Đề tài Một số biện pháp mở rộng quan hệ tín dụng Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Standard Chartered, Hà Nội

Thực tế cho vay khu vực ngoài quốc doanh của các Ngân hàng khác cho thấy các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành nghề khách nhau do đó gây khó khăn không nhỏ cho các cán bộ tín dụng, một mặt do trình độ về mặt kỹ thuạt còn hạn chế nên kiểm tra chất lượng hàng hoá vật tư, tài sản thế chấp cho số tiền vay là rất khó chủ yếu dựa trên các chứng từ, giấy tờ để me xét giá trị vật tư.

Mặt khác do không nắm được thông số kỹ thuật cần thiết do đó nhiều khi cán bộ tín dụng dẫn đến tình trạng không hiểu cặn kẽ nên không biết có nên duyệt hay không.

Do đó, để nâng cao hiệu quả tín dụng đồng thời nâng cao năng lực và trách nhiệm của cán bộ tín dụng, Ngân hàng cần thiết phải tiến hành một số biện pháp nhằm nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng.

- Một là: Ngân hàng chỉ tuyển những người có trình độ đại học, có hiểu biết về kỹ thuật giỏi ngoại ngữ (đây là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên đối với việc chọn lực nhân viên làm việc của một chi nhánh Ngân hàng nước ngoài), tin học và đặc biệt ưu tiên cho những người có kinh nghiệm tín dụng để làm cán bộ tín dụng.

- Hai là: Tiếp tục nâng cao trình độ cán bộ tín dụng bằng cách cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm về nghiệp vụ tín dụng, cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu những kiến thức về tín dụng mới nhất.

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1033 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp mở rộng quan hệ tín dụng Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Standard Chartered, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trước nguy cơ rủi ro tín dụng lớn. Nhưng nếu Ngân hàng quá thận trọng trước rủi ro đạo đức, đột ngột cắt đứt hợp đồng tín dụng, Ngân hàng sẽ bị thiệt thòi về lãi, mặt uy tín với khách hàng. 3.2. Sự điều khiển của “bàn tay vô hình” – cơ chế thị trường Ngân hàng thương mại dùng nguồn vốn huy động được đem cho các cá nhân, các chủ doanh nghiệp cần vốn vay. Nếu vì một lý do nào đó người vay gặp rủi ro không hoàn trả được món tiền vay thì rõ ràng Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng, mà trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp rất dễ bị rủi ro. “Bàn tay vô hình” – cơ chế thị trường đang rình rập đe doạ các nhà kinh doanh cũng như đặt Ngân hàng trước nguy cơ rủi ro tín dụng. 3.3. Môi trường kinh tế Bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào đều chịu chi phối của môi trường xung quanh. Mỗi sự biến động của nó đều ảnh hương tốt hay xấu đến hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh tiền tệ nếu nhà Ngân hàng không dự đoán được sự biến động này sẽ dẫn đến sự làm ăn kém hiệu quả và gây ra những rủi ro. 3.4. Các nguyên nhân khách quan khác. Ngân hàng có thể gặp rủi ro tín dụng từ nguyên nhân khách quan khó lường trước được như người vay có thể gặp thiên tai, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, hoả hoạn… dẫn đến những việc không trả được nợ cho Ngân hàng. Mặt khác Ngân hàng dùng nguồn vốn huy động được của mình đem cho các doanh nghiệp, các cá nhân cần vốn vay. Nếu một lý do nào đó, người vay gặp rủi ro không hoàn trả được món tiền. Mà rủi ro ở các doanh nghiệp nảy sinh rất nhiều yếu tố khác nhau. Chẳng hạn như sản xuất ra sản phẩm không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, sản phẩm ứ đọng, không quay vòng vốn làm lợi nhuận giảm dẫn đến phá sản… và còn biết bao nhiêu những nguyên nhân nữa chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường đe doạ những nhà kinh doanh cũng như rủi ro tín dụng của Ngân hàng. II. Tín dụng và vai trò tín dụng Ngân hàng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. 1.1. Khái niệm về tín dụng. Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức xã hội khác nhau. Theo quan niệm truyền thống, tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển cho người khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật nào đó với những điều kiện nhất định mà hai bên thoả thuận, những điều kiện đó dùng về số lượng, chất lượng tiền tệ, thời hạn cho vay và khối lượng phải trả thêm. Đứng trên phương diện nghiệp vụ là bất cứ động tác nào đó, một người đưa vốn hoặc hứa đưa vốn cho người khác sử dụng cam kết bằng chữ là cho người này như đảm bảo, bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền. Trong thực tế hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng những ở bất kỳ dạng tín dụng nào cũng thể hiện hai mặt: người sở hữu một số tiền, hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định và đến thời hạn do hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn trả lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn, phần tăng thêm gọi là phần lời (lãi suất). 1.2. Các hình thức tín dụng chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, các tín dụng rất đa dạng và phong phú. Sự phát triển về kinh tế đã tạo ra điều kiện xuất hiện các hình thức tín dụng mới. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và pháp luật của mỗi nước mà việc áp dụng các hình thức tín dụng khác nhau. Các Ngân hàng Thương mại luôn luôn tìm cách sáng tạo ra các hình thức tín dụng mới phù hợp và đáp ứng được các nhu cầu của quá trình sản xuất nhằm đa dạng hoá các hình thức cho vay để mở rộng tín dụng thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng lợi nhuận và phân tán, giảm thấp tỷ lệ rủi ro. Theo tính chất đặc điểm của nghiệp vụ cho vay có một số hình thức tín dụng chủ yếu sau: Tín dụng vãng lai: Là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa Ngân hàng và khách hàng với nội dung đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của hình thức tín dụng này là Ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập của người vay đều nhập vào bên có và toàn bộ chi tiêu đều trích từ bên nợ. Khi không còn số dư có khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng đã thoả thuận trong hợp đồng vay vốn với một mức “dư nợ” tối đa nào đó. Ngân hàng chỉ khống chế số dư nợ mà không khống chế doanh số cho vay. Tín dụng chiết khấu: Trong các nước có nền kinh tế thị trường, kỳ phiếu thương mại được phát hành và lưu thông theo quy định của luật pháp. Người có kỳ phiếu đến hạn thanh toán, nếu cần tiền họ có thể đem bán cho Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng thương mại mua kỳ phiếu với giá bằng hiệu số mệnh giá ghi trên kỳ phiếu trừ đi lợi tức, hoa hồng và các khoản lãi suất khác. Ngân hàng trở thành chủ kỳ phiếu, đến hạn thanh toán xuất trình cho con nợ đòi thanh toán. Xét về bản chất kinh tế, mua kỳ phiếu thực chất là Ngân hàng cho người chủ kỳ phiếu vay tiền và chiết khấu kỳ phiếu là lãi suất tiền vay. Quan hệ mua bán kỳ phiếu với Ngân hàng được gọi là hình thức tín dụng chiết khấu. Như vậy, tín dụng chiết khấu là tín dụng ngắn hạn mà Ngân hàng chuyển tiền cho chủ kỳ phiếu dưới dạng mua kỳ phiếu chưa đến hạn thanh toán. Tín dụng nhận trả: Là hình thức Ngân hàng trả tiền thay cho người phát hành kỳ phiếu, khi đến hạn trả, nếu người phát hành kỳ phiếu không có khả năng trả nợ. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sở hữu kỳ phiếu. Vì thế người phát hành kỳ phiếu phải mất một tỷ lệ hoa hồng “nhận trả” cho Ngân hàng. Ngân hàng không thu lãi suất về tín dụng nhận trả vì thông thường Ngân hàng không dùng vốn tự có vào tín dụng này. Tín dụng cầm đồ: Là loại cho vay có thế chấp bằng bất động sản, tài sản cầm đồ chủ yếu là phải được Ngân hàng cất giữ, trường hợp cá biết có thể để ở kho chuyên dùng hoặc giao cho người vay giữ. Tài sản cầm đồ được đánh giá không phải bằng đúng toàn bộ giá trị của nó mà thường được đánh giá thấp hơn, để khi rủi ro có thể bán được ngay đủ bằng số nợ gốc và lãi. Tín dụng cầm đồ cho vay thời gian ngắn, mang