Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao công tác giám định - Bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội

Lời mở đầu 1

Chương I. Lý luận chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển và công tác giám định -bồi thường trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu 3

I. Sự cần thiết phải bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển đường biển 3

II. Rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 5

1. Rủi ro 5

2. Tổn thất 10

2.1. Căn cứ vào quy mô, mức độ xảy ra tổn thất thì có hai loại là tổn thất bộ phận và tổn thất toàn bộ 10

2.2. Nếu phân loại theo trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất bao gồm tổn thất và tổn thất chung 11

III. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 13

1. Đối tượng bảo hiểm 14

2. Điều kiện bảo hiểm 15

3. Giá trị bảo hiểm, phí bảo hiểm 17

IV. Công tác giám định và bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biênr 19

A. Công tác giám định 19

1. Vai trò của công tác giám định 19

2. Yêu cầu giám định 22

3. Quy định giám định 24

B. Công tác bồi thường 35

1. Vai trò 35

 

doc97 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1001 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao công tác giám định - Bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ét quyết định bồi thường cuối cùng. Sau khi nhận được tiền bồi thường và thông báo chấp nhận bồi thường từ phía Công ty bảo hiểm Hà Nội, Tổng Công ty làm công văn thông báo bồi thường cho khách hàng, vào sổ bồi thường đại lý và tiến hành thủ tục chuyển trả tiền cho khách hàng sau khi trừ đi phần phí đại lý của đại lý Bảo Việt. Bước3. Tính toán bồi thường Sau khi xác định được tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm tức là mặt định tính, thì công việc tiếp theo của người giải quyết khiếu nại là xem xét mức độ tổn thất và tính toán bồi thường của người bảo hiểm, tức là định lượng. Đây là khâu công việc quan trọng có tính quyết định đến mức độ bù đắp của người bảo người bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hóa được bảo hiểm. Có thể có các trường hợp sau: a. Tổn thất toàn bộ: bao gồm tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính. Bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc Đơn bảo hiểm. b. Tổn thất bộ phận: Căn cứ vào biên bản Giám định hoặc các chứng từ pháp lý khác có xác nhân của người gây ra tổn thất về số lượng hàng bị mất mát, hao hụt, hư hỏng hay giảm giá trị thương mại. Chuyên viên bồi thường phân chia tổn thất thành ba loại và tính toán cụ thể như sau: b1. Tổn thất số lượng ( trường hợp không giao hàng, mất trộm mất cắp, thiếu hụt ) Nếu giá trị của từng đơn vị hàng bằng nhau: Số tiền bồi thường = - Nếu giá trị hàng của từng đơn vị khác nhau: STBT = b2. Tổn thất chất lượng ( các trường hợp như rỉ, đỏ vỡ, hư hỏng...) Đối với tổn thất chất lượng, có ba cách tính toán bồi thường đó là bồi thường giảm giá trị thương mại, bồi thường tổn thất trừ phần cứu với được và thoả thuận bồi thường riêng. - Giảm giá trị thương mại: Chuyên viên bồi thường tính toán số tiền khiéu nại bằng cách nhân số tiền bảo hiểm của hàng hoá bị tổn thất với tỷ lệ phần trăm giảm giá trị thương mại. - Tổn thất trừ phần cứu với: Chuyên viên bồi thường sẽ tính số tiền bồi thường là số chênh lệch giữa số tiền bảo hiểm của hàng hoá bị tổn thất cứu vớt được, thường áp dụng trọng trường hợp phải bán hàng để hạn chế tổn thất. - Thoả