cả xã hội, là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, chứ không phải là trách nhệim của người dân... Chính sự thờ ơ, thái độ "vô cảm" của một bộ phận người dân đối với môi trường đã tiếp tay cho việc tàn phá môi trường. Tăng trưởng kinh tế huỷ hoại giá trị truyền thống của quốc gia: Theo xu thế của thế giới,nhiều quốc gia thực hiện chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ và hợp tác với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế – xã hội, với xu thế ấy không ít quốc gia đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không chú ý đến việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, dần dần huỷ hoại những giá trị của dân tộc, từ đó dẫn đến sự suy giảm về đạo đức, lối sống và những giá trị nhân văn khác. Chương II:Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm chỉ đạo. Kết quả thực hiện Quan điểm phát triển bền vững theo Chương trình Nghị sự 21 (CTNS21) đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Trong hơn một năm qua, Văn phòng Phát triển bền vững đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sự hợp tác của các cơ quan, ban, ngành trong nước và đặc biệt với sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế đã tiến hành thực hiện nhiều công việc quan trọng nhằm hoàn thiện thể chế, nâng cao nhận thức của nhân dân, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ. Một sự kiện quan trọng trong việc hình thành thể chế phát triển bền vững là sự thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia theo Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Hội đồng phát triển bền vững quốc gia có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất việc thực hiện trong cả nước chiến lược phát triển bền vững. Hội đồng do Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ làm Chủ tịch, thành phần gồm 40 thành viên, đại diện cho các cơ quan Đảng, Quốc hội, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực hiện "Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000" (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH". Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Gần đây, Đại hội X (2006) của Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20 năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưỏng chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó, bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước đầu. Nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. Phần tiếp theo dưới đây sẽ phản ánh thực trạng khả quan đó trong lĩnh vực kinh tế. Thành tựu và hạn chế tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam 1.Kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới phát triển bền vững: 1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định Nhiều năm liên tục, kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định. GDP tăng bình quân trên 7% năm, riêng năm 2006 là 8,2% đứng thứ hai ở châu Á và dự kiến năm 2007 là 8,5%. Việt Nam cũng đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay đã có gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với gần 8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, riêng năm 2006 Việt Nam đã thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, tăng 50% so với 2005. Tám tháng đầu năm 2007, con số này là 8,3 tỉ USD và dự kiến có thể đạt tới 13-14 tỉ USD vào cuối năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm liên tục trong nhiều năm qua, giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tương đương trên 60% GDP của cả nước. Bảng : Tăng trưởng GDP từ năm 1991-2006 năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 GDP (%) 5.81 8.7 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.79 6.89 7.08 7.26 7.96 8.43 8.17 Nguồn: 1.2. Tăng trưởng kinh tế đã dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền kinh tế khu vực và thế giới . Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông – lâm - thuỷ sản đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995, 24,5% năm 2000, năm 2005 xuống 20,9%, và đến năm 2006 còn 20,4%; Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%, năm 1995 đã tăng lên 28,8%, năm 2000 là 36,7%, năm 2005 là 41% và đến năm 2006 đã tăng đến 41,6%; Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%, năm 1995 là 44,0%, năm 2000 là 38,8% năm 2005 là 38,07% và đến năm 2006 là 38,08% Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ XK/GDP ngày càng tăng, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001 và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng KNXK 5 năm 2001-2005 đã đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm), khiến cho năm 2005 bình quân KNXK/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, KNXK tiếp tục đạt mức cao 40 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2005. Năm 2007, KNXK 9 tháng đầu năm đã đạt khoảng 35,2 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2006. Dự báo tổng KNXK năm 2007 có thể đạt tới 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm 2006, đưa tỷ lệ XK/GDP lên đến 67,4%. Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản... đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001: vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỷ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỷ USD; 2003: 3,2 tỷ USD; 2004: 4,5 tỷ USD; 2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; và 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt 9,6 tỷ USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2006. Theo dự báo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam), kết thúc năm 2007 này nếu các thủ tục hành chính cấp phép triển khai thuận lợi, nhanh chóng, kịp với nhu cầu các nhà đầu tư thì có thể vốn FDI vào Việt Nam sẽ đạt tới con số kỷ lục là 13 tỷ USD). Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực. Nếu như năm 1990, lực lượng lao động trong ngành nông-lâm-thuỷ sản còn chiếm đa số lực lượng lao động xã hội (73%) thì đến năm 2000 giảm xuống còn 68,2% và đến năm 2005 còn khoảng 56,8%; Tỷ lệ lao động công nghiệp năm 1990 là 11,2%, năm 2000 là 12,1%, năm 2005 khoảng 17,9%; Tỷ lệ lao động trong các ngành dịch vụ năm 1990: 15,6%, năm 2000: 19,7, năm 2005: 25,3%. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới, chiếm 38,4% GDP vào năm 2005 và đang chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó kinh tế hợp tác và HTX phát triển khá đa dạng, chiếm 6,8% GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp 15,9 % GDP của cả nước năm 2005. 1.3 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư. Việc đánh giá trình độ và chất lượng dân sinh của các quốc gia, lãnh thổ có thể được căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, song thông thường có tính phổ biến ngày nay người ta vẫn dùng tiêu chí chỉ số phát triển con người (HDI) là một thước đo tổng hợp về nhiều khía cạnh trình độ và chất lượng dân sinh. Theo Báo cáo hàng năm của Liên hiệp quốc, chỉ số HDI của Việt Nam đã liên tục tăng trong những năm gần đây, từ 0,671 điểm (năm 2000) đã tăng lên 0,688 điểm (2003), tăng lên 0,704 điểm (2005) và có khả năng đạt tới 0,750 điểm vào năm 2010 như mục tiêu Chiến lược Dân số đã đề ra. Đáng lưu ý là, từ năm 1995 đến nay, xếp hạng HDI của Việt Nam trong khu vực đã được nâng lên từ thứ bậc 7 lên thứ bậc 6; ở Châu Á từ thứ bậc 32 lên thứ bậc 28 và trên thế giới từ thứ bậc 122 lên thứ bậc 108 so vớí 177 nước trên thế giới. Để thấy rõ một cách chi tiết về trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư Việt Nam đã ngày càng nâng cao hơn, nên xem xét tổng thể các tiêu chí cơ bản sau đây: +) Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập GDP bình quân/người của cả nước đã tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm 2005, tương đương 640 USD (tăng 12,1%/năm và 1,75 lần sau 5 năm). Năm 2007, ước tính có thể đạt 835 USD. +)Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng từ 65,2 tuổi năm 1995 lên 70 tuổi năm 2003 và lên 71,5 tuổi năm 2005. +) Xếp hàng chỉ số giới của Việt Nam cao hơn xếp hạng về HDI và GDP bình quân đầu người, đứng thứ 89 trên 144 nước năm 2005 +)Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ, cụ thể là: Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đã liên tục giảm nhanh từ 33,4% năm 2000, giảm xuống còn 31,9% năm 2001, 30,1% năm 2002, 28,4% năm 2003, 26,6% năm 2004 và 25,5% năm 2005. Tỷ lệ trẻ mới sinh nặng dưới 2.500gam ở mức thấp, gần 8%. . Tỷ lệ trẻ em bị tử vong dưới 1 tuổi năm 2005 giảm còn 18/1.000 trẻ đẻ sống. Tỷ suất tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản giảm xuống còn 80/100.000 trẻ đẻ sinh sống. Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt 62% năm 2005, vượt mục tiêu đề ra. + Hầu hết các xã phường trong cả nước đều đã có trạm y tế, trong đó có trên 65% số trạm có bác sĩ. Chế độ khám, chữa bệnh cho người nghèo, bảo hiểm y tế có bước phát triển. Đã triển khai khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. + Đã ngăn chặn có hiệu quả và khắc phục nhanh một số bệnh dịch mới như SARS, cúm gia cầm, được thế giới đánh giá cao; đẩy mạnh phòng chống HIV/AIDS. Sản xuất thuốc chữa bệnh chiếm 45% thị phần thuốc chữa bệnh... +) Sự nghiệp phát triển giáo dục - tạo có bước phát triển mạnh. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đến năm 2005, có 31/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 94%, trong khi đó trung bình của thế giới là 79%, các nước thu nhập thấp là 61%, các nước thu nhập trung bình là 90%, các nước châu Á – Thái Bình Dương là 90%. Đến hết năm 2005, số học sinh đi học bậc tiểu học đạt 97,5%, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm, dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp được tăng cường. Nhiều tỉnh đã xây dựng được trường chuẩn quốc gia. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo tăng lên. Năm 2005, chi cho giáo dục và đào tạo đã đạt tới 18% tổng chi ngân sách nhà nước. +) Đời sống văn hoá không ngừng nâng cao. Tính đến năm 2005, đã có khoảng 95% số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam, 90% số hộ được xem truyền hình Việt Nam. Đáng lưu ý, có nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã được phủ sóng phát thanh, truyền hình. Đến năm 2005, đã có 650 cơ quan báo chí, vớí 713 ấn phẩm, có70 tờ báơ điện tử và hàng trăm ngàn trang tin điện tử. Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao đều tiếp tục phát triển mạnh, cơ sở vật chất được tăng cường. Nước ta dã tổ chức hành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội thể thao của người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 2, gây ấn tượng tốt trong khu vực và quốc tế. 1.4 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thể hiện ở thu nhập GDP bình quân đầu người nước ta đã không ngừng tăng lên, từ 220 USD những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, đã tăng lên 400 USD năm 2000, tăng 1,8 lần, 483 USD năm 2003, đến năm 2005 đã là 640 USD, và đến năm nay 2007 có thể đạt tới 835 USD. Đáng lưu ý là công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt kết quả rất khả quan, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Là một trong những quốc gia có kết quả giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn cũ còn 7% (kế hoạch là 10%; năm 2001 là 17,5%). Theo Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khoá XII (Nhân dân, 23/10/2007), đến nay đã có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hoàn có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% (theo chuẩn mới) năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ xoá đói nghèo đến năm 2015 trước 10 năm 2. Hạn chế: 2.1 Tăng trưởng kinh tế vẫn chưa vững chắc: Tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 7,5%/năm trong 5 năm 2001-2005 là một thành tựu lớn, nhưng tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố về vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên... Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến nông sản và chế tạo tư liệu sản xuất còn kém, chủ yếu vẫn là lắp ráp, gia công. Các yếu tố đem lại giá trị gia tăng cao như khoa học, công nghệ chưa được khai thác và phát huy. Quy mô đầu tư ngày càng tăng, thể hiện ở tỷ lệ đầu tư trên GDP ngày càng cao, nhưng hiệu quả đầu tư, trình độ của nền kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức thấp, chưa tương xứng với đầu tư. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế còn thấp, lao động có tay nghề cao vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong lực lượng lao động. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước,chất lượng phát triển còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu . Tăng trưởng kinh tế những năm qua chưa phát huy được hết các nhân tố theo chiều sâu. Năng lực cạnh tranh, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Chưa kết hợp thật tốt giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và chăm lo đúng mức cho sự phát triển của con người, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố về tiến bộ khoa hoc và công nghệ tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Một số công trình xây dựng lớn, quan trọng quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Năng lực sản xuất một số ngành, sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm. Môi trường còn ô nhiễm nặng và bị tàn phá nghiêm trọng, chưa có các giải pháp hữu hiệu trong giải quyết vấn đề môi trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều và chưa phát huy thế mạnh trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm. Cơ cấu dịch vụ chưa có sự chuyển dịch đáng kể, dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn triển khai còn chậm và thiếu tính bền vững. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy được vai trò đầu kéo kinh tế vùng; chính sách đầu tư và hỗ trợ các vùng kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự phát triển của các thành phần kinh tế chưa đồng đều. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tê. 2.3. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm ô nhiễm môi trường So với các nước trong khu vực sản xuất công nghiệp của nước ta có quy mô còn rất nhỏ bé nên sự tác động gây ô nhiễm môi trường phần lớn đang ở phạm vi hạn chế gây suy thoái cục bộ trong ranh giới của vùng hẹp. Tuy vậy, với tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm của chúng ta hiện nay, để bảo đảm phát triển bền vững chúng ta đang đứng ở thời điểm không thể trì hoãn, bắt buộc phải xác lập các bước đi thích hợp, thực hiện các biện pháp giải quyết và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường Chương III: Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hướng đến phát triển bền vững. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X nêu rõ: "Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh hơn, có chất lượng cao hơn, bền vững hơn và gắn kết với phát triển con người". Coi trọng cả chất lượng và số lượng tăng trưởng nhưng trước hết và trên hết là chất lượng, hiệu quả, nhất định trong thời gian tới nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển bền vững, giảm được nguy cơ tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu thành phần kinh tế, nguyên tắc chung cần quán triệt trong quá trình phân bổ nguồn vốn và các nguồn lực khác là xây dựng và triển khai các giải pháp tạo các điều kiện thuận lợi để dòng vốn có thể chảy vào khu vực có năng lực sử dụng vốn có hiệu quả và tạo nhiều việc làm, hay nói cụ thể là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng vốn. Theo tiêu chí này, để đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư xã hội theo hướng tăng mạnh tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực sử dụng vốn hiệu quả, nhất là khu vực kinh tế tư nhân nội địa, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực sử dụng công nghệ - kỹ thuật cao: 1.Ngành công nghiệp: +) Tập trung phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh để tạo tích luỹ, thu hút lao động xã hội, bao gồm các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, lắp ráp cơ điện tử, chế biến nông – lâm – thủy – hải sản, ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới…; kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những ngành công nghiệp cần nhiều vốn, dựa vào nguồn tài nguyên như dầu khí, luyện kim,… +) Từng bước chuyển hướng từ xuất khẩu sản phẩm sơ cấp sang xuất khẩu dựa chủ yếu vào xuất khẩu sản phẩm thứ cấp, nhằm nâng cao ưu thế so với các nước trong việc khai thác, sử dụng nguồn lao động dồi dào; khuyến khích xuất khẩu, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, đồng thời nhận thêm các nguồn vốn ODA và FDI, tạo môi trường cho người lao động tiếp xúc với công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và năng lực khai thác nguồn nhân lực. +) Từng bước tái cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng khu vực nhà nước, tăng dần khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài: chú trọng phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ; hình thành các tập đoàn công nghiệp đa thành phần, đa ngành nghề để phối hợp sức mạnh và lợi thế của các thành phần, các ngành nghề, đồng thời làm đối tác cho các hoạt động kinh tế quốc tế, trụ cột cho nền kinh tế quốc dân. +) Thực hiện cơ cấu phân bố công nghiệp theo hướng phát triển và dịch chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về nông thôn, hình thành công nghiệp nông thôn, phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cho hoạt động sơ chế, chế tạo chi tiết linh kiện cho các cơ sở công nghiệp lớn, tập trung ở các đô thị trong điều kiện đặc thù Việt Nam, đảm bảo phát triển cân đối; chú trọng phát triển công nghiệp theo các tuyến giao thông (cảng biến, trục giao thông, trục đường thủy, bộ) để phát huy các lợi thế. +) Chú trọng đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp; giảm ô nhiễm môi trường; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; đặc biệt trong ngành khai thác và chế biến khoáng sản. +) Đổi mới tổ chức, quản lý KH&CN, nâng cao vai trò của KHCN trong việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ của các ngành, đồng thời tăng cường tiếp nhận, làm chủ và phát triển các công nghệ mới, hiện đại. +) Phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường. Thực hiện tốt công tác quản lý và bảo vệ môi trường, đầu tư mới và cải tạo các hệ thống xử lý chất thải, nhằm thực hiện nghiêm chỉnh việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; chú trọng áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn; nghiên cứu hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường, ưu tiên ứng dụng công nghệ sạch và công nghệ thân thiện với môi trường. +) Tăng cường công tác vệ sinh an toàn, bảo hộ lao động, phòng chống cháy nổ, đặc biệt trong ngành khai thác mỏ; khuyến khích áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9.000; ISO 14.000; SA 8.000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.DOC
Tài liệu liên quan