tính chất thời vụ. Các động sản dùng để cầm đồ rất đa dạng: Chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn, hàng hoá, kim loại quý, sổ tiết kiệm… Tín dụng trả nhiều lần: Tín dụng trả nhiều lần là loại cho vay mà điều kiện trả nợ được phân ra làm nhiều thời hạn, mỗi thời hạn trả một lần. Loại tín dụng này rất phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của người vay vừa kích thích được tiêu thụ hàng hoá, mở rộng sản xuất và khuyến khích tiêu dùng. Tín dụng bảo lãnh: Là loại cho vay phát sinh do Ngân hàng nhận thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua (thuộc quyền bảo lãnh) không có khả năng thanh toán số nợ này. Ngân hàng thu dịch vụ phí bảo lãnh, mức thu phụ thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Hình thức bảo lãnh của Ngân hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh cung cấp hàng hoá, bảo lãnh thuê… Tín dụng bảo lãnh phát triển đã kịp thời đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi tiêu của các nhà sản xuất kinh doanh trong hoạt động kinh tế tiêu dùng và xã hội. Tín dụng thuê mua: Trong nền kinh tế thị trường tín dụng thuê mua rất phát triển. Đây là hình thức tín dụng cho người khác tạm sử dụng tài sản của người cho thuê trong một thời gian nhất định sau khi hết thời hạn được thuê, người đi thuê phải trả lại tài sản đó hoặc họ có thể mua luôn tài sản đó. Có rất nhiều hình thức cho thuê như: cho thuê nghiệp vụ (các hãng sản xuất kinh doanh lớn cho thuê sản phẩm của mình), cho thuê bất động sản (nhà cửa, văn phòng, khách sạn…), cho thuê động sản (ô tô, máy bay, máy móc thiết bị…). Các chủ cho thuê có thể là do các Ngân hàng trực tiếp, hoặc các công ty con của Ngân hàng hoặc các công ty chuyên doanh thuê độc lập. Qua các hình thức tín dụng Ngân hàng trên, chúng ta thấy rằng hình thức tín dụng là một sản phẩm hàng hoá của Ngân hàng thương mại trên thị trường kinh doanh tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về các loại hình tín dụng mới càng nâng cao. Đó là các sản phẩm độc đáo, tuyệt vời trên thị trường vốn để các nhà sản xuất kinh doanh và các tầng lớn dân cư lựa chọn. 2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Vốn là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy không một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển mà lại thờ ơ với việc tính toán làm sao để thu nhiều lợi nhuận. Để có vốn kinh doanh sẽ có hàng loạt các câu hỏi được đặt ra và một điều có thể trả lời dứt khoát là trong nền kinh tế thị trường muốn kinh doanh phải có vốn ban đầu. Như vậy vốn kinh doanh sản xuất đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng rất quan trọng. Ra đời trong nền kinh tế hậu chiến phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm, không có quá trình tụ vốn và tập trung vốn nên vốn tự có của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh còn rất nhỏ bé và nghèo nàn. Đó là một khó khăn lớn hạn chế khả năng mở rộng kinh doanh, giảm sức cạnh tranh trên thương trường làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Khi mà kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp tới 69% tổng sản phẩm xã hội thì việc đa số các doanh nghiệp trong khu vực này phải đương đầu với bài toán thiếu vốn là đương nhiên. Tình trạng thiếu vốn xảy ra ở khoảng 65 – 70% số doanh nghiệp và không phải chỉ ở thời điểm khi thành lập doanh nghiệp mà nó còn diễn ra ở cả trong quá trình sản xuất kinh doanh sau này. Do nguồn vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu là nguồn vốn tự có, nguồn vốn vay bên ngoài rất ít, chỉ chiếm khoảng 26% tổng số vốn, trong đa phần là vay của bạn bè, người thân, không phải trả lãi nên vốn của họ chủ yếu nằm dưới dạng máy móc, thiết bị nhà xưởng, sạp hàng. Vì vậy khi phải huy động những khoản vốn lớn để tiến hành sản xuất hay để đầu tư mở rộng, các doanh nghiệp này phải cần đến sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nói chung, do các doanh nghiệp