Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại nhà máy in Diên Hồng - Nhà xuất bản giáo dục

Lời mở đầu 1

Phần I: Một số đặc điểm kinh tế - Kỹ thuật của nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị. 3

i. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy. 3

1. Quá trình hình thành và phát triển Nhà máy 3

1.1. Thời kỳ 1954 -1968: 3

1.2. Thời kỳ 1969 -1991: 3

1.3. Thời kỳ 1991-1996: 4

1.4. Thời kỳ 1996- nay: 4

2. Đặc điểm của cơ cấu sản xuất và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy 5

ii. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và hiệu quả sử dụng 9

1. Đặc điểm về tính chất nhiệm vụ sản xuất 9

2. Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật 10

3. Đặc điểm về lao động 12

4. Cung ứng nguyên vật liệu. 15

5. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của Nhà máy. 16

6. Đặc diểm về thị trường kinh doanh. 17

7. Tình hình tài chính 18

Phần II: Phân tích thực trạng về công tác 20

quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở 20

Nhà máy in Diên Hồng- NXBGD. 20

i. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của Nhà máy thời kỳ 2000-2002. 20

1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm. 20

2. Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu 20

3. Phân tích tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh. 21

II. Phân tích cơ cấu máy móc thiết bị của Nhà máy. 23

III. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng, thời gian, công suất. 26

1. Phân tích tình hình sử dụng về mặt số lượng. 26

2. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt công suất 27

3. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. 29

IV. Phân tích công tác quản lý, bảo quản và sửa chữa, hiện đại hoá máy móc thiết bị tại Nhà máy. 32

1. Công tác quản lý máy móc thiết bị. 32

1.1. Phân tích hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị 32

1.2. Phân tích tình hình quản lý hồ sơ, lý lịch máy móc thiết bị 33

1.3. Công tác tính và trích khấu hao máy móc thiết bị 34

2. Phân tích công tác bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị. 35

3. Phân tích công tác đổi mới máy móc thiết bị 37

V. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị 39

1. Chỉ tiêu sức sản xuất của máy móc thiết bị 39

2. Chỉ tiêu khả năng sinh lợi và nộp ngân sách của máy móc thiết bị. 40

3. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí khấu hao máy móc thiết bị. 41