thuận bồi thường tổn thất riêng: áp dụng trong trường hợp khách hàng không chấp nhận tỷ lệ giảm giá trị thương mại do Chuyên viên bồi thường hoặc giám định viên đưa ra. Khi đó sẽ áp dụng cách tính này để tránh tranh chấp bồi thường giữa Công ty bảo hiểm và người đọc bảo hiểm STBT = b3. Sửa xhữa máy móc thiết bị: Nếu không có giá trị chi tiết phụ tùng thì bồi thường theo giá sửa chữa hoặc giá chi tiết tương tự của hợp đồng khác c. Tổn thất về chi phí: Ngoài tổn thất hàng do những rủi ro được bảo hiểm gây nên, những chi phí hợp lí sau đây cũng sẽ được bồi thường + Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất: bao gồm những chi phí cần thiết hợp lí đã chi ra nhằm ngăn ngừa tổn thất hoặc bảo vệ hàng bị tổn thấ khi gặp rủi ro bảo hiểm. Tổng những chi phí này không được vượt quá số tiền bảo hiểm, thường bao gồm các chi phí như chi phí đóng gói, thay bao bì cứu hàng, bán hàng, lưu kho bãi, gửi tiếp hàng về cảng đích... + Chi phí riêng: là những chi phí được chi ra bởi ngưòi được bảo hiểm hoặc người thứ ba nhân danh người được bảo hiểm và chi phí này không thuộc chi phí tổn thất chung hoặc chi phí cứu hộ hoặc chi phí đề phòng tổn thất. Chi phí riêng thông thường là chi phí dỡ hàng, bảo quản và xếp lại hàng tại cảng lánh nạn. + Chi phí đóng góp tổn thất chung + Chi phí cứu hộ + Chi phí khác: Như chi phí giám định, phục vụ giám định hoặc kiểm tra lại tai nạn làm tổn thất hàng. Chi phí này chỉ được thanh toán khi nào tổn thất được bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm. * Nếu số tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị bảo hiểm thì tính toán bồi thường theo tỷ lệ. Nếu số tiền bảo hiểm cao hơn giá trị bảo hiểm thì phần cao hơn không có giá trị bồi thường * Đối với vụ tổn thất phức tạp có số tiền bồi thường lớn, phải có ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Phong trước khi trình Lãnh đạo Tổng Công ty. Tùy từng trường hợp có thể thám khảo ý kiến tư vấn của các chuyên gia kỹ thuật (nếu cần). * Đối với trường hợp đóng góp tổn thất chung: sau khi nhận được bản phân bổ tổn thất chung từ người tính toán phân bổ tổn thất chung do chủ tàu chỉ định, Chuyên viên nghiệp vụ kiểm tra xem việc phân bổ có đúng và phù hợp với luật chi phối tổn thất chung được quy định trong vận tải đơn hoặc hợp đồng chuyên chở hay không. Nếu việc phân bổ đó chưa đúng hoặc có ý kiến gì khác thì trao đổi lại với nhà phân bổ để điều chỉnh lại * Một số ví dụ về tính toán tính toán bồi thường Ví dụ1: - Người được bảo hiểm:Công ty sản xuất và dịch vụ vật tư kỹ thuật Hàng hóa : 1000 tấn lúa mì chở rời nhập khẩu theo giá FOB Giá trị bảo hiểm: $ 500.000 ĐIều kiện “A” Thiếu hụt trọng lượng 20 tấn hoặc 2% STBT: $ 500.000 x ( 2% - 1% ) = $ 5000 Ví dụ 2: Người được bảo hiểm là Công ty vật tư khoa học ký thuật ( LASICO., LTD) Hàng hóa : 02 máy nước cất HAMILTON STBH : 93.000.000 VND Mức độ tổn thất: Vỡ 03 ống sịnh hàn Đơn bảo hiểm: 01/HNK/HAN-2001 STBT chính là giá trị thay thế mới của 03 ống sinh hàn : 13.500.000 VND Bước 4: Trình duyệt Chuyên viên bồi thường làm tờ trình duyệt bồi thường trong đó phân tích nguyên nhân tổn thất, phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm và cách tính số tiền bồi thường, nêu rõ lý do chấp nhận bồi thường hoặc từ chối, lý do tăng giảm số tiền bồi thường, đòi người thứ ba... Lãnh đạo Phòng ký trình Lãnh đạo Tổng Công ty. Nội dung của tờ trình duyệt bồi thường bao gồm các nội dung sau: + Tên người được bảo