mới chỉ thực sự phát triển trong mấy năm gần đầy, cơ sở vật chất còn nhỏ bé, mức độ tin cậy đối với Ngân hàng còn chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong khi đi tìm vốn có lãi suất hợp lý hoặc vay vốn của Ngân hàng. Việc thiếu vốn để có thể đầu tư một cách thích đáng vào sản xuất cùng với trình độ trang thiết bị kỹ thuật còn rất kém, công nghệ còn chắp vá và nói chung thiếu đồng bộ đã và đang làm giảm ưu thế của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và thực sự cản trở sự phát triển của nó. Từ những khó khăn trên đòi hỏi nhà nước ta phải có sự quan tâm thích đáng với các chính sách hữu hiệu, nâng đỡ sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên để giảm bớt những khó khăn của khu vực kinh tế này khiến cho chúng có thể phát triển xứng đáng với tiềm năng của mình thì không thể thiếu được bàn tay của các “bà đỡ”, đó là các Ngân hàng thương mại trong đó bao gồm cả các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. 3. Nhu cầu mở rộng tín dụng Ngân hàng với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh: Trước đây khách hàng của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoàn toàn là các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, các chi nhánh công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các công ty liên doanh hoặc một vài doanh nghiệp nhà nước có tiếng và làm ăn có lãi. Đối tượng cho vay rất hạn hẹp vì vậy hoạt động của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tuy làm ăn có lãi nhưng hầu hết chưa đóng góp được nhiều cho sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khách ở Việt Nam, mà các thành phần này lại là một thị trường vô cùng rộng lớn đối với các hoạt động tài chính của Ngân hàng. Trong khi đó với cơ chế thị trường khắt khe, nhiều doanh nghiệp quốc doanh không trụ được đã buộc phải phá sản thì trong nền kinh tế Việt Nam xuất hiện một loạt chủ thể mới với cách làm ăn năng động, linh hoạt đầy sáng tạo đã nổi lên kinh doanh hết sức hiệu quả như các công ty cổ phần, các công ty TNHH… Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả mà trong khi đó nguồn vốn cho vay của Ngân hàng nói chung lại được sử dụng chưa có hiệu quả và thừa vốn. Tình trạng trên buộc các Ngân hàng Việt Nam nói chung và các Ngân hàng nước ngoài nói riêng phải tìm thêm các khách hàng mới. Thực tế cho thấy nếu các Ngân hàng có các quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì hiệu quả đồng vốn mang lại rất cao do đó trong giai đoạn hiện nay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được các Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Hiện nay với điều kiện kinh tế nước ta, khi mà thị trường vốn chưa có, thị trường chứng khoán chưa được thành lập, các hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân bị đổ bể hàng loạt hoặc hoạt động cầm chừng thì thị trường này hiện đang bị bỏ ngỏ. “Khoảng trống thị trường” mà khi tiếp cận được với loại thị trường này thì hiệu quả kinh tế rất cao. Do vậy tìm mọi biện pháp để thúc đẩy mạnh việc cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là mục đích của các Ngân hàng thương mại Việt Nam và chiến lược phát triển lâu dài của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Trên đây chúng ta đã nghiên cứu các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại nói chung và các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nói riêng. Khi các Ngân hàng mà gặp phải rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán. Ngân hàng không có tiền để trang trải nợ nần cho khách hàng dẫn đến mất uy tín. Và trong nền kinh tế thị trường thì nếu một Ngân hàng nào đó mà mất uy tín thì khó có thể trụ được. Rủi ro xảy ra cho một Ngân hàng dễ kéo theo sự phá sản của hàng loạt Ngân hàng khác gây nên một loạt các ảnh hưởng, sự suy thoái đối với nền kinh tế xã hội. Để mở rộng được cho vay với các thành phần kinh tế quốc doanh, vừa khắc phục những hậu quả trên sẽ được đề cập ở chương III. Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng quan hệ tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng Standard Chartered, Hà nội Qua tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý thuyết cũng như phần thực tiễn của Ngân hàng Standard Chartered, Hà Nội chúng ta thấy xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay trên toàn quốc nói chung và địa bàn Hà Nội nói riêng là rất mạnh. Để bước sang một giai đoạn mới, trong đó có hạch toán kinh doanh thực sự, người chủ xí nghiệp là người có trách nhiệm chính đối với tài sản và vốn liếng của doanh nghiệp mình quản lý. Người lao động được khuyến khích bằng lợi ích kinh tế ở chế độ tiền lương, thu nhập của họ phụ thuộc trực tiếp vào kết quả kinh doanh. Cũng chính vì vậy nền kinh tế bắt đầu bước vào cạnh tranh và trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Sự cạnh tranh này đã đào thải những đơn vị làm ăn kém và thúc đẩy các cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả ra đời và phát triển nhanh chóng cả về số lượng cũng như quy mô, chất lượng. Trong tương lai nền kinh tế thị trường ở nước ta, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mở rộng cả quy mô lẫn phạm vi hoạt động. Sẽ có nhiều cơ sở ngoài quốc doanh nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, cũng như trong từng khu vực. Trên địa bàn Hà Nội tuy các cấp, các ngành đã có sự quan tâm tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vươn lên giữ đúng vị trí của mình, song tốc độ phát triển nói chung còn chậm, chưa xuất hiện những ngành sản xuất điển hình, nhân tố mới. Đặc biệt kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát triển xứng đáng với tiềm năng, ưu thế của nó. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời chỉ thiên lệch về kinh doanh, buôn bán và dịch vụ, ít tập trung vào sản xuất vì hướng vào sản xuất thì khó và lâu thu hồi về vốn. Để phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tới một trình độ nhất định, Ngân hàng trong nước nói chung và các Ngân hàng nước ngoài nói riêng phải đóng vai trò là chỗ dựa tin cậy, là người bạn lớn góp phần quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về vốn để tạo cho họ điều kiện bước vào sản xuất kinh doanh được thuận lợi. Bởi vì ai cũng biết muốn sản xuất kinh doanh phải có vốn. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sẽ tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển và cũng là góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. I. Kiến nghị đối với nhà nước và cơ quan pháp luật. 1. Ban hành, hoàn thiện và đồng bộ hoá các bộ luật, văn bản luật có liên quan để tạo môi trường kinh tế và pháp lý vững chắc cho sự hoạt động của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Bởi lẽ tín dụng Ngân hàng chỉ có thể có hiệu quả trên cơ sở nền sản xuất phát triển thực sự. Do vậy muốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như Ngân hàng phát triển thì phải có một môi trường kinh tế xã hội… nói chung và môi trường pháp lý nói riêng, hoàn thiện và ổn định. Giúp cho các Ngân hàng yên tâm đầu tư vốn đối với các doanh nghiệp quốc doanh cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể yên tâm bỏ vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để thucd đẩy sản xuất của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên cơ sở đó: Tại quyết định 198/QQĐ - NH4 ngày 16/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và các văn bản hướng dẫn của Tổng giám đốc cá Ngân hàng thương mại đều quy định một trong những điều kiện vay vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là phải tuân thủ chế độ kế toán thống kê của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế qua thanh tra, kiểm tra của các cấp các ngành đều tổng kết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa chấp hành nghiêm túc. Điều này biểu hiện rõ nhất qua thu nhập ảnh hưởng tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều thấy có lãi. Song thông tin từ ngành thuế thì người lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kêu thua lỗ, không có nguồn để nộp thuế. Đây là những nghịch lý khó chấp nhận, do vậy để Ngân hàng có những thông tin chính xác và kịp thời về các đơn vị vay vốn ngoài quốc doanh đề nghị Nhà nước phải có chính sách buộc doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và các đơn vị kinh tế nói chung phải thực hiện lệnh kế toán thống kê một cách đầy đủ và tự giác. Việc ban hành các Bộ luật đồng bộ, ngoài việc tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn la cơ sở để cơ quan chức năng thực hiện tốt hoạt động của mình một cách tốt hơn. Nếu bộ luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân đã được ban hành, có thêm luật phá sản doanh nghiệp từ khi bắt đầu đến khi kết thúc sự việc, giúp cho các cơ quan khác có liên quan, đặc biệt là Ngân hàng chủ động hơn trong quan hệ tín dụng đối với các doanh nghiệp. Hơn nữa, khi các Bộ luật được ban hành rồi, Nhà nước nên có những quy định chặt chẽ để các Bộ luật sớm đi vào thực hiện. Trong quá trình thực hiện có gì sửa đổi thì các cơ quan thẩm quyền có thể thông báo trước cho các cơ quan thi hành để đảm bảo quyền lợi cho họ. Tránh những thay đổi bất thường gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp. Như vậy, việc ban hành hoàn thiện đồng bộ hoá là hết sức cần thiết đối với kinh tế ngoài quốc doanh cũng như hoạt động của các Ngân hàng. 2. Tạo guồng máy hoạt động nhịp nhành với các cơ quan Nhà nước, các ngành các cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt được nhịp độ khẩn trương, sôi động hơn nữa. Việc hoạt động đồng bộ của các cơ quan như : Uỷ ban nhân dân của các cấp, Uỷ ban hợp tác và đầu tư, Bộ công nghiệp, Thương nghiệp, Tài chính, Ngân hàng, Toà án nhân dân các cấp, Công an là hết sức cần thiết vì nhờ đó mà các doanh nghiệp có thể nhanh chóng triển khai hoạt động và hoạt động có hiệu quả, hay chính là yếu tố khách quan để khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đẩy nhanh tiến độ hoạt động, phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt để đảm bảo cho khách hàng ngoài quốc doanh thực hiện đầy đủ các hồ sơ vay vốn theo quy định, hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng được đảm bảo an toàn, các phòng công chứng Nhà nước kết hợp với các cơ quan khác cần hoạt động có hiệu quả đáp ứng nhanh chóng kịp thời chính xác cho khách hàng. 3. Nâng cao trình độ dân trí: Vấn đề nâng cao sự hiểu biết của các tầng lớp nhân dân trong xã hội về Ngân hàng và hoạt động của nó hiện nay làm cơ sở thúc đẩy phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng. Để làm được điều đó, Nhà nước có thể quan tâm hơn nữa tới việc đầu tư giáo dục vì đây là nơi nuôi dưỡng sự trưởng thanhf của mỗi công dân. Trong thực tế, số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay còn kém hiểu biết về nhiều mặt, nhất là kiến thức kinh tế xã hội, đó chính là một nguyên nhân gây ra “đổ vỡ” trong sản xuất kinh doanh. Trước tình hình đó, nên chăng Nhà nước có quy định đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải trải qua một lớp đào tạo nhất định về chuyên môn, về quản lý kinh doanh nhằm hướng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đi vào quỹ đạo chung của sự phát triển. Trước mắt để khắc phục tình trạng này cần có lớp bồi dưỡng cho các chủ doanh nghiệp đang hoạt động nhưng chưa có bằng cấp. Đồng thời Nhà nước có thể có các hoạt động tư vấn về pháp luật… giúp cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả, phù hợp với định hướng chung của Nhà nước. Đó là tiền đề cho sự phát triển của tín dụng Ngân hàng. II. Đối với Ngân hàng Standard Chartered mẹ 1. Hoàn thiện cơ chế cho vay ngoài quốc doanh Đối với một Ngân hàng nước ngoài Standard Chartered thì việc thâm nhập vào thị trường tín dụng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là rất khó khăn và mới mẻ. Cơ chế