VI. Đánh giá chung về công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD. 42

1. Một số thành tích đã đạt được. 42

2. Những tồn tại 44

3. Một số nguyên nhân của tình trạng trên 45

3.1. Một số nguyên nhân khách quan: 45

3.2. Một số nguyên nhân chủ quan 46

Phần III: Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị 48

tại Nhà máy in Diên Hồng

doc69 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại nhà máy in Diên Hồng - Nhà xuất bản giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề giữa các loại máy. Máy in 2 màu công suất thực tế chỉ bằng 21,82% so với năng lực sản xuất. Trong khi đó máy in 1 màu lại tương đối cao và bằng 91,42% còn máy in 4 màu cũng đạt 77,57%. Các máy còn lại hệ số này cũng không cao lắm và lại không đồng đều giữa các máy. Điều đó là do năng lực sản xuất được xây dựng giữa các máy là không cân đối. Vì vậy mà trong khi 1 số máy có hệ số huy động công suất thiết kế là tương đối cao (Máy gấp bằng 80,87%; máy bắt sách đạt 81,65%) một số máy khác hệ số này lại tương đối thâp, đặc biệt là máy khâu thép chỉ đạt 41,1 %, máy xén 3 mặt bằng 50,03% . Sang năm 2001, tình hình này được thiện hơn. Tuy hệ số huy động công suất vẫn không đồng đều giữa các máy nhưng hệ số này đã tăng 1 cách đáng kể so với năm 2000. Hệ số huy động chung của các máy in đạt 68,93% tăng so với năm 2000 là 11,53%, đây là mức khá lớn. Đạt được điều đó là do công suất của các máy in tăng, tạo điều kiện tăng công suất thực tế của các máy hoàn thiện. Năm này công suất của máy in một màu tăng không đáng kể so với năm 2000, đó là do mức công suất này đa rất cao, gần bằng với công suất thiết kế do vậy mà tốc độ tăng chậm. Công suất thực tế của máy in 2 màu cũng tăng nhiều vì vậy mà hệ số huy động công suất thiết kế so với năm 2000 tăng 16,18%. Tuy nhiên hệ số này vẫn con rất thấp ( mới chỉ bằng 38%). Máy in 4 màu hệ số này rất cao (bằng 92,36%) tăng so với năm 2000 là 14,9%. Còn lại các máy hoàn thiện sách có công suất thực tế tăng theo cũng tương đối lớn . Vì vậy mà hệ số huy động công suất tăng tương đối cao so với năm 2000. Nhất là máy gấp và máy bắt sách hệ số này đã lên 93,91% và 94,81% tăng so với năm 2000 là 13,04% và 13,16% . Máy khâu thép và máy xén 3 mặt có hệ số này cũng tăng cao( khoảng 6,61% và 8,07%.) tuy nhiên các hệ số này còn thấp và chỉ bằng 47,71% và 58,1%. Đạt được thành tích trên là do năm 2001, NXBGD đã quan tâm giao chỉ tiêu sản lượng cho nhà máy ngay từ đầu năm và cơ cấu trang in đã hợp lý hơn. Sản phẩm in ngoài NXBGD của Nhà máy đã được chấp nhận, công tác điều độ sản xuất được hoàn thiện hơn. Sang năm 2002 tình hình không thay đổi nhiều. Hệ số huy động công suất đã tăng chậm lại đó là do hệ số huy động công suất của các máy in chỉ bằng 69,84%, chỉ tăng 0,91% so với năm 2001. Cụ thể là do: Máy in 1 màu và 4 màu công suất đã lên tới qua cao ( hệ số huy động công suất đã bằng 94,63% và 97,65%) nên không thể tăng nhiều được. Trong khi đó máy in 2 màu công suất thực tế lại giảm. Chính vì vậy hệ số này của các máy in chỉ đạt 64,84% và chỉ tăng 0,91%. Điều đó làm cho hệ số huy động của các máy hoàn thiện sách tăng không đáng kể. Nhưng trong đó hệ số này của máy gấp và máy bắt sách cũng rất cao( bằng 95,15% và 96,06%) và máy khâu chỉ cũng tương đối cao bằng 85,63%. Tóm lại, ta thấy hiện nay hệ số huy động công suất thiết kế của Nhà máy tương đối cao đó là máy in 1 màu và 4 màu, máy gấp và máy khâu thép. Vì vậy mà Nhà máy nên có những biện pháp để đầu tư thêm những máy móc loại này. Còn máy in 2 màu thì có công suất thực tế tương đối thấp so với năng lực sản xuất vì vậy cần phải có kế hoạch khai thác các sản phẩm có trang in 2 màu, đôi khi bắt buộc phải sử dụng để in 1 màu. Như vậy sẽ làm tăng công suất máy. Cũng từ đó mà làm tăng hệ số huy động công suất của máy in và kéo theo sự tăng thêm hệ số này của các máy hoàn thiện sách. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. Để đánh giá tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian ta dùng hệ số sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. Ta sử dụng các hệ số sau: HTG = Thời gian làm việc thực tế Thời gian làm việc theo chế độ Hệ số này cho biết trong 1 năm máy móc thiết bị hoạt động bao nhiêu giờ, phải ngừng hoạt động bao nhiêu giờ. Hệ số này càng tiến tới 1 thì hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị càng cao. Trong thời gian qua, do tính chất sản xuất ổn định, sản xuất được tiến hành liên tục vì vậy mà thời gian làm việc của thực tế của máy móc thiết bị ở Nhà máy có điều kiện nâng cao. Cụ thể ta có thể xem xét tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị tại Nhà máy ở bảng 13 trang sau. Theo chế độ, Nhà máy quy định chung là mỗi máy làm việc 2 ca/ngày và một năm làm 273 ngày, trong đó 1 ca làm việc 8 tiếng. Không giống như các doanh nghiệp xây dựng có thời gian làm việc thực tế rất thấp so với thời gian làm việc theo chế độ. ở Nhà máy do tính chất sản xuất liên tục nên thời gian làm việc thực tế tương đối cao, và không có sự biến động lớn giữa các loại máy. Nhìn vào bảng trên, ta có thể thấy năm 2000 hệ số sử dụng thời gian cũng khá cao ở một số máy như máy in offset 1 màu, 4 màu, máy gấp và máy khâu chỉ (bằng 0,8; 0,58; 0,71; 0,79). Tuy nhiên máy in 2 màu có hệ số này rất thấp (chỉ bằng 0,19). Đó là do lượng đặt hàng về trang in 2 màu rất thấp so với năng lực sản xuất. Sang năm 2001, hệ số sử dụng thời gian của tất cả các loại máy đều tăng lên đáng kể và hệ số này của các loại máy là tương đối cao, đặc biệt là máy in 1 màu, máy gấp và máy khâu chỉ (bằng 0,82; 0,82; 0,92). Do vậy mà sang năm 2002, hệ số này cũng tăng nhưng không đánh kể. Nhìn chung 3 năm qua, ta thấy máy in 1 màu, 4 màu, máy gấp, máy khâu chỉ có hệ số sử dụng thời gian tương đối cao, do vậy mà hệ số huy động công suất của các máy này cũng rất cao (như đã phân tích ở phần trước). Có được nhữnh tình hình như trên là do 1 số nguyên nhân sau: Sản phẩm SGK tuy là có tính chất mùa vụ, nhưng lại có khả năng lưu kho nên Nhà máy có thể sản xuất từ tháng 11 năm trước cho đến hết tháng 8 năm sau. Đồng thời vào tháng 9, tháng 10. Nhà máy có thể thực hiện in sách tham khảo. Do vậy mà có thể làm giảm tính mùa vụ của sản xuất, làm cho sản xuất được tiến hành liên tục, nâng cao thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Vào những lúc sản xuất cao điểm, thao chế độ thì Nhà máy chỉ làm việc 2 ca một ngày, nhưng lại huy động làm 3 ca 1 ngày, do vậy cũng tăng thời gian làm việc thực tế. Việc cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất được thực hiện tương đối tốt. Hầu như các máy móc thiết bị của Nhà máy chưa từng phải ngừng máy do thiếu nguyên vật liệu. Điều này cũng tạo điều kiện cho máy móc thiết bị được hoạt động liên tục. Công tác bảo dưỡng máy hàng ngày, hàng tuần tạo điều kiện cho việc duy trì sự lâu bền của máy móc thiết bị và có thể kịp thời phát hiện sự cố và hỏng hóc để kịp thời sửa chữa, tránh để máy ngừng lâu. Tuy nhiên, ở Nhà máy lại không có công tác sửa chữa dự phòng, mà chỉ có sửa chữa khi phát hiện sự cố nên nhiều khi bị động và quá tải trong sửa chữa, làm cho thời gian ngừng máy kéo dài. Chế độ bảo dưỡng máy hàng ngày hàng tuần tốn khá nhiều thời gian gây nên thời gian ngừng máy dài. Đặc biệt lại với biên chế chỉ có 6 người trong tổ Cơ điện thì không tránh khỏi việc không hoàn thành nhiệm vụ sửa chữa nhanh chóng. Điều đó đã làm cho thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị giảm xuống. Năng lực sản xuất được bố trí không đồng đều giữa các máy trong một dây chuyền sản xuất, gây nên tình trạnh một số máy thì làm việc khẩn trương còn một số máy thì không có việc để làm. Do vậy cũng ảnh hưởng đến sự không đồng đều giữa các máy về việc huy động thời gian làm việc theo chế độ. Trên đây là một số nguyên nhân chung cơ bản ảnh hưởng đến tình hình huy động máy móc thiết bị về mặt thời gian. Và trong mỗi năm lại có những nguyên nhân, lý do riêng cho sự tăng giảm hệ số huy động thời gian của mỗi loại máy móc thiết bị. IV. Phân tích công tác quản lý, bảo quản và sửa chữa, hiện đại hoá máy móc thiết bị tại Nhà máy. 1. Công tác quản lý máy móc thiết bị. 1.1. Phân tích hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị Hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị ở Nhà máy được chia làm các cấp. Ta có thể xem qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị. Công nhân vận hành máy PGĐ sản xuất - kỹ thuật P. kế hoạch vật tư Tổ Cơ điện Các phân xưởng sản xuất Tổ sản xuất P. kế toán tài vụ Như vậy, ở cấp Nhà máy hệ thống tổ chức quản lý gồm: PGĐ sản xuất - kỹ thuật, phòng kế hoạch vật tư, phòng kế toán tài vụ và tổ Cơ điện. Cấp này đóng vai trò chính trong việc quản lý máy móc thiết bị về mặt tài chính, kỹ thuật, thời gian huy động cũng như kế hoạch sửa chữa. PGĐ sản xuất kỹ thuật có trách nhiệm quản lý máy móc thiết bị, bổ sung và quản lý các quy trình quy phạm kỹ thuật liên quan đến sản xuất, an toàn lao động, quy định việc kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm của từng công đoạn. Phòng kế hoạch vật tư có nhiệm vụ lập kế hoạch, quản lý việc mua sắm, đổi mới hệ thống máy móc thiết bị trên cơ sở đó phòng cũng thực hiện quản lý tiến độ huy động công suất vào sản xuất, có kế hoạch cung ứng vật tư cho sản xuất theo tiến độ. Phòng kế toán tài vụ có nhiệm vụ quản lý về mặt số lượng, giá trị từng loại máy. Quản lý việc tính và trích khấu hao, phân bổ chi phí khấu hao máy móc thiết bị. Tổ Cơ điện quản lý hồ sơ lý lịch của từng máy, có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các hoạt động sửa chữa lớn, vừa, nhỏ máy móc thiết bị toàn Nhà máy, cung cấp điện cho sản xuất. Tại các phân xưởng, hoạt động quản lý và sử dụng máy móc thiết bị được thực hiện bởi chính các phân xưởng sản xuất đó thông qua các tổ sản xuất. Các quản đốc có nhiệm vụ nắm vững tình trạng kỹ thuật máy móc thiết bị mình quản lý, khai thác tối đa năng lực máy, tổ chức khắc phục, sửa chữa nhanh các hư hỏng bất thường; cunng cấp các thông tin, thông số kỹ thuật về máy móc thiết bị cho công nhân vận hành máy. Các tổ trưởng đôn đốc công nhân tuân thủ nghiêm túc nội dung, chất lượng bảo dưỡng ca kíp; tổ chức thực hiện đúng các quy trình, quy phạm về an toàn sử dụng máy. Các công nhân vận hành máy có trách nhiệm tuân thủ các quy trình quy phạm kỹ thuật khi vận hành máy, thực hiện bảo dưỡng và bảo quản máy hàng ca sản xuất. Đồng thời phải có trách nhiệm phản ánh, thông báo về tình trạng máy móc thiết bị cho bộ phận chuyên môn để sửa chữa. Với hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị này, việc sử dụng máy móc thiết bị trong toàn Nhà máy trở nên hiệu quả hơn, các phân xưởng chủ động trong việc sử dụng máy móc thiết bị thuộc phạm vi của mình, đảm trách những hỏng hóc thông thường trong phạm vi có thể. Điều đó nâng cao trách nhiệm của người công nhân trong sử dụng máy đảm bảo sự thông suốt trong quản lý. 1.2. Phân tích tình hình quản lý hồ sơ, lý lịch máy móc thiết bị Hồ sơ, lý lịch máy móc thiết bị là một bộ phận không thể thiếu được của mọi chương trình, kế hoạch sửa chữa bảo dưỡng tốt máy móc thiết