hiểm + Đối tượng được bảo hiểm + Đơn bảo hiểm số: Thời hạn bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm... Đã thanh toán phí bảo hiểm ngày:... + Tóm tắt sự kiện bảo hiểm + ý Kiến phòng nghiệp vụ + Số tiền bồi thường + Số tiền khấu trừ/ Số tiền đã tạm ứng + Xác nhận của phòng kế toán. + Đóng góp ý kiến của các phòng liên quan (Pháp chế, Phòng quản lý...) Đối với những vụ phức tạp có thể đề suất chuyển qua lấy ý kiến của Phòng Tổng hợp Pháp chế và các phòng có liên quan. Chuyển Phòng Kế toán xác nhận số phí bảo hiểm của đơn bảo hiểm đã được thanh toán. Trường hợp có ý kiến trái ngược, cần xem xét lại để có ý kiến thống nhất trước khi trình Lãnh đạo Tổng Công ty. Sau khi Lãnh đạo Tổng Công ty đồng ý bồi thường, lập bản thanh toán bồi thường hoặc làm công văn thông báo cho khách hàng biết về việc giải quyết hồ sơ khiếu nại. Vào sổ thanh toán bồi thường Chuyên viên bồi thường làm tờ trình duyệt cho Lãnh đạo phòng ký (Nếu thuộc phân cấp của phòng) Trường hợp trên phân cấp thì Lãnh đạo Phòng phải trình lên cấp trên xét Sau đó chuyển phòng kế toán xác nhận sốphí bảo hiểm của đơn bảo hiểm đã được thanh toán Bước 5: Thông báo bồi thường Bước 6: Đòi người thứ ba, xử lý tài sản hỏng (nếu có) Chương II Thực trạng công tác giám định bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm Hà nội I Quá trình hình thành và cơ cấu tổ chức của công ty Bảo hiểm Hà Nội 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bảo hiểm Hà Nội. Công ty bảo hiểm Hà Nội thành lập năm 1980 theo quyết định 1125/QD-TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài Chính và trực thuộc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.Với nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội .Khi mới thành lập có tên là chi nhánh bảo hiểm Hà Nội đến ngày 17/02/1989 Bộ Tài Chính đã ra quyết định chuyển chi nhánh bảo hiểm Hà Nội thành Công ty bảo bảo hiểm Hà Nội Trải qua 21 năm liên tục, Công ty đã không ngừng lớn mạnh về cả chiều rộng lẫn chiều sâu.Từ lúc đầu thành lập chỉ có 10 cán bộ với 1 phòng nhỏ làm trụ sở ,đến nay bảo hiểm Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế hùng mạnh với đội ngũ gần 160 cán bộ bảo hiểm ,trụ sở chính khang trang ,mười hai văn phòng đại diện ở tất cả các quận huyện ,cùng với mạng lưới đại lý, cộng tác viên phủ kín các địa bàn dân cư của thành phố. Công ty sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của nhân dân, trở thành một trong những đơn vị chủ lực của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Trong quá trình hoạt động Công ty luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty, và nhà nước giao cho. Năm nào công ty cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh số, và tỷ lệ tích lũy, đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam nói riêng và của ngành bảo hiểm nói chung Công ty Bảo hiểm Hà Nội có nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên địa bàn thủ đô Hà Nội bao gồm tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai tại Tổng công ty bảo Hiểm Việt Nam + Bảo hiểm tai nạn con người. + Bảo hiểm sinh mạng cá nhân + Bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật + Bảo hiểm tai nạn khách du lịch + Bảo hiểm tai nạn hành khách + Bảo hiểm ô tô, xe máy( trách nhiệm dân sự, vật chất xe ) + Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển + Bảo hiểm thân tầu và trách nhiệm của chủ tầu + Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt + Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt + Bảo hiểm học sinh + Bảo hiểm vận chuyển tiền + Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba + Bảo hiểm trộm cắp + Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí + Bảo hiểm tai nạn người sử dụng điện.. Công ty không trực tiếp tham gia tái bảo hiểm mà tái bảo hiểm thông qua Tổng công ty, nhưng thực tế Tổng công ty chỉ là chỉ đạo gián tiếp có chất vĩ mô ,tạo điều kiện cho Công ty hoạt động. Thực chất Công ty bảo hiểm Hà Nội là một tổ chức kinh doanh lớn, có đầy đủ tư cách pháp nhân có quyền quyết định phương thức kinh doanh lớn, quy trình nghiệp vụ. Về tổ chức công ty có quyền quyết định thành lập hay bãi bỏ các phòng ban, bổ nhiệm phụ trách phòng, được phân cấp quản lý cán bộ.Được áp dụng các hình thức tiền lương,tiền thưởng theo chế độ chính sách quy định của nhà nước 2. Cơ cấu tổ chức của công ty Bảo hiểm Hà Nội Bước vào thời kỳ đổi mới, Công ty bảo hiểm Hà Nội đã phải liên tục kiện toàn, củng cố lại đội ngũ của mình, sắp xếp đào tạo lại cán bộ. Đến nay, bộ máy của công ty đã tương đối hoàn chỉnh, đáp ứng được nhu cầu công việc trong tình hình hiện nay. Cụ thể bao gồm : * Ban giám đốc: gồm có một giám đốc và hai phó giám đốc cùng đIều hành kinh doanh thao từng mức độ khác nhau. * Bảy phòng ban chức năng: Phòng kế toán tài vụ: chịu trách nhiệm quản lý tài chính của Công ty, điều hành các hoạt động đầu tư, tổ chức hạch toán theo các chế độ nhà nước quy định Phòng tin học: tổ chức hệ thống thông tin chung của toàn cơ quan, thực hiện công tác thông kê nghiệp vụ, thiết lập các báo cáo thống kê ,quản lý các thiết bị tin học trong công ty Phòng quản lý đại lý: Phòng có nhiệm vụ tổ chức, quản lý và đào tạo mạng lưới đại lý của công ty theo từng phòng, khu vực của công ty Phòng giám định bồi thường: thực hiện các công tác giám định bồi thường trên phân cấp theo quy định của các phòng nghiệp vụ và văn phòng đại diện. Phòng kiểm tra nội bộ: đảm bảo việc chấp hành các nội qui quy định của nhà nước, của Công ty, của ngành, triển khai hoạt động bảo hiểm được nghiêm chỉnh. Đồng thời ngăn chặn những hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm Phòng Marketing: tổ chức việc triển khai sản phẩm, tiến hành xúc tiến những sản phẩm bảo hiểm, xây dựng chương trình quảng cáo, điều tra nghiên cứu thị trường ... Phòng tổng hợp hành chính: trực tiếp tiến hành công tác tổ chức cán bộ , quảng cáo tuyên truyền, hành chính quản trị , pháp chế , quản lý tài sản.Tạo các điều kiện tốt nhất cho các phòng nghiệp vụ tiến hành công việc * Năm phòng nghiệp vụ: - Phòng bảo hiểm phi hàng hải: triển khai các nghiệp vụ phi hàng hải, chịu trách nhiệm về các chế độ chính sách trong việc triển khai các nghiệp vụ. Tổ chức và điều hành công tác xác minh, giám định, bồi thường tại phòng và tại các văn phòng. - Phòng bảo hiểm cháy : triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm cháy - Phòng bảo hiểm rủi ro kỹ thuật: triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro kỹ thuật - Phòng bảo hiểm hàng hải: triển khai các nghiệp vụ hàng hải, chịu trách nhiệm về các chính sách, chế độ trong việc triển khai các nghiệp vụ. Tổ chức công tác xác minh, giám định bồi thường của các nghiệp vụ hải - Phòng bảo hiểm quốc phòng: triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm quốc phòng, chịu trách nhiểm trong việc quản lý thuộc phạm vi nghiệp vụ của mình - Mười hai văn phòng đại diện tại tất cả các quận huyện