cho vay đối với khu vực này còn chưa được hoàn thiện vì đối tượng cho vay chủ yếu của Ngân hàng là các công ty nước ngoài hoạt động trên thị trường quốc tế và chủ yếu đã có quan hệ tín dụng lâu đời vơí tập đoàn Standard Chartered. Đối với các đối tượng trên thì việc cho vay của Ngân hàng được diễn ra tương đối thuận lợi vì cơ chế vho vay đã được hình thành và hoàn thiện. Tuy vậy một trong các chiến lược của tập đoàn là thâm nhập được vào thành phần kinh tế này vì hiện nay thành phần kinh tế này tuy không phải là lớn nhưng cũng chiếm một phần không nhỏ trong tỷ trọng nền kinh tế quốc dân. Nhận thức được điều này Ban giám đốc Ngân hàng Standard Chartered, chi nhánh Hà Nội đã đề nghị tập đoàn xem xét và xây dựng một cơ chế cho vay phù hợp và linh hoạt hơn với khu vực kinh tế ở Việt Nam. Một vấn đề mà Ngân hàng trung ương cần quan tâm đó là việc cho vay vốn bằng các tài sản thế chấp. Đây có thể không phải là một vấn đề mới mẻ trong hoạt động tín dụng đối với Ngân hàng khác nhưng đối với Ngân hàng nước ngoài thì cũng là một vấn đề khó khăn. Trước đây và hiện nay trong lĩnh vực tín dụng cho vay Ngân hàng không coi trọng vấn đề thế chấp mà chủ ý chủ yếu đến năng lực hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp, sau đó sẽ cấp cho doanh nghiệp các hạn mức tín dụng để doanh nghiệp có thể sử dụng đẻ vay vốn của Ngân hàng. Nhưng tỏng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chủ yếu chỉ có hai thành phần là các công ty nước ngoài và các xí nghiệp và công ty liên doanh là đáp ứng được thủ tục cho vay vốn hiện nay của Ngân hàng. Để mở rộng được đối tượng cho vay mà cụ thể các thành phần khác của khu kinh tế ngoài quốc doanh thì Ngân hàng cần phải xem xét đến các yếu tố khác đặc biệt là vấn đề thế chấp của các doanh nghiệp này. Nhưng việc cho vay theo quy định phải có tài sản đảm bảo làm cơ sở để Ngân hàng thu hồi vốn khi có rủi ro xảy ra hiện nay cũng chưa được Ngân hàng trung ương quy định cụ thể. Theo quy định của pháp luật thì tài sản đem thế chấp đó phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay vốn. Để chứng minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay vốn, khách hàng phải có giấy tờ gốc hợp lệ. Song phần lớn không có hoặc có nhưng không đầy đủ do chiến tranh mất mát, thừa kế… nên mặc dù tài sản thuộc sở hữu của họ nhưng đủ điều kiện để vay vốn. Để khắc phục thực tế trên, Ngân hàng trung ương có thể kết hợp cùng với cơ quan quản lý ngành dọc như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm của các Ngân hàng khác trong nước và nước ngoài để tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm tránh được tranh chấp về sở hữu, sử dụng đất đai khi rủi ro tín dụng xảy ra. Đồng thời Ngân hàng có thể thực hiện công tác kinh doanh tín dụng nói chung và thẩm định cho vay nói riêng dễ dàng hơn. 2. Trong thời gian trước mắt Ngân hàng Standard Chartered trung ương nên có những hỗ trợ nhất định đối với Ngân hàng chủ yếu phục vụ kinh tế ngoài quốc doanh. Như đã phân tích ở trên Ngân hàng Standard Chartered chỉ có quan hệ tín dụng với một số ít khách hàng nên việc cho vay với các thành phần kinh tế khác như công ty cổ phần và các công ty TNHH là rất phức tạp và khó khăn, khó kiểm tra theo dõi vì khối lượng cho vay của các đối tượng này là các món vay có số lượng nhỏ, lắt nhắt. Để theo sát khách hàng trong quá trình sử dụng vốn thì thời gian và công sức bỏ ra nhiều hơn đối với món vay của doanh nghiệp quốc doanh và các thành phần kinh tế khác như công ty nước ngoài và các xí nghiệp liên doanh. Rủi ro tín dụng lại lớn hơn do việc sản xuất kinh doanh của khu vực ngoài quốc doanh rất hay biến động và mạo hiểm hơn khu vực kinh tế quốc doanh. Hơn nữa, do quan hệ Ngân hàng với khu vực ngoài quốc doanh còn ít, không thường xuyên nên nguồn thông tin cũng như nguồn vốn huy động từ khu vực này còn rất hạn chế. Nên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0909.doc
Tài liệu liên quan