bị. Máy móc thiết bị ngay từ khi đưa về đã cần phải lập hồ sơ chi tiết để quản lý, hồ sơ này phải được cập nhật hàng ngày về tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị. ở Nhà máy in Diên Hồng, tổ Cơ điện chịu trách nhiệm lập và quản lý hồ sơ lý lịch này. Hồ sơ lý lịch có nội dung chính gồm: tên máy, năm đưa vào sử dụng, số các lần sửa chữa, các loại sửa chữa, tình trạng hiện nay ra sao, độ phức tạp sửa chữa Tuy nhiên, việc quản lý hồ sơ này chưa được chặt chẽ, chỉ mang tính hình thức, sau mỗi lần thay dổi tổ trưởng là việc lập và quản lý hồ sơ lại bắt đầu lại từ đầu, song 1 thời gian sau lại không cập nhật hàng ngày. 1.3. Công tác tính và trích khấu hao máy móc thiết bị Việc tính và trích khấu hao máy móc thiết bị và sử dụng quỹ khấu hao cơ bản có một ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng máy móc thiết bị đảm bảo cho máy móc thiết bị hoạt động liên tục và luôn được hiện đại hoá. Việc tính khấu hao cũng có nhiều phương pháp, mỗi phương pháp lại có ưu nhược điểm riêng, có điều kiện vận dụng riêng, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phai rlựa chọn cho mình một phương pháp phù hợp. Nhà máy in Diên Hồng, hiện đang áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính cho tất cả TSCĐ của Nhà máy. Theo phương pháp này: Mức khấu hao máy móc thiết bị năm = Nguyên giá máy móc thiết bị Số năm sử dụng định mức Với phương pháp này, việc tính toán đơn giản, đảm bảo thu hồi vốn theo tuổi thọ máy móc thiết bị. Đồng thời nó cũng tạo ra sự ổn định về chi phí khấu hao trong giá thành, không gây nên những biến động lớn về giá. Đặc biệt nó rất phù hợp trong điều kiện Nhà máy có nhiệm vụ sản xuất ổn định qua các năm, và khối lượng sản phẩm tăng tương đối đồng đều. Và với các loại máy móc thiết bị của Nhà máy với phương pháp in offset vẫn thuộc loại tiên tiến ở nước ta, nên cũng không cần thiết phải thu hồi vốn nhanh hơn. Nhà máy đã quy định tất cả máy móc thiết bị của Nhà máy dùng cho sản xuất hoặc phục vụ sản xuất đều có số năm sử dụng định mức là 10 năm, vì vậy mà tỷ lệ khấu hao hàng năm là 10%. Do đó những máy móc thiết bị của Nhà máy được sử dụng từ năm 1993 trở về trước hiện đã khấu hao hết, chỉ còn lại một số máy do tiểu tu nhiều lần nên vẫn còn được tính và trích khấu hao. Bảng 13: Tình hình tính và trích khấu hao máy móc thiết bị Đơn vị: Triệu đồng Bộ phận Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 NG KH NG KH NG KH 1. Tổ cắt rọc 213,3 21,33 213,3 0 213,3 0 2. Tổ chế bản 211,92 18,57 230,22 20,402 230,22 20,402 3. Tổ cơ diện 27 2,7 27 2,7 27 2,7 4. Phân xưởng in offset 9593,17 808,34 9598,31 808,86 9598,31 808,86 5. Phân xưởng hoàn thiện 5145,78 451,3 5150,92 448,1 5150,92 448,1 Tổng cộng 15209,5 1302,24 15219,78 1280,1 15219,78 1280,1 Nguồn: Phòng Kế toán tài vụ Theo như bản trên ta thấy, mức khấu hao hàng năm của Nhà máy không thay đổi nhiều qua các năm. Mức này thay đổi chủ yếu là do một số máy móc thiết bị đã khấu hao hết năm trước thì năm sau không được trích nữa hoặc do Nhà máy đưa vào sử dụng thêm máy móc thiết bị. Năm 2000, mức khấu hao của toàn Nhà máy là là 1.302,24 (triệu đồng), sang năm 2001 mức khấu hao có thấp hơn mặc dù nguyên giá thì có tăng lên đó là do một số máy đã khấu hao hết từ năm 2000. Cụ thể, số máy móc của Tổ cắt rọc đã không phải trích khấu hao, và việc trích thêm của một số máy mới đưa vào sử dụng năm 2001 không đủ để bù vào khoản giảm đi. Năm 2002, không có sự biến động nào về việc mua sắm thêm hay có thêm máy đã khấu hao hết nên mức khấu hao bằng với năm 2001. Ngoài việc tính và trích khấu hao hợp lý, các doanh nghiệp còn phải biết sử dụng quỹ khấu hao đúng mục đích. Hiện nay quỹ khấu hao của Nhà máy