cùng mạng lưới đại lý, cộng tác viên trên các địa bàn. Năm phòng nghiệp vụ và mười hai văn phòng đại diện là các đợn vị trực tiếp tiến hành triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Các đơn vị này không thực hiện hạch toán độc lập nhưng có toàn quyền quyết định kinh doanh của mình ở mức phân cấp cho phép và được hưởng lương và các chế độ khác nhau theo doanh thu. Bảy phòng chức năng và Năm phòng nghiệp vụ có quan hệ mật thiết với nhau và cùng phối hợp với ban giám đốc đánh giá tình hình hoạt đông kinh doanh, đưa ra các quy định nghiệp vụ, đề ra các biện pháp , kịp thời với tình tình. Sơ đồ 1 : Tổ chức của Công ty Bảo hiểm Hà Nội Giám đốc P.Giám đốc 1 P.Giám đốc 2 P. tổng hợp P. kế toán P. kiểm tra nội bộ P. giám định bồi thường P. quản lý đại lý P. tin học P. BH phi hàng hải P. BH hàng hải P. BH cháy P. rủi ro kỹ thuật P. BH quốc phòng P. Marketing 12 phòng BH khu vực 3.Nhiệm vụ của phòng bảo hiểm hàng hải Phòng bảo hiểm hàng hải được thành lập theo quyết định số: 66/TCCB-97 ngày 17/04/1997 của Giám đốc Công ty bảo hiểm Hà Nội. Trước đây từ năm 1989 đến năm 1994 Bảo hiểm Hà Nội có triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải. Nhưng sau đó, nghiệp vụ này được chuyển hết lên Tổng công ty để thực hiện. Trong thời gian này tính cạnh tranh trên thị trường chưa mạnh, Bảo Việt lúc đó gần như độc quyền. Đến nay, trên thị trường đã có các công ty bảo hiểm khác nhau đang hoạt động - thị trường bảo hiểm trở nên sôi động hơn, tính cạnh tranh trở nên mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã thành lập lại phòng hàng hải tại Bảo Việt Hà Nội theo yêu cầu củng cố và tăng vị thế của Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm. Ngoài ra còn phải kể tới mục tiêu tăng doanh thu và lợi nhuận của Bảo Việt cùng với nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm nhằm phát triển và mở rộng quy mô của công ty. Thị trường hàng hóa XNK thường có giá trị lớn hứa hẹn nguồn thu phí lớn, đây cũng chính là sự quan tâm của người làm công tác lãnh đạo. Đến nay, phòng Bảo hiểm hàng hải của Công ty bảo hiểm Hà nội đã đi vào hoạt động được gần 5 năm. Với vị trí là một bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Bảo Việt Hà Nội, phòng có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Tuyên truyền, vận động thuyết phục khách hàng mua bảo hiểm hàng hóa với Bảo Việt Hà Nội. Chủ động quan hệ với các ban ngành từ trung ương đến địa phương các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các tổ chức môi giới bảo hiểm, các văn phòng đại diện bảo hiểm nước ngoài để thu thập các thông tin có ích cho công ty. Phòng có quyền ký, cấp đơn bảo hiểm trong phạm vi phân cấp. Phòng có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc việc thu phí đối với các hợp đồng bảo hiểm đã ký với khách hàng. Triệt để thực hiện các quy định của Tổng công ty về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa. Khi xuất hiện vấn đề hoàn phí, phòng phải báo cáo Giám đốc và thực hiện sự chỉ đạo của Giám đốc. Khi xét trả hoa hồng cho công tác viên, đại lý, phải trình lên giám đốc duyệt rồi mới thực chi. Tự nghiên cứu tình hình khả năng của mình để xây dựng kế hoạch kinh doanh và bảo vệ kế hoach kinh doanh của mình. Hướng dẫn về nghiệp vụ cho các phòng bảo hiểm quận, huyện giúp cho họ ký kết và cấp đơn bảo hiểm trong phạm vi phân cấp theo quy định của Tổng công ty. Khi xảy ra tổn thất, phòng bảo hiểm hàng hải phải thực hiện việc giám