chỉ được sử dụng cho việc đầu tư mua sắm mới TSCĐ, còn ngoài ra không được sử dụng dụng vào mục đích gì khác, kể cả cho công tác sửa chữa. Hàng năm mức khấu hao máy móc thiết bị rất lớn, khoảng hơn 1tỷ đồng, nhưng việc mua sắm lại rất hạn chế, do vậy một lượng vốn lớn nhàn rỗi 2. Phân tích công tác bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị. Công tác sửa chữa máy móc thiết bị là một hoạt động hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng tới rất nhiều vấn đề khác nhau như : vấn đề sử dụng thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị, tới vấn đề huy động công suất thực tế của máy vào sản xuất, tới chất lượng sản phẩm đầu ra Qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác sửa chữa tốt sẽ đảm bảo máy móc thiết bị hoạt động trơn tru, luôn trong tình trạng tốt, giảm bớt thời gian ngừng máy, tăng thời gian hoạt động thực tế của máy móc, đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu ra, giảm tối đa phế phẩm, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Nội dung của công tác này bao gồm: việc theo dõi, kiểm tra, xác định trạng thái hoạt động của máy móc thiết bị nhằm lập kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị định kỳ hoặc đột xuất. Hiện tại Nhà máy có các hình thức sửa chữa sau: bảo dưỡng máy móc hàng ngày, hàng tuần và sửa chữa khi có sự cố. Hệ thống tổ chức sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị được thực hiện như sau: Tổ Cơ điện chịu trách nhiệm sửa chữa vừa và sửa chữa lớn. Phân xưởng chịu trách nhiệm sửa chữa nhỏ thiết bị do mình phụ trách. Công nhân vận hành máy chịu trách nhiệm bảo dưỡng máy móc thiết bị được giao sử dụng. Như vậy, Nhà máy thực hiện hình thức sửa chữa hỗn hợp. Thực hiện sửa chữa phân tán đối với các loại hỏng hóc thông thường và được thực hiện trực tiếp bởi các phân xưởng sản xuất với biên chế bình quân mỗi phân xưởng từ 1 đến 2 công nhân kỹ thuật làm nhiệm vụ sửa chữa. Còn đối với trường hợp sửa chữa lớn, nếu thuận lợi, Nhà máy sẽ tập trung đưa về cho tổ Cơ điện sửa chữa hoặc thuê ngoài. Đối với từng phân xưởng, sẽ phải thực hiện bảo dưỡng máy hàng ngày, hàng tuần và sửa chữa thông thường khi máy có sự cố. Hàng ngày ở mỗi ca sản xuất, vào đầu và cuối ca làm việc công nhân đứng máy phải kiểm tra, lau chùi và tra dầu mỡ cho máy móc thiết bị. Nếu phát hiện có bộ phận nào dơ dão có thể sẽ hỏng, nếu sửa chữa được thì sửa chữa còn nếu không thì phải thông báo cho người phụ trách. Hàng tuần máy móc được bảo dưỡng, trách nhiệm thuộc về công nhân kỹ thuật của mỗi phân xưởng và dưới sự giám sát của PGĐ sản xuất - kỹ thuật và tổ Cơ điện. Thời gian bảo dưỡng máy hàng tuần như sau: Máy in offset 1 và 2 màu : 2h/ca/tuần. Máy in offset 4 màu : 4h/ca/tuần. Các máy móc thiết bị khác : 1h/ca/tuần. Thời gian bảo dưỡng phải được ấn định theo lịch cụ thể. Và phải được thông báo cho PGĐ và tổ Cơ điện. Ngoài việc bảo dưỡng máy hàng tuần như vậy, thì Nhà máy còn có hình thức sửa chữa máy khi có sự cố: Đối với những hỏng hóc thông thường, trách nhiệm sửa chữa thuộc về công nhân vận hành máy hoặc công nhân kỹ thuật thuộc phân xưởng. Còn đối với sửa chữa vừa và sửa chữa lớn; khi có hỏng hoặc có dấu hiệu hỏng mà không thuộc trách nhiệm sửa chữa của phân xưởng thì quản đốc sẽ thông báo cho PGĐ sản xuất - kỹ thuật và tổ Cơ điện để lập biên bản, xác định nguyên nhân và tìm giải pháp để tiến hành sửa chữa. Thực tế, Nhà máy vẫn chưa bao giờ thực hiện một đợt sửa chữa lớn nào, đó là do hiện nay máy móc thiết bị đã cũ, đã sản xuất từ lâu nên trên thị trường không có các phương tiện thiết bị để có thể thay thế toàn bộ, mà nếu có thì chi phí lại gần bằng với dầu tư mua sắm mới. Và điều đó đã hạn chế khả năng hiện đại hoá máy móc thiết bị trên cơ sở máy móc thiết bị hiện có và cũng là do tâm lý muốn tận dụng triệt để giá trị sử dụng của máy. Nhà máy cũng không có kế hoạch sửa chữa dự phòng mà chỉ có việc bảo dưỡng máy hàng ngày, hàng tuần và thông qua đó thì phát hiện các bộ phận bị hỏng và các bộ phận có dấu hiệu hỏng để sửa chữa, như vậy thì có thể phát hiện kịp thời sự cố để có thể sửa chữa ngay, nhưng với trình độ của người công nhân vận hành máy và công nhân kỹ thuật chưa thể phát hiện được hết những hỏng hóc có thể xảy ra. Vì vậy mà khi sự cố xảy ra thì mới tiến hành sửa chữa nên nhiều khi thiếu vật tư, phụ tùng cho công tác sửa chữa. Cộng với biên chế chỉ có 6 người trong tổ Cơ điện trong đó chỉ có 3 người làm nhiệm vụ sửa chữa thì việc ách tắc trong sửa chữa là không thể tránh khỏi, do đó làm tăng thời gian ngừng máy để sửa chữa. 3. Phân tích công tác đổi mới máy móc thiết bị Việc đầu tư mua sắm mới máy móc thiết bị là 1 việc làm tất yếu để mỗi doanh nghiệp tiếp tục khẳng định vị trí, uy tín của mình lâu nay trên thương trường, đồng thời không ngừng nâng cao năng lực sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Từ năm 1991 đến nay, Nhà máy đã đầu tư mới một số loại máy móc thiết bị, ta có thể xem qua bảng sau: Bảng 14: Tình hình mua sắm mới áy móc thiết bị Đơn vị: (Trđ) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 GT mmtb 1326,7 37 107,9 906 6200,8 2399,57 Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 GT mmtb 86 3343,43 0 57,9 28,58 0 Nguồn: Phòng kế toán tài vụ Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị không thể xem xét trong thời gian ngắn, mà ta phải xem trong thời kỳ dài. và việc đầu tư không phải là Nhà máy sau hơn năm trước là tốt, mà nó phải có trọng điểm vào từng thời điểm cụ thể. Từ năm 1991 đến nay Nhà máy có 3 thời điểm đầu tư lớn máy móc thiết bị. Đó là vào năm 1991, 1995 và 1996, 1998 Năm 1991, Nhà máy đầu tư tổng giá trị là 1.326,7 (trđ), vào 3 máy là máy phơi bản + bộ nguồn cho tổ Chế bản, máy in 2 màu cho phân xưởng in và máy khâu chỉ cho phân xưởng Hoàn thiện. Hiện tại các máy vẫn còn hoạt động tốt. Năm 1995 + 1996: Đây là thời kỳ đầu tư lớn nhất. Giá trị đầu tư thời kỳ này là 8.600,37 (trđ) đây là một con số khá lớn đối với Nhà máy. Thời kỳ này để tăng năng lực sản xuất cho toàn Nhà máy, nên đã thực hiện đầu tư 3 máy in 2 màu và 1 máy dao một mặt cho phân xưởng in; 2 máy gấp và 1 máy vào bìa cho phân xưởng Hoàn thiện. Việc tăng năng lực sản xuất ở 2 phân xưởng sản xuất chính đã làm cho năng lực toàn Nhà máy tăng lên rất lớn. Năm 1998, tổng giá trị đầu tư lúc này là 3.343,43 (trđ). Lúc này do đòi hỏi của việc in trang nhiều màu, nên Nhà máy đã đầu tư 1 máy in 4 màu và hiện nay máy này đã sử dụng gần hết công suất. Đồng thời thì cũng phải tăng năng lực của phân xưởng Hoàn thiện nên ở phân xưởng này cũng được trang bị rất nhiều máy. Việc đầu tư máy móc thiết bị của Nhà máy chủ yếu là từ nguồn vốn vay và vồn tự có. Từ năm 1995 trở về trước thì có một phần máy móc thiết bị đầu tư được vốn ngân sách tài trợ nhưng từ đó trở đi thì tự Nhà máy phải lo liệu lấy bằng việc trích từ quỹ khấu hao hoặc vay hoặc trích từ nguồn vốn kinh doanh. Nhưng việc trích này cũng có hạn, chỉ tài trợ được cho những máy có giá trị nhỏ dưới 100 trđ. Còn lại chủ yếu là từ vốn vay và trích từ quỹ khấu hao máy móc thiết bị. Từ năm 1998 đến nay thì chưa có một đợ đầu tư lớn nào khác, nhất là năm 1999 và năm 2002 đã không có một sự đầu tư nào. Năm 2000 và năm 2001 sự đầu tư tương đối thấp và không làm ảnh hưởng đến năng lực sản xuất toàn Nhà máy. Các máy in 1 màu của Nhà máy đã được đầu tư từ trước năm 1991, hiện đã rất cũ, và lại không được đại tu sửa chữa lớn kết hợp với hiện đại hoá mà lại phải hoạt động gần hết công suất thiết kế vì vậy cần phải có kế hoạch đầu tư thêm hoặc hiện đại hoá các máy này. V. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng. 1. Chỉ tiêu sức sản xuất của máy móc thiết bị Chỉ tiêu này có thể được tính theo doanh thu hoặc theo khối lượng sản phẩm sản xuất ra: HDT = Tổng doanh thu Tổng giá trị máy móc thiết bị HSL = Tổng sản lượng Tổng giá trị máy móc thiết bị Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng giá trị máy móc thiết bị tham gia sản xuất trong 1 năm thì tạo được mấy đồng doanh thu hoặc bao nhiêu sản phẩm. Ta có thể xem xét trong bảng sau: Bảng 15: Sức sản xuất của máy móc thiết bị Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2000 Tổng doanh thu Trđ 13105 17996 4891 14000 - 3996 Tổng sản lượng Trđ 2670 3018,7 348,7 3080,9 - 62,2 Gtrị máy móc thiết bị Trđ 15209,5 15219,8 10,28 15219,8 0 Hdt đ/đ 0,86 1,18 0,32 0,92 - 0,26 Hsl Ttr/trđ 0,176 0,198 0,022 0,202 0,004 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Theo bảng trên thì ta thấy, nhìn chung 3 năm qua chỉ tiêu sức sản xuất có tăng. Nhưng năm 2002, chỉ tiêu sức sản xuất theo doanh thu giảm 0,26 (đ/đ), có nghĩa là 1 đồng giá trị máy móc thiết bị bị tạo ra được ít doanh thu hơn, trong khi đố sức sản xuất theo sản lượng lại tăng 0,004 (triêu trang/triệu đồng). Đó là do năm 2002 Nhà máy tập trung chủ yếu vào việc in cho NXBGD, nên mặc dù sản lượng có tăng nhưng giá công in cho NXBGD lại thấp hơn nhiều so với in ngoài nên doanh thu vẫn thấp hơn. Điều này càng đòi hỏi Nhà máy phải tích cực trong việc khai thác các sản phẩm in ngoài NXBGD. 2. Chỉ tiêu khả năng sinh lợi và nộp ngân sách của máy móc thiết bị. Chỉ tiêu này được tính bằng cách: HLN = Lợi nhuận Tổng giá trị máy móc thiết bị HNS = Các khoản nộp ngân sách Tổng giá trị máy móc thiết bị Hai chỉ tiêu này cho biết, 1 đồng giá trị máy móc thiết bị tạo ra mấy đồng lợi nhuận và nộp ngân sách được bao nhiêu. Ta có thể xem trong bảng dưới đây: Bảng 16: Khả năng sinh lợi và nộp ngân sách Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2000 Lợi nhuận Trđ 267,58 273,02 5,44 256,92 - 16,102 Các khoản nộp NS Trđ 258,95 483,26 224,31 441,58 - 41,69 Gtrị máy móc tb Trđ 15209,5 15219,8 10,28 15219,8 0 HLN đ/trđ 17592,95 17.938,5 345,55 16.880,5 - 1.058 HNS đ/trđ 17025,7 31752,2 14726,5 29013,35 - 2.738,8 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Theo như trên ta thấy, các chỉ tiêu của Nhà máy không tăng đều qua các năm, năm 2001 là năm có các chỉ tiêu cao nhất. Nhưng so với năm 2000 chỉ tiêu khả năng sinh lợi chỉ tăng 345,55 đồng trên 1 triệu đồng giá trị máy móc thiết bị. Do vậy mà lợi nhuận chỉ tăng khoảng hơn 5 triệu. Đồng thời các khoản nộp ngân sách thì tăng nhiều và khả năng nộp ngân sách cũng tăng khoảng 14.726,5 đồng trên 1 triệu giá trị máy móc thiết bị. Năm 2002, tất cả các chỉ tiêu đều giảm so với năm 2001. Ta thấy tất cả các chỉ tiêu hệ số huy động công suất, hệ số huy động thời gian làm việc của Nhà máy đều tăng năm sau cao hơn năm trước, do vậy mà sức sản xuất theo sản lượng tăng nhưng do một số nguyên nhân , nên sức sản xuất của máy móc thiết bị theo doanh thu năm 2002 lại giảm so với năm 2001 đó là nguyên nhân khách quan thuộc về NXBGD. 3. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí khấu hao máy móc thiết bị. Ta có thể tính như sau: KDT = Tổng doanh thu Khấu hao máy móc thiết bị KLn = Tổng lợi nhuận Khấu hao máy móc thiết bị Hai chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí khấu hao tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc lợi nhuận. Cụ thể ta có thể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0104.doc