định thiệt hại và hướng dẫn khách hàng lập đầy đủ hồ sơ khiếu nại. Phòng có trách nhiệm xem xét tính đầy đủ hợp pháp, hợp lý của hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường trong phạm vi phân cấp. Trường hợp vượt quá phạm vi phân cấp phòng có trách nhiệm nghiên cứu kỹ, hoàn tất hồ sơ xét bồi thường trình bộ hồ sơ lên lãnh đạo công ty xét duyệt. Phòng tổ, hướng dẫn tốt công tác đại lý giám định theo phân cấp và theo quy định của công ty. Thực hiện tốt công tác thống kê nghiệp vụ và báo cáo theo quy định của Tổng công ty, Chịu trách nhiệm về các giao dịch với khách hàng thông qua thư tín cả trong và ngoài nước với điều kiện nội dung thư phải được giám đốc phê duyệt. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK được triển khai tại công ty bảo hiểm Hà Nội tuy được khai thác ở khắp các văn phòng đại diện của công ty tại từng quận huyện nhưng được thống nhất quản lý bởi phòng bảo hiểm hàng hải. Việc tổ chức thực hiện theo mô hình này của công ty sẽ tạo ra được môi trường kinh doanh tốt và vững vàng trên mọi khía cạnh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK. II. Thực trạng công tác giám định bồi thường hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển tại BVHN 1. Thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK và một số thuận lợi khó khăn đối với Công ty bảo hiểm Hà nội 1.1 Một số nét thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK 1.1.1..Tình hình hoạt động ngoại thương ở Việt Nam. Ngoại thương chiếm một vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. XNK là một nhân tố chủ yếu góp phần tăng thu nhập cho nền kinh tế. Bằng biện pháp xuất khẩu, sản xuất trong nước trong nước được thúc đẩy làm tăng tổng sản phẩm quốc dân , tăng tốc độ phát triển kinh tế. Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia, nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn có thể so với ranh giới khả năng sản xuất trong nước. Hiện nay tổng kim ngạch XNK nước ta đạt được đạt khoảng 30-35 tỉ đô la trong một năm. Điều này cho thấy thị thường bảo hiểm hàng hóa XNK hứa hẹn một tiềm năng rất lớn đối với các nhà bảo hiểm Việt Nam. Nhìn chung, thị trường XNK của VIệt Nam ngày càng mở rộng, hàng hóa ra vào các cảng biển ngày càng tăng. Trong những năm gần đây cơ cấu ngành nghề XNK có sụ dịch chuyển đáng kể, ngoài các mặt hàng nông sản xuất khẩu truyền thống như gạo, phân, cà phê.., hiện nay ngành Xuất khẩu thủy sản cũng tăng đáng kể đóng góp phần quan trọng trong kim ngạch XNK của Việt Nam hiện nay. Trong những năm gần đây, nghành công nghiệp nhẹ của ta có một bước phát triển đáng kể cả về chiều sâu và chiều rộng,đặc biệt là nghành may mặc, sản phẩm của nghành này đã được chấp nhận trên thị trường thế giới. Các mặt hàng nhập khẩu cũng đa dạng phong phú, hầu hết là những mặt hàng có giá trị cao để phục vụ cho các nhu cầu đời sống Xã hội. Có thể nói, trong một vài năm tới thị trường ngoại thương của Việt Nam ngày càng sôi động và cạnh tranh khốc liệt giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa nước người. Nhu cầu ngoại thương sẽ ngày càng lớn, với việc Việt Nam ra nhập AFTA sẽ mở ra những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. 1.1.2 Tình hình thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK đem lại nguồn thu phí tương đối lớn cho các công ty bảo hiểm. Hầu hết các công ty bảo hiểm thương mại ở Việt Nam đều triển khai nghiệp vụ này. Do vậy thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK trở nên ngày càng sôi động và mang tính cạnh tranh rất cao nhưng mà sự cạnh tranh mang dưới hình thức hạ tỷ lệ phí, mở rộng điều kiện bảo hiểm vẫn diễn ra. Các công ty môi giới bảo hiểm đã áp dụng phí bên ngoài để tranh thủ dịch vụ từ khách hàng là các nhà máy và các công ty liên doanh để buộc công ty bảo hiểm trong nước hạ phí, đây là một kiểu cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Công ty bảo hiểm. Trong khi đó có rất nhiều phương thức cạnh tranh khác đã đem lại những hiệu quả đáng kể và nâng cao uy tín của công ty bảo hiểm chẳng hạn như cung cấp thêm một số dịch vụ tốt hơn (thái độ phục vụ đối với khách hàng, quảng cáo, mở rộng và nâng cao trình độ, tư cách của mạng lưới đại lý và các công ty môi giới ...) đặc biệt là công tác “giám định-bồi thường” thuộc dịch vụ sau bán hàng có tác động lớn tới công ty. Kết quả hoạt động ngoại thương của Việt Nam cho thấy tổng kim nghạch XNK mỗi năm đạt khoảng trên 25 tỉ đô la. Nếu như tất cả lượng hàng hóa này đều mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm trong nước thì doanh thu của ngành bảo hiểm rất lớn. Tuy nhiên con số thực thu của nghành rất nhỏ, chỉ khoảng 20-25 triệu đô la, tương đương với khoảng 12-14%. Tổng số phí có thể thu được vì nhiều lý do như: khách hàng chưa tin tưởng vào bảo hiểm trong nước. Vị thế ngoại thương của các doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam còn thấp nên thường bị ép bởi các đối tác nước ngoài, công tác khai thác bảo hiểm chưa được tốt ... Hiên nay thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK Việt Nam có nhiều công ty tham gia : tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam (Bảo Việt), Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), Petrol Vietnam Insurance Company (PVIC), Công ty Bảo hiểm Nhà Rồng, Công ty Bảo hiểm Sài Gòn và một số công ty liên doanh, công ty môi giới tham gia. Sơ đồ 2: Biểu đồ thị phần bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển của các công ty bảo hiểm trên thị trường Việt Nam 1.2. Một số thuận lợi và khó khăn đối với Công ty bảo hiểm Hà Nội 1.2.1 Thuận lợi Trong điều kiện kinh tế hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nhập siêu, cơ cấu chủ yếu ở Việt Nam là máy móc thiết bị, vật tư chuẩn bị cho sản xuất (phân bón, sắt thép, xăng, dầu, bông, dụng cụ phụ tùng...). Những mặt hàng này do tính chất thương phẩm của nó nên buộc các nhà nhập khẩu phải tham gia bảo hiểm. Do đó đã mở rộng thị trường bảo hiểm lớn cho nhà bảo hiểm. - Do tính chất và đặc điểm hàng hóa bằng đường biển là chỉ trong một thời gian ngắn. Trong một năm nhà XNK có thể quay vòng vốn của mình nhiều lần bằng cách liên tục thực hiện các nghiệp vụ XNK hàng hóa. Do đó thị trường bảo hiểm tuy hẹp nhưng không phải là một thị trường đóng. Nó đã tạo cơ hội khai thác nghiệp vụ này cho các nhà bảo hiểm đầu tư lớn. - Hiện nay xu hướng quốc tế hóa ngày càng được đẩy mạnh trên phạm vi toàn cầu. Do đó vị thế thương mại của Việt Nam ngày càng được nâng lên, khả năng phát triển thị trường XNK sẽ tăng cả chiều rộng lẫn chiều sâu điều này sẽ tác động thị trường bảo hiểm này của Công ty Bảo hiểm Hà nội tuy muộn nhưng lại có những lợi thế nhất định như công ty rút được kinh nghiệm của người đi trước, tìm được đối thủ cạnh tranh để có những bước đi đúng đắn cho mình. Mặt khác, Công ty bảo hiểm Hà Nội là một thành viên trực thuộc Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam là một doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, là một doanh nghiệp bảo hiểm có uy tín lớn và lâu năm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam do đó đã tạo được lòng tin đối với khách hàng. - Những nhân tố nêu đã phần nào tác động đến việc triển khai hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hóa XNK của Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên sự tác động đó chỉ là nhân tố khách quan. Đối với công ty bảo hiểm Hà Nội là người trực tiếp đứng ra triển khai nghiệp vụ này phải tự chủ trong mọi hoạt động của mình và tự khẳng định mình bằng tất cả nỗ lực của các cán bộ trong công ty. Sự thành công sẽ đến nếu Công ty biết nắm chắc thời cơ tình hình để lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp nhất. 1.2.1 Khó khăn Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK có phạm vi hoạt động rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế quốc dân do đó sự tác động của những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai nghiệp vụ này tại Công ty bảo hiểm Hà nội. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ta thấy chủ yếu là hàng nông lâm thủy sản, hàng công nghiệp nhẹ và hàng công nghiệp khoáng sản. Đối với hàng nông lâm thủy sản (chiếm 40% tổng kim nghạch xuất khẩu) các nhà xuất khẩu Việt Nam thường có thói quen xuất hàng theo giá FOB( Fee on board - trách nhiệm qua lan can tàu. Bởi vì do có một số hạn chế nhất định trong sự phát triển của nghành ngoai thương ở Việt Nam. Như vậy người nhập khẩu sẽ đương nhiên tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm nước ngoài. Việc xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và công nghiệp khoáng sản chiếm gần 60% tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam đã mở ra thị trường bảo hiểm lớn. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu Việt Nam vẫn chưa có thói quen mua bảo hiểm. Số lượng hàng hóa XNK chốn mua bảo hiểm lên tới 15-20% tổng kim nghạch XNK. Thị trường XNK tuy có tiềm năng phát triển nhưng đó là một thị trường hẹp đối với các nhà bảo hiểm. Sự phát triển của thị trường này theo chiều sâu chứ không theo chiều rộng. Hàng năm tổng kim ngạch XNK của Việt Nam tăng nhưng số lượng các nhà XNK khẩu lại không tăng, họ chỉ tăng quy mô XNK. Do đó việc thu hút khách hàng mới đối với công ty bảo hiểm là rất khó. Hơn nữa, các công ty bảo hiểm khác đều triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này nên thị trường ngày một bị chia nhỏ. Điều này đã tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt trên thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK. Thị trường hàng hóa XNK phụ thuộc vào sự biến động của cán cân thương mại và thị thế thương mại của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Do đó, bên Xuất khẩu Việt Nam có thể bị ép mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm nước ngoài. Công ty bảo hiểm Hà nội do không khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK trong một số năm nên hiện nay lại phát triển lại từ đầu trong khi các đối thủ cạnh tranh đã chiếm được vị trí của mình trên thị trường với số lượng nhất định. Mặt khác, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK có một bề dày truyền thống và hiện nay đã phát triển rất cao. Do đó đòi hỏi người cán bộ bảo hiểm phải có trình độ nghiệp vụ tương đối cao và có nhiều kinh nghiệm, điều đã gây khó khăn cho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT135.doc
Tài liệu liên quan